Kinh Độ Tận Vong Linh - Kinh Thiên Đạo

Kinh Độ Tận Vong Linh - Kinh Thiên Đạo
A+ A-




Kinh Độ Tận Vong Linh

Kinh Thiên Đạo
Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối

kinh cầu hồn khi hấp hối

Rắp nhập cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống,
Chốn quê xưa giải mộng trần gian.
Dìu đường thoát tục nắm phan,
Trông Kinh Bạch Ngọc định thần giải căn.
Diêu Trì Cung sai nàng Tiên Nữ,
Phép Lục Nương gìn giữ Chơn hồn.
Tây phương Tiếp Dẫn Đạo Nhơn,
Phướn linh khai mở nẻo đường Lôi Âm.
(tên họ kẻ qui vị) thành tâm cầu nguyện,
Nguyện Chí Tôn linh hiển độ sanh.
Ăn năn sám hối tội tình,
Xét câu minh thệ gửi mình cõi thăng.
Dầu nghiệt chướng số căn quả báo,
Đừng hãi kinh, cầu đảo Chí Tôn.
Cửa Địa ngục, khá lánh chơn,
Ngọc Hư Cực Lạc, đon đường ruổi dong.
Dầu trọn kiếp sống không nên Đạo,
Dầu oan gia tội báo buộc ràng.
Chí Tôn xá tội giải oan,
Thánh, Thần, Tiên, Phật, cứu nàn độ vong.
Kìa chiếu diệu bóng hồng Bắc Đẩu,
Kìa im lìm phúc hậu Nam Tào.
Cảnh thăng trổi gót cho mau,
Xa vòng tục lự đặng chầu Chí Linh.
“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Khi Đã Chết Rồi

Kinh Khi Đã Chết Rồi

Ba mươi sáu cõi Thiên-Tào,
Nhập trong Bát Quái mới vào Ngọc-Hư.
Quê xưa trở cõi đọa từ,
Đoạt cơ thoát tục bấy chừ tuyệt luân.
Dưới chín lớp liên thần đưa rước,
Trên hồng quang phủ phước tiêu-diêu.
Linh-Tiêu-Điện, bảng danh nêu,
Nguyên-căn đẹp vẻ mỹ-miều cao thăng.
Kinh Bạch-Ngọc muôn lằn điễn chiếu,
Kêu chơn hồn vịn níu chơn-linh.
Năng lai năng khứ khinh khinh,
Mau như điễn chiếu nhẹ thành bóng mây.
Cửa Tây-Phương khá bay đến chốn,
Diệt trần tình vui hưởng tiêu-diêu.
Tiên-phong Phật-cốt mỹ-miều,
Vào kinh Bạch-Ngọc lễ triều CHÍ-LINH.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Tẫn Liệm

Kinh Tẫn Liệm

Dây oan nghiệt dứt rời trái chủ,
Nương huyền linh sạch giũ thất tình,
Càn khôn bước Thánh thượng trình,
Giải xong xác tục mượn hình Chí tôn.
Khối vật chất vô hồn viết tữ,
Đất biến hình tự thử qui căn,
Đừng gìn thân ái nghĩa nhân,
Xôn xao thoát khổ xa lần bến mê.
Hồn Trời hóa trở về Thiên cảnh,
Xác Đất sanh đến lịnh phục hồi,
Từ từ Cực Lạc an vui,
Lánh nơi trược khí hưởng mùi siêu thăng.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Cầu Siêu

Kinh Cầu Siêu

Đầu vọng bái Tây Phương Phật-Tổ,
A-Di-Đà Phật độ chúng dân.
Quan-Thế-Âm lân-mẫn ân-cần,
Vớt lê-thứ khổ trần đọa lạc.
Đại-Thánh Địa-Tạng-Vương Bồ-Tát,
Bố Từ-Bi tế-bạt vong hồn.
Cứu khổ nàn Thái-Ất Thiên-Tôn,
Miền âm-cảnh ngục-môn khai-giải.
Ơn Đông-Nhạc Đế-Quân quảng-đại,
Độ kẻ lành chế cải tai ương.
Chốn Dạ-đài Thập-Điện Từ-Vương,
Thấy hình khổ lòng thương thảm-thiết.
Giảm hình phạt bớt đường ly-tiết,
Xá linh-quang tiêu-diệt tiền-khiên,
Đặng nhẹ-nhàng thẳng đến cung Tiên,
Nơi Phước-địa ở yên tu-luyện.
Xin Trời Phật chứng lòng sở-nguyện,
Hộ thương-sanh u hiển khương-ninh.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Đưa Linh Cữu

Kinh Đưa Linh Cữu

Cầu các Trấn Thần linh trợ lịnh,
Giữ chơn-hồn xa lánh xác trần.
Nam-Mô Địa-Tạng thi ân,
Đưa đường Thiên-cảnh, lánh gần Phong-Đô.
Nam-Mô Tam-Trấn hư-vô,
Oai-nghiêm độ rỗi Cao-Đồ qui-nguyên.
Nam-Mô Tam-Giáo diệu-huyền,
Tuyệt luân Bát-Nhã đưa thuyền độ vong.
Nam-Mô Bạch-Ngọc công cồng,
Thần, Tiên, Thánh, Phật mở vòng trái oan.
Nam-Mô Thượng-Đế Ngọc-Hoàng,
Mở cơ tận độ nhẹ-nhàng chơn-linh.
Cửa Cực-Lạc thinh thinh rộng mở,
Rước vong hồn lui trở ngôi xưa.
Tòa sen báu vật xin đưa,
Chơn-linh an ngự cho vừa quả duyên.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Hạ Huyệt

Kinh Hạ Huyệt

Thức giấc mộng huỳnh-lương vừa mãn,
Tiếng phồn-ba hết thoáng bên tai.
Giải thi lánh chốn đọa-đày,
Chơn linh trong sạch ra ngoài Càn-Khôn.
Phép giải-oan độ hồn khỏi tội,
Phướn tiêu-diêu nắm mối trường-sanh.
Ơn nhờ hồng-phước Chí-Linh,
Lôi-Âm tự-toại, Bồng-Dinh hưởng nhàn.
Nhờ Hậu-Thổ xương tàn gìn-giữ,
Nghĩa CHÍ-TÔN tha thứ tiền-khiên.
Đưa tay vịn phép diệu-huyền,
Ngọc-Hư lập vị cửu tuyền lánh chơn.
Ngó Cực Lạc theo huờn Xá-lợi,
Cửu-Trùng-Thiên mở lối qui-nguyên.
Rõ-ràng Phật cốt tiền duyên,
Nước Cam-Lồ rửa sạch thuyền độ nhân.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Vãng Sanh Thần Chú

Vãng Sanh Thần Chú

Nam-mô
A-Di-Ðà Bà-Dạ, Ða-Tha-Già-Ða-Dạ,
Ða-Ðiệt-Dạ-Tha: A-Di-Rị-Ðô-Bà-Tì,
A-Di-Rị-Ða, Tất-Ðam-Bà-Tì,
A-Di-Rị-Ða, Tì-Ca-Lan-Ðế,
A-Di-Rị-Ða, Tì-Ca-Lan-Ða,
Già-Di-Nị, Già-Già-Na,
Chỉ-Ca-Ða-Lệ, Ta-Bà-Ha.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Khai Cửu Đại Tường Và Tiểu Tường

Kinh Khai Cửu Đại Tường Và Tiểu Tường

Đã quá chín từng Trời đến vị,
Thần đặng an, Tinh, Khí cũng an.
Tầng Trời gắng bước lên thang,
Trông mây nhìn lại cảnh nhàn buổi xưa.
Cõi thảm khổ đã vừa qua khỏi,
Quên trần ai mong mỏi Động Đào.
Ngó chi khổ hải sóng xao,
Đoạn tình yểm dục đặng vào cõi Thiên.
Giọt lụy của Cửu huyền dầu đổ,
Chớ đau lòng thuận nợ trầm luân.
Nắm cây huệ kiếm gươm thần,
Dứt tan sự thế nợ trần từ đây.
THƯỜNG CƯ NAM HẢI QUAN ÂM NHƯ LAI

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Đệ Nhứt Cửu

Kinh Đệ Nhứt Cửu

Vườn Ngạn Uyển sanh hoa đã héo,
Khối hình hài đã chịu rã tan.
Bảy dây oan nghiệt hết ràng,
Bợn trần rửa sạch muôn ngàn đau thương.
Kìa Thiên cảnh con đường vọi vọi,
Ánh Hồng Quân đương chói Ngọc Lầu,
Cung Thiềm gắng bước cho mau,
Thoát ba Thần phẩm đứng đầu Tam Thiên,
Khá tỉnh thức tiền duyên nhớ lại,
Đoạn cho rồi oan trái buổi sanh,
Đem mình nương bóng Chí Linh,
Định tâm chí Thánh mới gìn ngôi xưa.
Hồn định tỉnh đã vừa định tỉnh,
Phách anh linh ắt phải anh linh.
Quản bao thập ác lục hình,
Giải thi thoát khổ diệt hình đoạt căn.
NHỨT NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Đệ Nhị Cửu

Kinh Đệ Nhị Cửu

Tây Vương Mẫu vườn Đào ướm chín,
Chén trường sanh có lịnh ngự ban,
Tiệc hồng đã dọn sẵn sàng,
Chơn Thần khá đến hội hàng chư linh.
Đã thấy đủ Thiên đình huyền pháp,
Cổi giác thân lên đạp Ngân Kiều.
Đẩu tinh chiếu thấu Nguyên Tiêu,
Kim quang kiệu đỡ đến triều Ngọc Hư.
Khí trong trẻo dường như băng tuyết,
Thần im đìm dường nét thiều quang.
Xa chừng thế giái Địa Hoàn,
Cõi Thiên đẹp thấy nhẹ nhàng cao thăng.
NHỊ NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Đệ Tam Cửu

Kinh Đệ Tam Cửu

Cõi Thanh Thiên lên miền Bồng Đảo,
Động Thiên Thai bảy Lão đón đường,
Cam Lồ rưới giọt nhành dương,
Thất tình lục dục như dường tiêu tan.
Cung Đẩu Tốt nhặt khoan tiếng nhạc,
Đệ lịnh bài cánh hạc đưa linh.
Tiêu thiều lấp tiếng dục tình,
Bờ dương bóng phụng đưa mình nâng thân.
Cung Như Ý Lão Quân tiếp khách,
Hội Thánh minh giao sách Trường xuân.
Thanh quang rỡ rỡ đòi ngàn,
Chơn hồn khoái lạc lên đàng vọng Thiên.
TAM NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Đệ Tứ Cửu

Kinh Đệ Tứ Cửu

Sắc huỳnh chiếu roi vàng đường hạc,
Cõi Huỳnh Thiên nhẹ thoát chơn Tiên,
Năm Rồng đỡ nổi đầu thuyền,
Vào cung Tuyệt Khổ kiến Huyền Thiên Quân.
Trừ quái khí roi thần chớp nhoáng,
Bộ Lôi Công giải tán trược quang.
Cửa lầu Bát Quái chun ngang,
Hỏa Tinh Tam Muội thiêu tàn oan gia.
Đạp Thái Sơn nhảy qua Đẩu Suất,
Vịn Kim Câu đến chực Thiên Môn.
Chơn thần đã nhập Càn khôn,
Thâu quyền độ thế bảo tồn chúng sanh.
TỨ NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Đệ Ngũ Cửu

Kinh Đệ Ngũ Cửu

Ánh hồng chiếu đường mây rỡ rỡ,
Cõi Xích-Thiên vội mở ải-quan.
Thiên-Quân diêu động linh-phan,
Cả miền Thánh-vức nhộn-nhàng tiếp nghinh.
Đài Chiếu-giám cảnh minh nhẹ bước,
Xem rõ-ràng tội phước căn sinh.
Lần vào cung Ngọc diệt hình,
Khai kinh Vô-Tự đặng nhìn quả duyên.
Đắc văn-sách thông Thiên định Địa,
Phép huyền-công trụ nghĩa hóa thân.
Kỵ kim-quang kiến Lão-Quân,
Dựa xe Như-Ý oai thần tiễn thăng.
NGŨ NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Đệ Lục Cửu

Kinh Đệ Lục Cửu

Bạch Y Quan mở đàng rước khách,
Cõi Kim Thiên nhẹ tách Tiên xa.
Vào cung Vạn Pháp xem qua,
Cho tường cựu nghiệp mấy tòa Thiên nhiên,
Cung Lập Khuyết tìm duyên định ngự,
Lãnh Kim sa đặng dự Như Lai.
Minh Vương Khổng Tước cao bay.
Đem Chơn thần đến tận đài Huệ Hương.
Mùi ngào ngạt thơm luôn Thánh thể,
Trừ tiêu tàn ô uế sinh quang.
Thiên thiều trổi tiếng nhặt khoan,
Đưa linh thẳng đến Niết Bàn mới thôi.
LỤC NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Đệ Thất Cửu

Kinh Đệ Thất Cửu

Nhẹ phơ phới dồi dào không khí,
Hạo Nhiên Thiên đã chí môn quan.
Đẹp xinh cảnh vật đòi ngàn,
Hào quang chiếu diệu khai đàng thăng Thiên.
Cung Chưởng Pháp xây quyền Tạo hóa,
Kiến Chuẩn Đề thạch xá giải thi.
Dà Lam dẫn nẻo Tây Qui,
Kim chung mở lối kịp kỳ kỵ sen.
Động Phổ Hiền Thần Tiên hội hiệp,
Dở Kim Cô đưa tiếp linh quang.
Im lìm kìa cõi Niết Bàn,
Lôi Âm trống thúc lên đàng Thượng Tiêu.
THẤT NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Đệ Bát Cửu

Kinh Đệ Bát Cửu

Hơi Tiên tửu nực nồng thơm ngọt,
Phi Tưởng Thiên để gót tới nơi.
Mùi trần khi đã xa khơi,
Say sưa bầu khí bồi hồi chung phong.
Cung Tận Thức thần thông biến hóa,
Phổ Đà Sơn giải quả Từ Hàng.
Cỡi Kim Hẩu đến Tịch San,
Đẩu vân nương phép Niết Bàn đến xem.
Cung Diệt Bửu ngọc rèm đã xủ,
Nghiệp hữu hình tượng đủ vô vi.
Hồ Tiên vội rót tức thì,
Nước Cam Lồ rửa ai bi kiếp người.
BÁT NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Đệ Cửu Cửu

Kinh Đệ Cửu Cửu

Vùng thoại khí bát hồn vận chuyển,
Tạo Hóa Thiên sanh biến vô cùng,
Hội Bàn Đào, Diêu Trì Cung,
Phục sinh đào hạnh rượu hồng thưởng ban.
Cung Bắc Đẩu xem căn quả số,
Học triều nghi vào ở Linh Tiêu.
Ngọc Hư Cung, sắc lịnh kêu,
Thưởng, phong, trừng, trị phân điều đọa thăng.
Nơi Kim Bồn vàn vàn nguơn chất,
Tạo hình hài các bậc nguyên nhân.
Cung Trí Giác, trụ tinh thần,
Huờn hư mầu nhiệm thoát trần đăng Tiên.
CỬU NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Tiểu Tường

Kinh Tiểu Tường

Tịnh niệm phép Nhiên Đăng tưởng tín,
Hư Vô Thiên đến thính Phật điều.
Ngọc Hư đại hội ngự triều,
Thiều quang nhị bá Thiên Kiều để chơn.
Bồ Đề Dạ dẫn hồn thượng tấn,
Cực Lạc Quan đẹp phận Tây Qui.
Vào Lôi Âm, kiến A Di,
Bộ Công Di Lạc Tam Kỳ độ sanh.
Ao Thất Bửu gội mình sạch tục.
Ngôi liên đài quả phúc Dà Lam.
Vạn linh trổi tiếng mầng thầm.
Thiên thơ Phật tạo độ phàm giải căn.
DIÊU TRÌ KIM MẪU

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Đại Tường

Kinh Đại Tường

Hỗn Nguyên Thiên dưới quyền Giáo Chủ
Di Lặc đương thâu thủ phổ duyên
Tái sanh sửa đổi Chân Truyền
Khai cơ tận độ Cửu Tuyền diệt vong
Hội Long Hoa tuyển phong Phật Vị
Cõi Tây Phương đuổi quỷ trừ ma
Giáng linh Hộ Pháp Vi Ðà
Chuyển cây Ma Xử đuổi tà trục tinh
Thâu các Đạo hữu hình làm một
Trường thi Tiên Phật dượt kiếp khiên
Tạo đời cải dữ ra hiền
Bảo sanh nắm giữ diệu huyền Chí Tôn.
Thích Ca Mâu Ni Văn Phật

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Di Lạc Chơn Kinh

Di Lạc Chơn Kinh

BÀI KHAI KINH


Khai kinh kệ vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim thính văn đắc thọ trì
Nguyện giải Tân Kinh chơn thiệt ngã.
THÍCH CA MÂU NI VĂN PHẬT thuyết

DI LẠC CHƠN KINH

THƯỢNG THIÊN HỔN NGUƠN hữu: Barahma Phật, Civa Phật, Christma Phật, Thanh Tịnh Trí Phật, Diệu Minh Lý Phật, Phục Tưởng Thị Phật, Diệt Thể Thắng Phật, Phục Linh Tánh Phật, Nhứt thiết chư Phật, hữu giác, hữu cảm, hữu sanh, hữu tử trí khổ nghiệp chướng luân chuyển hóa sanh, năng du ta bà thế giới độ tận vạn linh đắc quy Phật vị.
 
HỘI THIÊN NGƯƠN hữu: Trụ Thiện Phật, Đa Ái Sanh Phật, Giải Thoát Khổ Phật, Diệu Chơn Hành Phật, Thắng Giải Ác Phật, nhứt thiết chư Phật tùng lịnh DI LẠC VƯƠNG PHẬT, năng chiếu diệu quang tiêu trừ nghiệp chướng.
 
Nhược hữu chúng sanh văn ngã ứng dương thoát nghiệt, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng tùng thị pháp điều Tam Kỳ Phổ Độ tất đắc giải thoát luân hồi, đắc lộ Đa La Tam Diệu Tam Bồ Đề thị chi chứng quả Cực Lạc Niết Bàn.
 
Nhược nhơn dương sanh, nhược nhơn hữu kiếp, nhược nhơn hữu tội, nhược nhơn vô tội, thính đắc ngã ngôn, phát tâm thiện niệm, tất đắc A Nậu Đa La Tam Diệu Tam Bồ Đề tất đắc giải thoát.
Nhược hữu nhơn thọ trì khủng kinh ma chướng, nhứt tâm thiện niệm: Nam mô Di Lạc Vương Bồ Tát, năng cứu khổ ách, năng cứu tam tai, năng cứu tật bịnh, năng độ dẫn chúng sanh thoát ư nghiệp chướng tất đắc giải thoát.
 
HƯ VÔ CAO THIÊN hữu: Tiếp Dẫn Phật, Phổ Tế Phật, Tây Quy Phật, Tuyển Kinh Phật, Tế Pháp Phật, Chiếu Duyên Phật, Phong Vị Phật, Hội Chơn Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật tùng lịnh NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT dẫn độ Chơn Linh đắc Pháp, đắc Phật, đắc duyên, đắc vị, đắc A Nậu Đa La Tam Diệu Tam Bồ Đề chứng quả nhập Cực Lạc Quốc, hiệp chúng đẳng chư Phật tạo định Thiên Thi tận độ Chúng Sanh đắc quy Phật vị.
 
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân tu trì thính ngã dục đắc Chơn Truyền niệm thử NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT. Thưởng du ta bà thế giái giáo hóa Chơn Truyền phổ tế Chúng Sanh giải thoát lục dục thất tình thoát đọa luân hồi tất đắc giải thoát.
 
TẠO HÓA HUYỀN THIÊN hữu: Quảng Sanh Phật, Dưỡng Dục Phật, Chưởng Hậu Phật, Thử Luân Phật, dữ Cửu vị Nữ Phật, , như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật tùng lịnh KIM BÀN PHẬT MẪU năng tạo, năng hóa Vạn Linh, năng du ta bà thế giái dưỡng dục quần sanh quy nguyên Phật vị.
 
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân thính ngã dục tu phát nguyện nam mô KIM BÀN PHẬT MẪU dưỡng dục quần linh nhược hữu sanh, nhược vị sanh, nhược hữu kiếp, nhược vô kiếp, nhược hữu tội, nhược vô tội, nhược hữu niệm, nhược vô niệm hườn hư thi hình đắc A Nậu Đa La Tam Diệu Tam Bồ Đề Xá Lợi Tử quy nguyên Phật vị tất đắc giải thoát.
 
PHI TƯỞNG DIỆU THIÊN hữu: Đa Pháp Phật, Tịnh Thiện Giáo Phật, Kiến Thắng Vị Phật, Hiển Hóa Sanh Phật, Trục Tà Tinh Phật, Luyện Đắc Pháp Phật, Hộ Trì Niệm Phật, Khai Huyền Cơ Phật, Hoán Trược Tánh Phật, Đa Phúc Đức Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, tùng lịnh TỪ HÀNG BỒ TÁT, năng du ta bà thế giái thi pháp hộ trì Vạn Linh Sanh Chúng.
 
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân tín ngã ưng đương phát nguyện nam mô TỪ HÀNG BỒ TÁT năng cứu tật bịnh, năng cứu tam tai, năng độ tận Chúng Sanh thoát ư tứ khổ, năng trừ tà ma, năng trừ nghiệp chướng, tất đắc giải thoát.
 
HẠO NHIÊN PHÁP THIÊN hữu: Diệt Tướng Phật, Đệ Pháp Phật, Diệt Oan Phật, Sát Quái Phật, Định Quả Phật, Thánh Tâm Phật, Diệt Khổ Phật, Kiên Trì Phật, Cứu Khổ Phật, Xá tội Phật, Giải Thể Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật tùng lịnh CHUẨN ĐỀ BỒ TÁT, PHỔ HIỀN BỒ TÁT thưởng du ta bà thế giái độ tận Vạn Linh.
 
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân tín ngã ưng đương phát nguyện Nam mô CHUẨN ĐỀ BỒ TÁT, PHỔ HIỀN BỒ TÁT năng trừ ma chướng quỉ tai, năng cứu khổ ách nghiệp chướng, năng độ Chúng Sanh quá ư Cực Lạc, tức đắc giải thoát.
Nam mô DI LẠC VƯƠNG PHẬT

-Barahma Phật
-Civa Phật
-Thanh Tịnh Trí Phật
-Diệu Minh Lý Phật
-Phục Tướng Thị Phật
-Diệt Thể Thắng Phật
-Phục Linh Tánh Phật
-Trụ Thiện Phật
-Đa Ái Sanh Phật
-Giải Thoát Khổ Phật
-Diệu Chơn Hành Phật
-Thắng Giải Ác Phật
-NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT
-Tiếp Dẫn Phật
-Phổ Tế Phật
-Tây Quy Phật
-Tuyển Kinh Phật
-Tế Pháp Phật
-Chiếu Duyên Phật
-Phong Vị Phật
-Hội Chơn Phật
-KIM BÀN PHẬT MẪU
-Quảng Sanh Phật
-Dưỡng Dục Phật
-Chưởng Hậu Phật
-Thủ Luân Phật
-Cửu Vị Nữ Phật
-TỪ HÀNG BỒ TÁT
-Đa Pháp Phật
-Tịnh Thiện Giáo Phật
-Kiến Đắc Vị Phật
-Hiển Hóa Sanh Phật
-Trục Tà Tinh Phật
-Luyện Đắc Pháp Phật
-Hộ Trì Niệm Phật
-Khai Huyền Cơ Phật
-Hoán Trược Tánh Phật
-Đa Phúc Đức Phật
-CHUẨN ĐỀ BỒ TÁT
-PHỔ HIỀN BỒ TÁT

-Diệt Tướng Phật
-Đệ Pháp Phật
-Diệt Oan Phật
-Sát Quái Phật
-Định Quả Phật
-Thành Tâm Phật
-Diệt Khổ Phật
-Kiên Trì Phật
-Cứu Khổ Phật
-Xá tội Phật
-Giải Thể Phật

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Sám Hối

Kinh Sám Hối

1. Cuộc danh lợi là phần thưởng quí,
Ðấng Hóa Công xét kỹ ban ơn.
Lòng đừng so thiệt tính hơn,
Ngày đêm than thở dạ hờn ích chi.
Người sang cả là vì duyên trước,
Kẻ không phần luống ước cầu may.
Sang giàu chẳng khác như mây,
Khi tan khi hiệp đổi xây không thường.

9. Việc sanh tử như đường chớp nhoáng,
Bóng quang âm ngày tháng dập dồn.
Giữ cho trong sạch linh hồn,
Rèn lòng sửa nết, đức tồn hậu lai.
Ðiều họa phước không hay tìm tới,
Tại mình vời nên mới theo mình.
Cũng như bóng nọ tùy hình,
Dữ lành hai lẽ công bình thưởng răn.

17. Khi vận thới lung lăng chẳng kể,
Lúc suy vi bày lễ khẩn cầu.
Sao bằng ở phải buổi đầu,
Thần minh chánh trực có đâu tư vì.
Người làm phước có khi mắc nạn,
Kẻ lăng loàn đặng mạng giàu sang.
Ấy là nợ trước còn mang,
Duyên kia chưa dứt còn đang thưởng đền.

25. Nếu vội trách người trên thì đọa,
Cũng có khi tai họa trả liền.
Ðó là báo ứng nhãn tiền,
Mau thì mình chịu, lâu truyền cháu con.
Lo danh vọng hao mòn thân thể,
Ham làm giàu của để bằng non.
Một mai nhắm mắt đâu còn.
Ðem vàng chuộc mạng đổi lòn đặng chăng.

33. Trên đầu có bủa giăng Thần Thánh,
Xét xem người tánh hạnh dữ hiền.
Làm lành đặng hưởng phước duyên,
Trong lòng nham hiểm, lộc quyền giảm thâu.
Ðừng tính kế độc sâu trong dạ,
Mà gổ ganh oán chạ thù vơ.
Trái oan nào khác mối tơ,
Rối rồi không gỡ, bao giờ cho ra.

41. Thấy hình khổ dạ ta đâu nỡ,
Khuyên làm lành trừ đỡ tội căn.
Quấy rồi phải biết ăn năn,
Ở cho nhân hậu, chế răn lòng tà.
Hãy có dạ kỉnh già thương khó,
Chớ đem lòng lấp ngõ tài hiền.
Xót thương đến kẻ tật nguyền,
Ðỡ nâng yếu thế, binh quyền mồ côi.

49. Làm con phải trau giồi hiếu đạo,
Trước là lo trả thảo mẹ cha.
Lòng thành thương tưởng ông bà,
Nước nguồn cây cội mới là tu mi.
Giá trong sạch nữ nhi trượng tiết,
Giữ cho tròn trinh liệt mới mầu.
Ở sao đáng phận đạo dâu,
Thờ chồng tiết hạnh mới hầu gái ngoan.

57. Ðừng có cậy giàu sang chẳng nể,
Không kiêng chồng, khi dể công cô.
Ấy là những gái hung đồ,
Xúi chồng tranh cạnh hồ đồ sân si.
Tánh ngoan ngạnh không vì cô bác,
Thói lăng loàn bạn tác khinh khi.
Ngày sau đọa chốn Âm Ty,
Gông kềm khảo kẹp, ích gì rên la.

65. Người tai mắt đạo nhà khá giữ,
Nghĩa anh em cư xử thuận hòa.
Vẹn tròn đạo cả giềng ba,
Kính anh mến chị thì là phận em.
Trên thương dưới xét xem kẻ nhỏ,
Lúc lâm nàn chớ bỏ tránh xa.
Cũng là một gốc sanh ra,
Gồm bao nâng đỡ, ruột rà thương nhau.

73. Người trung trực lo âu việc nước,
Hưởng lộc vua tìm chước an bang.
Chớ làm con giặc tôi loàn,
Thuế sưu đóng đủ, đừng toan kế tà.
Phận làm tớ thật thà trung tín,
Với chủ nhà trọn kính trọn ngay.
Áo cơm no ấm hằng ngày,
Của người châu cấp ơn dày nghĩa sâu.

81. Ðừng gặp việc câu mâu biếng nhác,
Mà quên lời phú thác dặn dò.
Trước người giả bộ siêng lo,
Sau lưng gian trá, so đo tấc lòng,
Phải chừa thói loài ong tay áo,
Bớt học đòi khỉ dạo dòm nhà,
Gìn lòng ngay thẳng thật thà,
Nói năng minh chánh, lời ra phải nhìn.

89. Chớ quyệt ngữ mà khinh kẻ dại
Ðừng gian mưu hãm hại người hiền.
Anh em bằng hữu kết nguyền,
Một lòng tin cậy, phải kiêng phải vì.
Chẳng thấy khó mà khi mà thị,
Gặp người giàu mà vị mà nâng.
Dầu khi gặp lúc gian truân,
Cũng đồng giúp ích, chớ đừng mặt ngơ.

97. Làm người phải kỉnh thờ Thần Thánh,
Giữ lời nguyền, tâm tánh tưởng tin.
Hễ là niệm Phật tụng kinh,
Rèn lòng sửa nết, khá in như nguyền.
Chừa thói xấu đảo điên trong dạ,
Muôn việc chi chẳng khá sai lời.
Dối người nào khác dối Trời,
Trời đâu dám dối, ra đời ngỗ ngang.

105. Chớ lầm tưởng trong hang vắng tiếng,
Mà dể duôi sanh biến lăng loàn.
Con người có trí khôn ngoan,
Tánh linh hơn vật, biết đàng lễ nghi.
Phải cho biết kỉnh vì trên trước,
Ðừng buông lời lấn lướt hồ đồ.
Thuận cùng chú bác cậu cô,
Bà con chòm xóm, ra vô khiêm nhường.

113. Thấy già yếu hẹp đường nhượng tránh,
Ðừng chỗ đông buông tánh quá vui.
Cợt người ra dạ dể duôi,
Sanh điều xích mích, đâu nguôi dạ hờn.
Khi tế tự chớ lờn chớ dể,
Việc quan hôn thủ lễ nghiêm trang.
Gìn lòng chẳng khá lăng loàn,
Lễ nghi vẹn giữ vững vàng chớ quên.

121. Giàu sang ấy Ơn Trên giúp sức,
Phước ấm no túc thực túc y.
Thấy người gặp lúc tai nguy,
Ra tay tế độ, ấy thì lòng nhơn.
Thương đồng loại cũng hơn thí bạc,
Thấy trên đường miểng bát miểng chai.
Hoặc là đinh nhọn, chông gai,
Mau tay lượm lấy, đoái hoài kẻ sau.

129. Ấy làm phước khỏi hao khỏi tốn,
Chẳng có đâu mòn vốn thâm tiền.
Bắc cầu, đắp sửa đường liền,
Kẻ qua người lại bước yên gọn gàng.
Thi ân hậu bạc ngàn khó sánh,
Ráng tập thành sửa tánh từ hòa.
Việc lành chẳng khá bỏ qua,
Tuy là nhỏ nhít cũng là công phu.

137. Năng làm phải nhựt nhu ngoạt nhiễm,
Lâu ngày dồn tính đếm có dư.
Phước nhiều, tội quá tiêu trừ,
Phép Trời thưởng phạt, không tư chẳng vì.
Thấy lỗi mọn chớ nghi chẳng hại,
Thường dạn làm, tội lại hằng hà.
Vì chưng tụ thiểu thành đa,
Họa tai báo ứng chẳng qua mảy hào.

145. Giữa bụi thế giữ sao khỏi vấy,
Biết ăn năn xét lấy sửa lòng.
Làm người nhơn nghĩa xử xong,
Rủi cho gặp lúc long đong chẳng sờn.
Hễ biết nghĩa thọ ơn chẳng bội,
Giúp cho người chớ vội khoe ra.
Việc chi cũng có chánh tà,
Làm điều phải nghĩa, lánh xa vạy vò.

153. Khi gặp chuyện khá dò xét cạn,
Liệu sức mình cho hẳn sẽ làm.
Chớ đừng thấy của dấy tham.
Giục người làm quấy ắt cam đồng hình.
Ở ngay thẳng Thần minh bảo hộ,
Nết xéo xiên gặp chỗ rạc tù.
Trong đời rất hiếm võ phu,
Lường cân tráo đấu, dối tu cúng chùa.

161. Còn hoi hóp tranh đua bay nhảy,
Nhắm mắt rồi phủi thảy lợi danh.
Lương tâm thường xét cho rành,
Của không phải nghĩa, chớ sanh lòng tà.
Người quân tử chẳng thà chịu khổ,
Ðâu làm điều nhục tổ hổ tông.
Ðứa ngu thấy của thì mong,
Không gìn tội lỗi, phép công nước nhà.

169. Bày chước độc, xúi ra việc quấy,
Tổn cho người mà lấy lợi riêng.
Hễ nghe khua động đồng tiền,
Sửa ngay làm vạy, không kiêng chút nào.
Người nghèo khổ biết sao than kể,
Kẻ lễ nhiều cậy thế ỷ quyền.
Làm quan tính kế đảo điên,
Gạt thâu gia sản, đất điền của dân.

177. Thả tôi tớ thôn lân húng hiếp,
Bức gái lành, ép thiếp đòi hầu.
Trong lòng mưu chước rất sâu,
Mai sau suy sụp, đáo đầu ra chi.
Gái xướng kỵ, trai thì du đãng,
Phá tan hoang gia sản suy vi.
Làm người phải khá xét suy,
Của rơi chớ lượm, tham thì phải thâm.

185. Còn một nỗi gian dâm đại tội,
Lấy vợ người làm lỗi tiết trinh.
Tuy là Trời Ðất rộng thinh,
Mắt dường sao nháy chiếu minh lòng người.
Lương tâm biết hổ ngươi chừa lỗi,
Mới biệt phân sừng đội lông mang.
Việc lành việc dữ đồn vang,
Tuy là bóng khuất xương tan tiếng còn.

193. Gái tiết hạnh giữ tròn danh giá,
Chớ học đòi mèo mả gà đồng.
Làm điều nhục nhã tổ tông,
Tiếng nhơ giặt rửa biển sông đặng nào.
Trai trung hiếu sửa trau ba mối,
Ðừng buông lung lầm lỗi năm hằng.
Hung hoang tội báo nghiệt căn,
Kẻ chê người thị không bằng cỏ cây.

201. Khá tiết kiệm hằng ngày no đủ,
Tánh siêng năng lam lụ làm ăn.
Lòng chừa biếng nhác kiêu căng,
Của tiền lãng phí không ngằn phải tiêu.
Lòng Trời Ðất thương đều muôn vật,
Ðức háo sanh Tiên Phật một màu.
Thượng cầm hạ thú lao xao,
Côn trùng thảo mộc loài nào chẳng linh.

209. Nó cũng muốn như mình đặng sống,
Nỡ lòng nào tuyệt giống dứt nòi.
Bền công kinh sách xem coi,
Vô can sát mạng, thiệt thòi rất oan.
Chớ kiếm thế gọi ngoan xảo trá.
Lưới rập chim, thuốc cá, đốt rừng.
Thương thay phá noãn lẫy lừng,
Tội căn báo ứng, biết chừng nào an.

217. Lại có kẻ hung hoang ác nghiệt,
Cướp giựt rồi chém giết mạng người,
Ðoàn năm, lũ bảy dạo chơi,
Hiếp người lương thiện, phá đời hại dân.
Tua khá tưởng thương lần nòi giống,
Hãy xét vì mạng sống khó cầu.
Cũng đừng bài bạc lận nhau,
Rủ ren rù quến, lấy xâu ăn đầu.

225. Phải hiểu biết máy sâu họa kín,
Thánh Thần đâu tư lịnh bỏ qua.
Thường ngày tuần khắp xét tra,
Phạt người hung ác, đọa sa A Tỳ.
Sống dương thế, hành thì căn bịnh,
Xui tai nàn dấp dính theo mình.
Ăn năn khử ám hồi minh,
Từ bi Trời Phật rộng tình xét cho.

233. Ðừng cố oán thầm lo gây họa,
Ðem lòng thù hăm dọa rấp đường.
Ðốt nhà, phá cống, tháo mương,
Nước tràn lụt ngập, ruộng vườn tan hoang.
Thêm liều mạng đặng toan đổ tội,
Cho người hiền chịu lỗi vương mang.
Khi hồn lìa khỏi trần gian,
Hóa ra ngạ quỉ cơ hàn khổ thân.

241. Ðời nhiều kẻ khi Thần thị Thánh,
Ám muội lòng, tánh hạnh gổ ganh.
Thấy ai làm phải làm lành,
Xiểm gièm cho đặng khoe danh của mình.
Lại còn có tánh tình hiểm độc,
Xúi phân chia thân tộc ruột rà.
Làm cho chồng vợ lìa xa,
Cả đời nghiệt báo, oan gia chẳng rời.

249. Muốn tránh đặng khỏi nơi tội quá,
Lánh kẻ tà, chẳng khá nên gần.
Thí tiền thí bạc, chẩn bần,
Người đau thí thuốc, Thánh Thần phước ban.
Ðêm thanh vắng chớ toan mưu dối,
Xúi trẻ thơ lầm lỗi ngỗ ngang.
Âm đài gông tróng sẵn sàng,
Chờ khi thác xuống, cổ mang hành hình.

257. Các thơ truyện huê tình xé hủy,
Kẻo để đời làm lụy luân thường.
Nói lời tục tĩu không nhường,
Tội hành cắt lưỡi, trăm đường ghê thay!
Lại có kẻ miệng ngay lòng vạy,
Tởi làm chùa, dối cậy in kinh.
Ăn gian xới bớt cho mình,
Dầu qua dương pháp, luật hình Diêm Vương.

265. Thêm những sãi giả nương cửa Phật,
Của thập phương châu cấp thê nhi.
Ngày sau đọa lạc Âm Ty,
Thường thường khảo kẹp chẳng khi nào rời.
Thấy giấy chữ rớt rơi lượm lấy,
Ðốt ra tro bỏ chảy dòng sông.
Thủy triều vận tải biển đông,
Lòng hằng dường ấy, phước đồng ăn chay.

273. Chịu cực khổ đắng cay biết mấy,
Cuốc, cày, bừa, gieo, cấy, gặt, đong,
Làm ra lúa gạo dày công,
Dầm mưa dan nắng kẻ nông nhọc nhằn.
Nhờ Viêm Ðế đức cao ân nặng,
Tìm lúa khoai, người đặng no lòng.
Ngày ngày vọng niệm chớ vong,
Chẳng nên hủy hoại mới phòng khỏi hoang.

281. Chớ hiểm độc, dạ lang lần lựa,
Nhơn thất mùa, bế vựa gắt gao.
Chờ khi lúa phát giá cao,
Khai ra bán mắc, Trời nào dung cho.
Ơn trợ giúp khá lo đền báo,
Giữ vẹn tròn nghĩa đạo với đời.
Túng cùng vay mượn của người,
Vui lòng tính trả vốn lời cho kham.

289. Chớ oán chạ, tham lam ngược ngạo,
Bội nghĩa ân, trở tráo chước sâu.
Luân hồi thưởng phạt rất mầu,
Chuyển thân tái thế, ngựa trâu công đền.
Người phú túc vun nền âm đức,
Lấy lòng nhơn giúp sức trợ nghèo.
Chớ sanh chước hiểm hẹp eo,
Lời tăng quá vốn, kẻ nghèo xiết than.

297. Làm mặt phải bạc ngàn cúng Phật,
Ép kẻ nghèo cố đất cầm vườn.
Phật Trời nhơn vật đồng thương,
Có đâu hưởng của bất lương mà mời.
Phận làm chủ lấy lời nhỏ nhẹ,
Mà nghiêm trừng mấy kẻ tôi đòi.
Ðừng lòng nham hiểm hẹp hòi,
Buông lời chửi rủa, đòn roi không từ.

305. Tánh ác độc, tội dư tích trữ,
Chốn Âm Cung luật xử nặng nề.
Ðánh đòn khảo kẹp gớm ghê,
Hành hình khổ não chẳng hề nới tay.
Miền Âm cảnh nhiều thay hình lạ,
Cõi dương trần tội quá dẫy đầy.
Thánh Hiền kinh sách dạy bày,
Lòng người ám muội, lỗi gây ra hoài.

313. Kẻ lỗ mãng chê bai khinh dể,
Rằng thác rồi còn kể ra chi.
Nhãn tiền trả quả tức thì,
Tội dư con cháu một khi đền bồi.
Chớ quấy tưởng luân hồi phi lý,
Mà hung hăng chẳng nghĩ chẳng suy.
Thi hài như gỗ biết gì,
Linh hồn là chủ thông tri việc đời.

321. Lúc chung mạng, dứt hơi hồn xuất,
Quỉ Vô thường sẵn chực đem đi.
Dắt hồn đến chốn Âm Ty,
Xét xem công quả chẳng ly mảy hào.
Người lương thiện ra vào thong thả,
Kẻ tội nhiều đày đọa rất minh,
Phật Trời phép lạ hiển linh,
Hành cho tan xác, huờn hình như xưa.

329. Con bất hiếu, xay, cưa, đốt, giã,
Mổ bụng ra phanh rã tim gan.
Chuyển thân trở lại trần gian,
Sanh làm trâu chó đội mang lông sừng.
Kìa những gái lẫy lừng hạnh xấu,
Bỏ vạc đồng đốt nấu thảm kinh.
Vì chưng trinh tiết chẳng gìn,
Có chồng còn lại ngoại tình với trai.

337. Kẻ tham lợi cột mai cột mối,
Chuốt trau lời giả dối ngọt ngon.
Dỗ dành rù quến gái non,
Làm hư hoại tiết cháu con nhà người.
Lòng lang độc vui cười hớn hở,
Chốn Diêm đình phạt quở trừng răn.
Gông kềm khảo kẹp lăng xăng,
Hành cho đáng kiếp tội căn đã làm.

345. Ngục đao kiếm cầm giam phạm ác,
Tánh gian dâm hành phạt gớm ghê.
Giáo gươm bén nhọn tư bề,
Chém đâm máu chảy tràn trề ngục môn.
Hành đến chết huờn hồn sống lại,
Cho đầu thai ở tại thanh lâu.
Ngày đêm đưa rước chực chầu,
Công bình Thiên đạo, phép mầu Chí Linh.

353. Móc nhọn vắt treo mình nhỏng nhảnh,
Cối đạp đồng rất mạnh giã dần.
Ấy là phạt kẻ lường cân,
Ðo gian đong thiếu, Thánh Thần chẳng kiêng.
Bầy chó dữ mang xiềng chạy đại,
Thấy tội nhân xúm lại phân thây.
Hình nầy phạt kẻ dại ngây,
Khinh khi Tam giáo, đọa đày thế ni.

361. Ao nước nóng sôi thì sục sục,
Dầm cho người rã rục thịt xương.
Cũng vì lòng dạ vô lương,
Ðệ huynh bất mục, chẳng thương đồng bào.
Nhiều gộp núi như đao chơm chởm,
Thấy dùn mình táng đởm rất ghê,
Thây người máu chảy dầm dề,
Tiếng la than khóc tư bề rùm tai.

369. Phạt những kẻ sửa ngay ra vạy,
Tớ phản thầy, quan lại bất trung.
Hành rồi giam lại Âm cung,
Ngày đêm đánh khảo, trăng cùm xiềng gông.
Hình bào lạc cột đồng vòi vọi,
Ðốt lửa hồng ánh giọi chói lòa.
Trói người vào đó xát chà,
Vì chưng hung bạo đốt nhà, bắn săn.

377. Có cọp dữ nhăn răng đưa vấu,
Gặp tội nhân quào quấu xé thây.
Ấy vì lòng dạ chẳng ngay,
Giết người lấy của bị nay hình nầy.
Ao rộng lớn chứa đầy huyết phẩn,
Xô người vào lội lặn nhờm thay.
Tanh hôi mình mẩy vấy đầy,
Trồi lên hụp xuống, gậy cây đánh đầu.

385. Ðể hành kẻ chứa xâu lường của,
Trù ếm người, chửi rủa Tổ tông.
Ðồ dơ giặt đổ rạch sông,
Ðương khi uế trược thẳng xông chỗ thờ.
Vào bếp núc lúc nhơ không kể,
Phơi áo quần chẳng nể Tam quang.
Buông lời tục tĩu dâm loàn,
Lâu mau nặng nhẹ, chịu mang tội nầy.

393. Ao rộng sâu chứa đầy giòi tửa,
Hơi tanh hôi thường bữa lẫy lừng.
Gạo cơm hủy hoại quen chừng,
Phạt ăn dơ dáy mới ưng tội hình.
Cột trói ngược quá kinh rất lạ,
Quỉ Dạ Xoa đánh, vả, kẹp, cưa.
Vì chưng chửi gió mắng mưa,
Kêu tên Thần Thánh chẳng chừa chẳng kiêng.

401. Bàn chông nhọn liền liền đánh khảo,
Tra tội nhơn gian giảo ngược ngang.
Hành người bế địch trợ hoang,
Thừa năm hạn đói mưu toan bức nghèo.

405. Thành Uổng Tử cheo leo gớm ghiếc,
Cầm hồn oan rên siết khóc than.
Dương gian ngỗ nghịch lăng loàn,
Liều mình tự vận, không màng thảo ngay.
Xuống Ðịa ngục, đọa đày hành mãi,
Ðúng số rồi, còn phải luân hồi.
Hóa công xem xét đền bồi,
Lành siêu, dữ đọa, thêm nhồi tội căn.

413. Cầu Nại Hà bắc giăng sông lớn,
Tội nhơn qua óc rởn dùn mình.
Hụt chơn ván lại gập ghình,
Nhào đầu xuống đó, cua kình rỉa thây.
Nhiều thứ rắn mặt mày dữ tợn,
Ngóng cổ trông mắt trợn dòm người.
Gắp thây nuốt sống ăn tươi,
Vì bày thưa kiện, móc bươi xúi lời.

421. Trong núi lửa bay hơi tanh khét,
Linh hồn người đầy nghẹt trong ngoài.
Phạt răn quến gái dụ trai,
Bày ra thuốc độc phá thai tuyệt loài.
Người ở thế mấy ai khỏi lỗi,
Biết lạc lầm sám hối tội căn.
Tu tâm sửa tánh ăn năn,
Ba giềng nắm chặt, năm hằng chớ lơi.

429. Ngặt có kẻ tưởng Trời tin Phật,
Mà trong lòng chẳng thật kính thành.
Lâm nguy miệng vái làm lành,
Tai qua rồi lại dạ đành phụ vong.
Chớ thái quá, đừng lòng bất cập,
Phép tu hành luyện tập nhiều ngày.
Làm lành, xem phải, nói ngay,
Giữ ba điều ấy thiệt rày phước duyên.

437. Lời kệ sám duy truyền khuyến thiện,
Câu văn từ luận biện thật thà.
Chẳng dùng những tiếng sâu xa,
E không hiểu thấu, diễn ra ích gì!
Chớ buông tiếng thị phi khinh dể,
Rán làm lành phước để cháu con.
Làm người nhơn nghĩa giữ tròn,
Muôn năm bóng khuất, tiếng còn bay xa.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối

Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối

Nghe lời khuyến thiện rất may,
Nguyện lòng niệm Phật ăn chay làm lành.
Ngày ngày tập sửa tánh thành,
Đêm đêm tự tỉnh tu hành ăn-năn.
Một là hối-ngộ tội căn,
Hai là cầu đặng siêu-thăng cửu-huyền.
Đương sanh hạnh hưởng phước duyên,
Trong nhà già trẻ miên-miên thái-bình.
Sau dầu đến chốn Diêm-Đình,
Linh-hồn trong sạch nhẹ mình thảnh-thơi.
Luân-hồi trở lại trên đời,
Tiền công thì cũng Phật Trời thưởng ban.
Cầu xin trăm họ bình-an,
Nước giàu dân mạnh thanh-nhàn muôn năm.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Bài Xưng Tụng Công Ðức Phật, Tiên, Thánh, Thần

Bài Xưng Tụng Công Ðức Phật, Tiên, Thánh, Thần

Hào-quang chiếu chín từng mây bạc,
Thần, Thánh, Tiên thừa hạc cỡi rồng.
Phép linh thiệt rất chí công,
Hóa sanh muôn vật, ngưỡng trông phước đời.
Trên Điện-Ngọc Vua Trời ngự giáng,
Trước đền vàng phán đoán phân-minh.
Cõi trần trung giái thinh-thinh,
Phàm gian lao-khổ đao binh tai-nàn.
Lòng Trời cảm cứu an lê-thứ,
Độ chúng sanh muôn xứ gội ơn.
Đạo Nho truyền dạy nghĩa nhân,
Văn-Tuyên Khổng-Thánh khuyến dân răn đời.
Ghi các sách ngàn lời để lại,
Chép nhiều thơ vạn đại truyền ra.
Tây-phương cõi Phật chói lòa,
Từ-bi Phật-Tổ hải-hà độ dân (cúi đầu).
Lòng cảm xót dương trần lận đận,
Ra oai-linh tiếp-dẫn nhơn cầm.
Phổ-Đà có Phật Quan-Âm (cúi đầu),
Ra công cứu thế, ân thâm đức dày.
Nhiều kiếp đã đầu thai biết mấy,
Xuống Hồng-trần khuyến dạy thương sanh.
Lão-Quân ứng hóa Tam-Thanh,
Khuyên răn nhơn vật lòng lành chớ xao.
Cơ huyền-diệu Đạo Cao minh-chánh,
Hiển phép mầu ma lánh quỉ kiêng.
Trừ yêu có Thánh Tề-Thiên,
Qui-y Phật pháp ở miền Tây-Phương.
Oai bốn hướng Thần nhường quỉ sợ,
Đức ba giềng tế trợ thương sanh.
Hớn-Trào Quan-Thánh bia danh,
Trung, can, nghĩa, khí, háo sanh giúp đời.
Tuần ba cửa, cõi Trời đều dụng,
Xét bốn phương, dân chúng dữ lành.
Linh-Tiêu Thái-Bạch Trường-Canh,
Truyền tâu Đế-Khuyết dữ lành nhơn gian.
Chí từ-huệ giúp an lê-thứ,
Thông rõ đời nhơn sự kiết hung.
Đại-Tiên ở chốn Thiên-cung,
Lòng lành thi phú thung-dung độ người.
Ánh Xá-lợi sáng ngời Cực-Lạc,
Hiện kim thân Bồ-Tát hóa duyên.
Thiên-Cung: Tinh Tú, Thánh, Tiên,
Địa kỳ: Thần Tướng đàn tiền giáng-lâm.
Lòng sở vọng lâm-dâm tụng-niệm,
Xin giải nàn Nam-Thiệm Bộ-Châu.
Chúng sanh cảm đức cao sâu,
Rèn lòng, sửa nết, lo-âu làm lành.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Giới Tâm Kinh

Giới Tâm Kinh

Vọng Thượng-Đế chứng lòng thành-tín,
Chúng sanh đồng bái kỉnh khẩn-nguyền.
Nguyền cho trăm họ bình yên,
Nhà nhà no ấm khỏi phiền khỏi than.
Nguyền Khổng-Thánh bảo toàn Nho-Giáo,
Lấy nghĩa nhơn Đại-Đạo truyền ra.
Tây-phương Phật-Tổ Di-Đà,
Nam-Hải Phổ-Đà cứu khổ Quan-Âm.
Lẽ báo ứng cao thâm huyền-diệu,
Cho chúng sanh đặng hiểu răn mình.
Đạo-Quân đức hóa háo sinh,
Rộng quyền máy nhiệm an-linh cứu đời.
Xin xót thương con người ngây dại,
Phép huyền-hư truyền dạy thế-gian.
Mong nhờ lịnh Đức Thánh-Quan,
Ra oai tiêu-diệt cho tàn ác ma.
Trường-Canh chói rạng lòa Kim-Khuyết,
Xin ban ơn giải nghiệt cho đời.
Tề-Thiên Đại-Thánh để lời,
Thiện nam, tín nữ nghe thời phải vưng.
Chớ tự phụ, cũng đừng khinh ngạo,
Lẽ Trời hằng quả báo chẳng sai.
Lời khuyên già trẻ gái trai,
Khá tua sửa nết, ăn chay làm lành.
Đấng Tạo-Hóa hóa sanh muôn vật,
Phú cho người tánh rất linh thông.
Đặt ra có họ, có dòng,
Vua, thầy, cha, mẹ, vợ, chồng, cháu, con.
Tình huynh-đệ tày non tợ biển,
Nghĩa hữu bằng phải kiếng phải tin.
Cang tam, thường ngũ phải gìn,
Chứa đức, làm lành, làm phước, làm doan.
Gặp người đói rách khốn nàn,
Ra tay chẩn cứu cho toàn nghĩa nhơn.
Mựa chớ ham giọng đờn tiếng quyển,
Thói dâm phong rù quyến nguyệt hoa.
Có ngày hư nát cửa nhà,
Xa gần đồn tiếng thúi tha vô cùng.
Trường đổ bác cũng đừng léo tới,
Phường trăng hoa hát bội khá từ.
Những điều nhơ-nhuốc phải chừa,
Hỗn-hào mắng nhiếc, nói thừa nói thêm.
Nơi địa ngục gông kềm sẵn đủ,
Để răn loài dâm phụ gian phu.
Ai ai bền chí mà tu,
Phước đem đổi tội cho phu dễ gì?

Có thơ rằng :

Dễ gì lộn kiếp đặng làm người,
May đặng làm người chớ dể-duôi.
Lành dữ hai đường vừa ý chọn,
Lành như tòng, dữ tợ hoa tươi.
Hoa tươi, tòng bá, khác nhau xa,
Tòng bá xơ rơ kém sắc hoa.
Gặp tiết đông-thiên sương tuyết bủa,
Chỉ còn tòng bá, chẳng còn hoa.

Còn hoa mà lại ích chi đâu,
Đẹp dáng tươi màu đặng mấy lâu.
Thử sánh ngọn đèn cùng bóng nguyệt,
Gió lay đèn tắt, nguyệt làu-làu.

Làu-làu một tấm tợ đài gương,
Trung, hiếu, tiết, trinh vẹn mọi đường.
Sang cả mặc người đừng bợ-đỡ,
Hoạnh tài trơ mắt khỏi tai-ương.

Tai ương hoạn họa luống ưu sầu,
Vì bởi hay bày chước hiểm sâu.
Lập kế đồ mưu âm hại chúng,
Kiếp sau mang lấy lốt heo trâu.

Heo trâu thân thể mạt hèn thay,
Mãn kiếp lại còn bị xẻ thây.
Lộng lộng lưới Trời tuy sếu-sáo,
Thưa mà chẳng lọt mảy lông mày.

Mày râu đứng giữa cõi trần-gian,
Gắng sức chống cho vững miếu đàng.
Phận gái tam tùng cùng tứ-đức,
Tề-gia nội trợ vẹn là ngoan.

Ngoan-ngùy chơn-chánh Phật Thần thương,
Chơn-chánh liên-hòa với thiện lương.
Thần-Thánh thành, do người chánh thiện,
Thiện-lương chơn-chánh đức không lường.

Không lường kẻ thiện với người hung,
Bợ đỡ giàu-sang phụ khốn cùng.
Ngoài mặt giả tuồng người trượng nghĩa,
Trong lòng dối kết chút tình chung.

Tình chung đặng cậy thế người sang,
Mượn tiếng khua môi với xóm làng,
Lời dạy Thần Tiên không kể đến,
Đạo mầu chẳng cứ, cứ khoe-khoang.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối

KINH CẦU HỒN KHI HẤP HỐI

(Giọng Nam Ai)

BÀI KINH
1. Rấp nhập cảnh Thiêng liêng Hằng sống.
2. Chốn quê xưa giải mộng trần gian.
3. Dìu đường thoát tục nắm phan.
4. Trông Kinh Bạch Ngọc định thần giải căn.
5. Diêu Trì Cung sai nàng Tiên Nữ,
6. Phép Lục Nương gìn giữ chơn hồn.
7. Tây phương Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn,
8. Phướn linh khai mở nẻo đường Lôi Âm.
9. (Tên họ kẻ qui vị) thành tâm cầu nguyện,
10. Nguyện Chí Tôn linh hiển độ sanh.
11. Ăn năn sám hối tội tình,
12. Xét câu Minh Thệ, gởi mình cõi thăng.
13. Dầu nghiệt chướng số căn quả báo.
14. Ðừng hãi kinh, cầu đảo Chí Tôn.
15. Cửa Ðịa ngục khá lánh chơn.
16. Ngọc Hư Cực Lạc đon đường ruổi dong.
17. Dầu trọn kiếp sống không nên đạo,
18. Dầu oan gia tội báo buộc ràng.
19. Chí Tôn xá tội giải oan.
20. Thánh Thần Tiên Phật cứu nàn độ vong.
21. Kìa chiếu diệu bóng hồng Bắc Ðẩu,
22. Kìa im đìm phúc hậu Nam Tào.
23. Cảnh thăng trổi gót cho mau,
24. Xa vòng tục lự đặng chầu Chí Linh.
(Niệm 3 lần Câu Chú của Thầy).


Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối do Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ ban cho, để tụng lúc một vị Tín đồ đang hấp hối hay vừa mới dứt hơi.

Hấp hối: Sắp chết. Dứt hơi: Hơi thở chấm dứt, chết.

Câu 1: Rấp nhập cảnh Thiêng liêng Hằng sống.

Rấp: Ðịnh, toan, sắp sửa.
Nhập: Ði vào.
Cảnh Thiêng liêng Hằng sống: Cõi của những người đắc đạo. Con đường Thiêng Liêng Hằng Sống: là con đường dành cho các chơn hồn, khi thoát xác, từ bỏ cõi trần, trở về với Ðức Chí Tôn nơi cõi Thiêng liêng để được định vị thăng hay đọa.

Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo Con đường Thiêng Liêng Hằng Sống:

"Con đường về với Ðức Chí Tôn không phải dễ, mà cũng không phải tới liền. Muốn về với Ðức Chí Tôn, ta phải qua nhiều Cung, nhiều Ðiện (Y theo 9 bài Kinh Tuần Cửu, Tiểu Tường và Ðại Tường). Mỗi Cung, chúng ta gặp một sự lạ, mỗi Ðiện chúng ta gặp một huyền vi khác nhau. Phải đi từ Cung nầy đến Ðiện nọ, nên gọi là Dục tấn trên Con đường Thiêng liêng Hắng Sống. Về được với Ðức Chí Tôn không còn hạnh phúc nào bằng."

C.1: Sắp sửa bước vào cõi Thiêng liêng Hằng sống.

Câu 2: Chốn quê xưa giải mộng trần gian.

Chốn quê xưa: Nơi mình đã được sanh ra và sống ở đó nhiều năm.

Theo Giáo lý của Ðạo Cao Ðài, các Nguyên nhân là những người được Ðức Chí Tôn sanh ra từ lúc Khai Thiên nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống. Sau đó, Ðức Phật Mẫu cho các Nguyên nhân đầu thai xuống cõi trần, để khai hóa cho các Hóa nhân và cũng để kinh nghiệm học hỏi tiến hóa. Khi xong nhiệm vụ thì phải trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống là nơi quê cũ.

Như vậy, cõi trần là cõi tạm, nơi mà Ðức Phật Mẫu sai xuống công tác một thời gian, khi xong việc thì phải trở về. Cái sống nơi cõi trần là sống tạm, cái sống nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống mới là cái sống vĩnh cửu.

Giải: Cởi bỏ ra. Mộng trần gian: Giấc mộng trần. Cuộc sống của con người nơi cõi trần và các hoạt động ở nơi đó được các Ðấng Thiêng liêng xem như là một giấc mộng, bởi vì nó ngắn ngủi và không bền, tan mất theo thời gian. Do đó, các Ðấng thường dùng các thành ngữ: Giấc Huỳnh lương, Giấc Nam Kha, Giấc mộng xuân, Giấc mộng trần để chỉ về đời sống của con người nơi cõi trần.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Huỳnh lương một giấc cuộc đời in.)

Giải mộng trần gian: Cởi bỏ giấc mộng trần, tức là cởi bỏ cuộc sống nơi cõi trần.
Ý nói: Ðã chết.

C.2: Cái chết nơi cõi trần là để linh hồn trở về nơi quê cũ.

Câu 3: Dìu đường thoát tục nắm phan.

Dìu: Dẫn dắt.
Thoát tục: Linh hồn thoát ra khỏi cõi trần.
Phan: Cây phướn dùng để dẫn đường.

C.3: Khi linh hồn thoát ra khỏi cõi trần thì phải đi theo cây phướn dẫn đường.

Câu 4: Trông Kinh Bạch Ngọc định thần giải căn.

Trông: Nhìn, trông thấy.
Kinh Bạch Ngọc: Bạch Ngọc Kinh, tòa lâu đài bằng ngọc trắng là nơi ngự của Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế. (Xem chi tiết nơi: C.6 Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế)

Ðịnh thần: Làm cho tinh thần ổn định, bình tỉnh trở lại.
Giải căn: Cởi bỏ cái gốc rễ, tức là cởi bỏ hết tất cả các việc làm dù thiện dù ác trong lúc còn sống nơi cõi trần.

C.4: Nhìn lên Bạch Ngọc Kinh đặng định tỉnh tinh thần và cởi bỏ hết các việc làm trong lúc còn sống nơi cõi trần.

Câu 5-6: Diêu Trì Cung sai nàng Tiên Nữ,
Phép Lục Nương gìn giữ chơn hồn.

Lục Nương: Vị Nữ Tiên đứng hàng thứ 6 trong Cửu vị Tiên Nương ở Diêu Trì Cung nơi cõi thiêng liêng. Lục Nương có Bửu pháp là Cây Phướn Truy Hồn hay Phướn Tiêu Diêu để gìn giữ và dẫn dắt các Chơn hồn đi vào Cửu Trùng Thiên.

CHƠN HỒN: Nghĩa thông thường là Chơn linh, Linh hồn. Nhưng trong tất cả các bài kinh do Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ, Ngài đều dùng từ ngữ Chơn hồn để chỉ Chơn thần của con người, tức là Xác thân Thiêng Liêng, hay Nhị xác thân.

C.5-6: Ðức Phật Mẫu nơi Diêu Trì Cung sai Tiên Nữ Lục Nương cầm Phướn Truy hồn đến gìn giữ Chơn thần người mới chết.

Câu 7 -8: Tây phương Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn,
Phướn linh khai mở nẻo đường Lôi Âm.

Tây phương: Chỉ cõi Tây Phương Cực Lạc, hay Cực Lạc Thế Giới, vì cõi nầy ở về hướng Tây, so với Ngọc Hư Cung. Tây Phương Cực Lạc có chùa Lôi Âm (Lôi Âm Tự).

Thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ, Ðức Phật A-Di-Ðà làm Chưởng giáo Cực Lạc Thế Giới. Sang thời Tam Kỳ Phổ Ðộ, Ðức Phật A-Di-Ðà trao chức vụ nầy lại cho Ðức Di-Lạc Vương Phật, Giáo Chủ Hội Long Hoa, và Ðức A-Di-Ðà vào ngự nơi Lôi Âm Tự.

Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn: là vị Phật có nhiệm vụ tiếp rước và dẫn dắt các Chơn hồn đến Cực Lạc Thế Giới. Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn cầm Cây Phướn Tiếp Dẫn, có giáng cơ cho bài thi:

Tang điền thương hải chẳng bao xa,
Khuyên trẻ lo tu kịp tuổi già.
Danh lợi đường đời như cụm khói,
Công thành cửa Phật tợ Liên hoa.
Lăng xăng mặt đất lo không cửa,
Thanh tịnh vườn Tiên khỏe vạn nhà.
Nhớ tới Long Hoa gần sắp đặt,
Bần Tăng vội vã dắt thuyền qua.
(Trích trong Văn Thi Hiệp Tuyển của Phối Sư Thái Ðến Thanh)

C.7-8: Nơi cõi Cực Lạc Thế Giới ở về hướng Tây, Ðức Phật Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn cầm cây Phướn linh là cây Phướn Tiếp Dẫn, đi khai mở con đường đi đến Lôi Âm Tự.

Câu 9-10: Ớ (Tên họ kẻ qui vị) thành tâm cầu nguyện,
Nguyện Chí Tôn linh hiển độ sanh.

: Cất tiếng gọi tên họ của người đang hấp hối hay vừa mới dứt hơi.
Thành tâm: Tấm lòng thành thật.
Cầu nguyện: Cầu là xin, nguyện là mong ước. Cầu nguyện là cầu xin Ðức Chí Tôn ban cho mình điều mà mình mong ước. Linh hiển: Linh là thiêng liêng, hiển là hiện ra rõ ràng. Linh hiển là hiện rõ ra một cách Thiêng Liêng huyền diệu.
Ðộ sanh: Ðộ là cứu giúp, sanh là sống. Ðộ sanh là cứu giúp thoát qua biển khổ để được sống nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

C.9-10: Kêu gọi Chơn hồn người chết hãy thành tâm cầu nguyện Ðức Chí Tôn, xin Ðức Chí Tôn linh hiển cứu giúp thoát qua biển khổ để được đi lên sống nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Câu 11-12: Ăn năn sám hối tội tình,
Xét câu Minh Thệ, gởi mình cõi thăng.

Ăn năn: Cảm thấy ray rứt đau xót trong lòng về lầm lỗi của mình đã gây ra.
Sám hối: Ân hận những lỗi lầm của mình và thật lòng muốn sửa đổi, không để cho tái phạm nữa.
Tội tình: Tội lỗi đáng bị trừng phạt.
Cõi thăng: Cõi của các linh hồn được siêu thăng, tức là cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Minh Thệ: Minh là thề ước, Thệ là thề nguyền. Minh Thệ là lời thề hứa chắc phải thực hiện đúng điều đã nguyện.

Khi một người muốn nhập môn vào Ðạo Cao Ðài, người đó phải lập Minh Thệ trước Thiên bàn thờ Ðức Chí Tôn, có vị Chánh Trị Sự hay của Chức sắc sở tại chứng kiến.

Lời Minh Thệ do Ðức Chí Tôn đặt ra, có in trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. I. 17, gồm 36 chữ, chép ra như sau:

Tôi tên ....................... tuổi ..........


Xét câu Minh Thệ: Hồi tưởng xem xét lại trong suốt kiếp sanh của mình nơi cõi trần, mình có giữ đúng Lời Minh Thệ của mình không? Tức là:

Có đổi dạ đổi lòng không?

Có hiệp đồng cùng chư môn đệ không?

Có gìn luật lệ Cao Ðài không?

Nếu có điều nào mình làm không đúng Lời Minh Thệ thì phải ăn năn sám hối và cầu khẩn Ðức Chí Tôn tha thứ.

C.11-12: Hãy nhớ rõ Lời Minh Thệ khi nhập môn vào Ðạo để tự xét mình mà ăn năn sám hối tội tình, cầu khẩn Ðức Chí Tôn tha thứ và cứu rỗi để được siêu thăng lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Câu 13: Dầu nghiệt chướng số căn quả báo.

Nghiệt chướng: Nghiệt là cái mầm ác tạo nghiệp ác, Chướng là trở ngại. Nghiệt chướng là sự ngăn trở do nghiệp ác gây ra. Kiếp trước mình làm nhiều việc gian ác, nó sẽ trở thành Nghiệp ác, ảnh hưởng lên kiếp sống nầy, làm cho kiếp nầy phải bị nhiều chướng ngại như: Bệnh tật, tai ương. Sự báo ứng đó hoàn toàn theo đúng Luật Nhân quả.

Số căn: Cái số phận của mình được định bởi cái nghiệp do các việc làm thiện ác của mình đã gây ra trong các kiếp sống trước.
Quả báo: Cái kết quả báo đáp lại những việc làm thuở trước. Làm lành thì được báo đáp bằng những điều may mắn tốt đẹp; làm ác thì được báo đáp bằng những tai họa và phiền não.

C.13: Dù cho số phận mình bị nghiệt chướng nên gặp phải hoạn nạn tai ương báo đáp lại.
* Kinh Lễ in bên Pháp năm 1952:
  • Dầu nghiệp chướng ...
* Kinh TÐ-TÐ năm 1936, 1968, 1974, 1975:
  • Dầu nghiệt chướng ...
Khảo Dị -
Nghiệp chướng: Nghiệp là con đường đi từ Nhân tới Quả. Nghiệp được tạo ra bởi các việc làm lành hay dữ trong kiếp trước, tuy nó vô hình nhưng nó ảnh hưởng lên kiếp sống hiện tại, bằng sự may và sự rủi, để làm cho kiếp sống hiện tại được hạnh phúc hay đau khổ. Việc làm lành sẽ tạo nên Nghiệp lành (Thiện nghiệp), cái Nghiệp lành nầy nó theo ủng hộ mình, nâng đỡ mình (mà mình gọi đó là dịp may). Còn việc làm ác sẽ tạo ra Nghiệp ác (Bất thiện nghiệp), cái Nghiệp ác nầy nó theo báo hại mình (mà mình gọi đó là xui xẻo, rủi ro) khiến mình bị hoạn nạn tai ương và phiền não.

Vậy, Nghiệp chướng là những ngăn trở khó khăn trong kiếp sống hiện tại do Nghiệp ác tạo ra.

Hai từ ngữ: Nghiệt chướng và Nghiệp chướng, xem như đồng nghĩa, nhưng Nghiệt chướng có ý nghĩa rõ rệt hơn.

Câu 14: Ðừng hãi kinh, cầu đảo Chí Tôn.

Hãi kinh: Hãi là sợ, kinh là sợ sệt lắm. Hãi kinh hay Kinh hãi là rất sợ sệt.
Cầu đảo: Cầu là xin; đảo là cúng tế cầu xin. Cầu đảo là cúng tế cầu xin.

C.14: Ðừng quá sợ sệt, hãy cúng tế và cầu khẩn Chí Tôn.

Câu 15-16: Cửa Ðịa ngục khá lánh chơn.
Ngọc Hư Cực Lạc đon đường ruổi dong.

Ðịa ngục: Cõi tối tăm thấp kém nhất, dùng để giam giữ và trừng trị các linh hồn tội lỗi.
Khá: Nên.
Lánh chơn: Bước đi lánh ra chỗ khác.
Ngọc Hư: Ngọc Hư Cung, ở từng Trời thứ 10 Hư Vô Thiên, là cơ quan cầm quyền chánh trị Càn Khôn Thế Giới. Không có một ngôi sao nào, một Mặt Trời nào hay một Ðịa cầu nào đứng trong Càn Khôn Vũ Trụ mà không chịu dưới quyền của Ngọc Hư Cung.
Cực Lạc: Cực Lạc Thế giới hay Tây phương Cực Lạc, là cõi của chư Phật, hoàn toàn an vui sung sướng.
Ðon đường: Hỏi thăm dò cho biết đường đi.
Ruổi dong: Ði thẳng một mạch cho mau tới nơi.

C.15-16: Hãy bước đi lánh xa cõi Ðịa ngục, hỏi thăm đường để đi thẳng một mạch tới Ngọc Hư Cung và Cực Lạc Thế Giới.

Câu 17-18: Dầu trọn kiếp sống không nên đạo,
Dầu oan gia tội báo buộc ràng.

Sống không nên đạo: Sống mà không làm được việc gì có tánh cách đạo đức, sống mà không làm được việc gì hữu ích cho Ðạo. Ý nói: Người không thực tâm tu hành, theo Ðạo đặng dựa hơi cầu lợi, không thành tâm tín ngưỡng.

Oan gia: Oan là thù giận, gia là người. Oan gia là người có mối thù hận với mình. Tội báo: Báo đáp lại cái tội lỗi đã gây ra lúc trước. Buộc ràng: Ràng buộc, dùng dây buộc lại, không cho sút ra.

C.17-18: Dầu cho trọn kiếp sống mà không làm được việc gì đạo đức, dầu cho kẻ oan gia đến bắt buộc phải đền trả cái tội lỗi đã gây ra lúc trước.

Câu 19: Chí Tôn xá tội giải oan.

Xá tội: Tha thứ tội lỗi.
Giải oan: Cởi bỏ hết các thù giận, tức là cởi bỏ hết các mối dây oan nghiệt.

C.19: Cầu xin Ðức Chí Tôn xá tội và giải oan.

Trong thời kỳ Khai Ðạo, Ðức Chí Tôn đại khai ân xá, ban cho Phép Giải Oan để cởi bỏ hết các oan nghiệt đã gây ra trong kiếp sống, đồng thời cũng ban cho: Phép Xác để tẩy rửa Chơn thần cho trong sạch. Phép Ðoạn căn để cắt đứt 7 Dây Oan nghiệt, cho Vong hồn được siêu thăng. Ðây là thời kỳ mà nhơn loại được hưởng nhiều ơn huệ nhứt của Chí Tôn.

Câu 20: Thánh Thần Tiên Phật cứu nàn độ vong.

Cứu nàn: Cứu giúp tai nạn. Chữ Nàn là do chữ Nạn đọc trại ra.
Ðộ vong: Cứu độ vong hồn (linh hồn người chết).

C.20: Các Ðấng Thần, Thánh, Tiên, Phật, cứu giúp các tai nạn và độ rỗi linh hồn người chết.

Câu 21-22: Kìa chiếu diệu bóng hồng Bắc Ðẩu,
Kìa im đìm phúc hậu Nam Tào.

Chiếu diệu: Chiếu là rọi sáng, diệu là rực rỡ. Chiếu diệu là chiếu sáng rực rỡ.
Bóng hồng: Ánh sáng màu hồng.
Bắc đẩu: Ngôi sao sáng ở hướng Bắc, nằm đúng trên trục quay của Ðịa cầu, nên còn được gọi là sao Bắc Cực. Sao Bắc đẩu là một định tinh, các ngôi sao khác thì chuyển động quanh sao Bắc đẩu. Cho nên sao Bắc đẩu là trung tâm của Càn Khôn Vũ Trụ. Do đó, Ðức Chí Tôn bảo vẽ Thiên Nhãn ngay trên ngôi sao Bắc đẩu. Sao Bắc đẩu nằm trong chùm sao Thất Tinh, gồm 7 ngôi sao, mà Thiên văn học gọi là Tiểu Hùng Tinh. Chùm sao Thất tinh có hình cái bánh lái tàu, sao Bắc đẩu là ngôi sao ở đầu cán bánh lái.
Nam Tào: Ngôi sao ở hướng Nam. Sao Nam Tào cũng được gọi là sao Nam Cực, vì nó xác định gần đúng hướng Nam của Ðịa cầu. Rất khó nhìn thấy sao Nam Tào, vì nó ở rất thấp, nằm gần chơn trời. Muốn tìm sao Nam Tào, chúng ta tìm chùm sao chữ Thập (La Croix du Sud), kéo một đường thẳng tưởng tượng nối dài nét sổ dài của chữ Thập xuống phía chơn trời, chúng ta gặp một ngôi sao hơi lu, đó là Nam Tào.

Hai vị Tiên cai quản 2 ngôi sao Nam Tào và Bắc Ðẩu là: Nam Cực Tinh Quân và Bắc Ðẩu Tinh Quân. Tương truyền hai vị Tinh Quân nầy coi Bộ Sanh và Bộ Tử của nhơn loại.

Im đìm: Yên lặng hoàn toàn. Phúc hậu: Phúc hay Phước là điều may mắn tốt lành, Hậu là dày dặn. Phúc hậu là phước đức dày dặn, hay làm điều lành cho người khác.

C.21-22: Kìa là ngôi Bắc đẩu chiếu ra rực rỡ ánh sáng màu hồng; kìa là ngôi Nam Tào lặng yên và phúc hậu.

Câu 23-24: Cảnh thăng trổi gót cho mau,
Xa vòng tục lự đặng chầu Chí Linh.

Cảnh thăng: Cảnh mà các linh hồn siêu thăng đến ở, đó là cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Trổi gót: Cất bước lên đường. Trổi là cất lên, gót là cái gót chân.

Tục lự: Tục là tầm thường thấp kém, chỉ cõi trần; Lự là lo lắng. Tục lự là những nỗi lo lắng của con người sống nơi cõi trần.
Chầu: Hầu vua để chờ nghe mệnh lệnh.
Chí Linh: Rất thiêng liêng, chỉ Ðức Chí Tôn.

C.22-23: Hãy cất bước đi mau lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, lánh xa khỏi vòng tục lự, đặng lên chầu Ðức Chí Tôn.
* Kinh Lễ in bên Pháp năm 1952:
  • tục lụy...
* Kinh TÐ-TÐ năm 1936, 1968, 1974, 1975:
  • tục lự ...
Tục lụy: Lụy là buồn rầu, phiền não;
Tục lự là những nỗi phiền não nơi cõi trần.
Khảo Dị -
Kinh Khi Đã Chết Rồi

Kinh Khi Đã Chết Rồi

KINH KHI ÐÃ CHẾT RỒI

(Giọng Nam Ai)

BÀI KINH
1. Ba mươi sáu cõi Thiên tào,
2. Nhập trong Bát Quái mới vào Ngọc Hư.
3. Quê xưa trở, cõi đọa từ.
4. Ðoạt cơ thoát tục, bấy chừ tuyệt luân.
5. Dưới Chín lớp Liên thần đưa bước.
6. Trên hồng quang phủ phước tiêu diêu.
7. Linh Tiêu Ðiện bảng danh nêu,
8. Nguyên căn đẹp vẻ mỹ miều cao thăng.
9. Kinh Bạch Ngọc muôn lằn điển chiếu.
10. Kêu Chơn hồn vịn níu Chơn linh.
11. Năng lai năng khứ khinh khinh,
12. Mau như điển chiếu, nhẹ thành bóng mây.
13. Cửa Tây phương khá bay đến chốn.
14. Diệt trần tình vui hưởng tiêu diêu.
15. Tiên phong Phật cốt mỹ miều.
16. Vào Kinh Bạch Ngọc lễ triều Chí Linh.
(Niệm 3 lần Câu Chú của Thầy).

GIẢI NGHĨA

Kinh Khi Ðã Chết Rồi do Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ ban cho, dùng để tụng cho những Tín đồ khi đã chết rồi, tụng kèm với Kinh Cầu Siêu.


Câu 1-2: Ba mươi sáu cõi Thiên tào,
Nhập trong Bát Quái mới vào Ngọc Hư.

Tào: Cơ quan có nhiệm vụ chuyên môn trong Triều đình.
Thiên Tào: Cơ quan có nhiệm vụ chuyên môn trong Triều đình của Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế. Mỗi Thiên Tào là một từng Trời.

Ba mươi sáu cõi Thiên Tào là 36 từng Trời, gọi là Tam thập lục Thiên. (Xem: C.18 Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế).
Nhập: Ði vào.
Bát Quái: Bát Quái Đài nơi cõi thiêng liêng.
Ngọc Hư: Ngọc Hư Cung.

Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo Con đường Thiêng Liêng Hằng Sống mô tả Bát Quái Ðài và Ngọc Hư Cung, xin chép ra sau đây :

"Ðài ấy có 8 góc, kêu là Bát Quái Ðài, không thể gì chúng ta tả ra với lời nói đặng, bởi Ðài ấy huyền bí, biến hóa vô cùng, nó có 8 cửa, trong 8 cửa, chúng ta ngó thấy cả Vạn linh và vật loại, các hình thể vạn linh đều xuất hiện, hình ảnh sáng suốt hiện ra hào quang chiếu diệu. Trong 8 góc có 8 cái cầu. Lạ thay! Cầu ấy không phải bằng cây ván mà nó là 8 đạo hào quang. Cầu ấy bắc ngang bờ. Dưới cầu ấy, chúng ta ngó thấy dường như một Bích Hải, nước xao sóng dợn như biển sôi nổi đó vậy. Trong 8 góc, chúng ta thấy đó, chắc cả thảy đều để ý nơi góc ta đến, thấy nhơn loại đi tới đi lui nhiều hơn hết. Lạ thay! Cầu ấy rất huyền diệu, ai đứng lên đó được, mới biết mình nhập vô Bát Quái Đài.

Lúc để bước lên cầu, cầu ấy chuyển đi, làm cho chúng ta phải yếu, đi không đặng, chúng ta muốn thối bộ. Khi chơn vừa bước tới, chính mình ta ngó thấy như mình yếu đi, nhưng người nào bước tới cũng đặng. Ði được nửa chừng, nếu không đủ Thiên vị, hay vì tội tình oan gia nghiệt chướng chi mà chúng ta đã đào tạo nơi mặt thế nầy, chúng ta tới nửa cầu sẽ bị lọt xuống Bích Hải. Lọt xuống đó rồi, ta thấy hồi lúc đi, còn ở trên cầu, chúng ta thấy hình ảnh còn đẹp đẽ tốt tươi, hễ lọt xuống Bích Hải rồi, chúng ta thấy hình thù đen thui dị hợm lắm, ta không thể tưởng tượng, còn hơn loài mọi kia, tối đen như vậy." (Bích Hải cũng còn được gọi là Ao Ô Trì.)

"Vậy kiếm hiểu coi Bát Quái Đài ấy là gì? Phải chăng là Tòa Tam Giáo của Ðức Chí Tôn do Thánh Ngôn để lại. ...

Nếu chúng ta xin phép Ðức Chí Tôn vô Ðài ấy, chúng ta biết trước là Tòa Tam Giáo Ngọc Hư Cung. ...

Chí Tôn có Bát Quái Đài, chúng ta ở ngoài thấy mênh mông, hào quang chiếu diệu một Tòa nhà 8 cửa. Khi chúng ta vô rồi, Ðài ấy biến mất, chỉ còn Càn Khôn Vũ Trụ chung quanh. Ðài ấy vẫn xây, xây mãi, mà ta biết rằng Ðài ấy là Tòa Tam Giáo, chúng ta không thấy cái trạng thái hình thể nó ra sao. Khi chúng ta đến, hào quang chiếu diệu xông lên như ngọn lửa vậy."

C.1-2: Phía trên là Tam thập lục Thiên. Vào trong Bát Quái Đài rồi mới vào được Ngọc Hư Cung.

Câu 3: Quê xưa trở, cõi đọa từ.

Quê xưa: Nơi mình đã được sanh ra, lớn lên và sống ở đó nhiều năm. Quê xưa thật sự của mình là cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Trở: Trở lại, trở về.
Từ: Từ bỏ, từ giã.
Cõi đọa: Cõi trần. "Trần là cõi khổ để đọa bậc Thánh Tiên có lầm lỗi. Ấy là cảnh sầu để trả xong quả, hoặc về ngôi cũ, hoặc trả không xong quả, phải mất cả Chơn linh là Luân hồi, nên kẻ bị đọa trần gọi là Khách trần." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. II. 3)

C.3: Trở lại cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, từ bỏ cõi trần vì nó là cõi đọa.

Câu 4: Ðoạt cơ thoát tục, bấy chừ tuyệt luân.

Ðoạt cơ thoát tục: Ðoạt đặng cơ quan giải thoát khỏi cõi trần. Tục là tầm thường thấp kém, chỉ cõi trần.
Bấy chừ: Bấy giờ.
Tuyệt: Dứt hẳn.
Luân: Luân hồi.
Tuyệt luân: Dứt hẳn luân hồi, tức là đắc đạo.

C.4: Ðoạt đặng cơ quan giải thoát khỏi cõi trần, tức nhiên lúc bấy giờ dứt hẳn sự luân hồi: Ðắc đạo.

Câu 5: Dưới Chín lớp Liên thần đưa bước.

Chín lớp: Chín từng Trời, tức là Cửu Trùng Thiên. (Xem: C.8 Niệm Hương).
Liên: Bông sen.
Thần: Thiêng liêng mầu nhiệm. Liên thần là cái bông sen mầu nhiệm, mà khi Chơn hồn bước lên đứng trên đó thì bông sen bay lên, đưa chơn hồn đi lên các từng Trời.
Ðưa bước: Ðưa đi.

C.5: Phía dưới Chín từng Trời, có một bông sen mầu nhiệm gọi là Liên thần, đưa chơn hồn bay lên các từng Trời.

* Kinh Lễ 1952, Kinh Thế Đạo - Thiên Đạo 1936, 1968, 1974:
  • đưa bước.
* Kinh Thế Đạo - Thiên Đạo năm 1975:
  • đưa rước.
Khảo Dị -
Câu 6: Trên hồng quang phủ phước tiêu diêu.

Hồng quang: Ánh sáng màu hồng.
Phủ: Bao trùm xuống, bao phủ.
Phước: Ðiều may mắn tốt lành.
Tiêu diêu: Tiêu là lượn trên cao, diêu hay dao là xa xôi. Tiêu diêu là đi chơi đó đây một cách thảnh thơi nhàn hạ.

C.6: Trên thì có ánh sáng màu hồng bao phủ ban phước cho được thảnh thơi nhàn hạ dạo chơi đây đó.

Câu 7-8: Linh Tiêu Ðiện bảng danh nêu,
Nguyên căn đẹp vẻ mỹ miều cao thăng.

Linh Tiêu Ðiện: Nơi Ðức Chí Tôn họp Thiên triều. (Xem: C.2 Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu).
Bảng danh: Tấm bảng đề tên những người thi đậu (tức là đắc đạo).
Bảng danh nêu: Nêu tên họ lên bảng cho biết đó là những người đắc đạo trở về.

Nguyên căn: Nguyên là buổi đầu, căn là gốc rễ. Nguyên căn là những người được sanh ra từ buổi đầu tiên, lúc khai Thiên, được gọi là Nguyên nhân.
Mỹ miều: Xinh đẹp.
Cao thăng: Bay lên cao, tức là được siêu thăng lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

C.7-8: Nơi Linh Tiêu Ðiện, tên họ được nêu lên bảng, đó là những nguyên nhân đắc đạo, hình dáng xinh đẹp, cao thăng lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Câu 9: Kinh Bạch Ngọc muôn lằn điển chiếu.

Kinh Bạch Ngọc: Bạch Ngọc Kinh, nơi thường ngự của Ðức Chí Tôn.
Lằn điển: Làn sóng điện.
Chiếu: Phát ra và rọi sáng. Muôn lằn điển chiếu là chỉ ánh hào quang phát ra vì nó giống như các làn sóng điện. Ngày nay, khoa học cho chúng ta biết rằng, ánh sáng truyền đi theo dạng sóng, giống y như các làn sóng điện truyền thanh hay truyền hình.

C.9: Bạch Ngọc Kinh phát ra muôn ánh hào quang chiếu sáng chung quanh, giống như các làn sóng điện.

Câu 10: Kêu Chơn hồn vịn níu Chơn linh.

Chơn hồn: Chơn thần. Chúng ta lưu ý rằng, Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn luôn luôn dùng chữ Chơn hồn để chỉ Chơn thần.
Vịn: Ðặt bàn tay tựa vào để có thế vững.
Níu: Nắm chặt.
Vịn níu: Dùng tay nắm chặt. Chơn linh: Linh hồn.

C.10: Kêu gọi Chơn thần hãy giữ chặt Chơn linh.

Câu 11-12: Năng lai năng khứ khinh khinh,
Mau như điển chiếu, nhẹ thành bóng mây.

Năng: Chữ Hán, Năng là có khả năng làm được việc.
Lai: Tới, đến.
Khứ: Ði.
Năng lai: Có khả năng đi đến.
Khinh: Nhẹ.
Khinh khinh: Nhẹ nhàng. Mau như điển chiếu: Ði nhanh như làn sóng điện truyền đi.

C.11-12: (Chơn hồn) có khả năng đến và đi một cách nhẹ nhàng, nhanh như làn sóng điện, nhẹ như đám mây bay.

Câu 13: Cửa Tây phương khá bay đến chốn.

Cửa Tây phương: Cửa đi vào Cực Lạc Thế giới ở hướng Tây.

C.13: Nên bay đến cửa đi vào cõi Cực Lạc Thế giới ở hướng Tây.

Câu 14: Diệt trần tình vui hưởng tiêu diêu.

Trần: Bụi bặm, chỉ cõi trần.
Trần tình: Những tình cảm của con người nơi cõi trần, thường có ý chỉ các tình cảm xấu: Nộ (Giận), Ố (Ghét), Ai (Buồn), Dục (Muốn). Những tình cảm xấu nầy thường làm mất công đức và gây chướng ngại trên đường tu tiến, nên cần phải diệt nó bằng cách chuyển hóa nó vào nẻo cao thượng.
Tiêu diêu: (Xem C. 6).

C.14: Tiêu diệt những tình cảm xấu để hưởng được sự vui vẻ thảnh thơi đi chơi đây đó.

Câu 15: Tiên phong Phật cốt mỹ miều.

Tiên phong: Dáng dấp đẹp như Tiên. Phong là dáng dấp.
Phật cốt: Cốt cách như Phật.
Mỹ miều: Xinh đẹp.

C.15: Vóc dáng như Tiên, cốt cách như Phật, thật là xinh đẹp.

Câu 16: Vào Kinh Bạch Ngọc lễ triều Chí Linh.

Lễ triều: Lễ là lạy, triều là chầu vua. Lễ triều là chầu lạy Ðức Chí Tôn.
Chí Linh: chỉ Ðức Chí Tôn.

C.16: Vào Bạch Ngọc Kinh để chầu lạy Ðức Chí Tôn.
Kinh Tẫn Liệm

Kinh Tẫn Liệm

KINH TẪN LIỆM

(Giọng Nam Ai)

BÀI KINH
1. Dây oan nghiệt dứt rời trái chủ.
2. Nương huyền linh sạch giũ thất tình.
3. Càn Khôn bước Thánh thượng trình.
4. Giải xong xác tục mượn hình Chí Tôn.
5. Khối vật chất vô hồn viết tử.
6. Ðất biến hình tự thử qui căn.
7. Ðừng gìn thân ái nghĩa nhân.
8. Xôn xao thoát khổ xa lần bến mê.
9. Hồn Trời hóa trở về Thiên cảnh.
10. Xác Ðất sanh đến lịnh phục hồi.
11. Từ từ Cực Lạc an vui.
12. Lánh nơi trược khí hưởng mùi siêu thăng.
(Niệm 3 lần Câu Chú của Thầy).

GIẢI NGHĨA

Kinh Tẫn Liệm do Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ ban cho để đồng nhi tụng trước khi liệm thi hài người chết vào trong quan tài.

Tẫn liệm: Tẫn là đặt xác người chết vào trong áo quan rồi đậy nắp đóng lại cho thật kín, Liệm là bọc xác người chết cho thật kín bằng những lớp vải, và đặt vào áo quan.

Câu 1: Dây oan nghiệt dứt rời trái chủ.

Oan: Thù giận.
Nghiệt: Nghiệp ác.
Dây oan nghiệt: Những sự thù giận (Oan) và những nghiệp ác (Nghiệt) mà con người đã gây ra trong suốt kiếp sống, tạo thành những sợi dây oan nghiệt vô hình ràng buộc Chơn thần, không cho Chơn thần xuất ra khỏi thể xác, mặc dầu thể xác đã chết rồi.
Trái chủ: Trái là món nợ, Chủ là người làm chủ. Trái chủ là người chủ nợ. Nợ đây là nợ oan nghiệt. Ðó là những người mà trước đây họ thù giận mình vì mình đã hãm hại họ, họ trở thành chủ nợ oan nghiệt, còn mình là con nợ oan nghiệt, họ chờ dịp để đòi mình phải trả món nợ oan nghiệt đó.

C.1: Những sợi dây oan nghiệt được cắt đứt rồi thì Chơn thần mới dứt rời các chủ nợ mà bay lên được.

Trong thời kỳ Ðại Ân Xá, Ðức Chí Tôn ban cho Phép Ðoạn Căn để Chức sắc hành pháp cắt đứt các sợi dây oan nghiệt vô hình nầy, giúp cho Chơn thần người chết xuất ra khỏi xác mà bay trở về cõi Thiêng Liêng. (Xem: C.3 Kinh Ðệ Nhứt Cửu).

Câu 2: Nương huyền linh sạch giũ thất tình.

Nương: Dựa vào. 
Huyền: Sâu kín, huyền diệu. 
Linh: Thiêng liêng. 
Nương huyền linh: Dựa vào phép huyền diệu thiêng liêng. 
Giũ: Lắc mạnh cho rớt ra các bụi đất hay chất dơ. 
Thất tình: Bảy tình cảm của con người gồm: Hỷ (mừng), Nộ (giận), Ái (thương), (ghét), Ai (buồn), Lạc (vui), Dục (muốn). 
Sạch giũ: Làm cho sạch sẽ bằng cách giũ mạnh cho rớt ra hết các chất bẩn.

C.2: Dựa vào phép huyền diệu Thiêng Liêng để giũ sạch thất tình.

* Kinh Lễ in bên Pháp năm 1952:
  • sạch đủ thất tình.
* Kinh TÐ-TÐ năm 1936, 1968, 1974, 1975:
  • sạch giũ thất tình.
Khảo Dị -

Câu 3: Càn Khôn bước Thánh thượng trình.


Càn Khôn: Càn Khôn Vũ Trụ. 
Thánh: Thiêng liêng mầu nhiệm.
Thượng: Bước lên. 
Trình: Ðường đi. 
Thượng trình: Lên đường, đồng nghĩa với Thượng lộ.

C.3: Bước chơn mầu nhiệm lên đường đi vào Càn Khôn Vũ Trụ.

Câu 4: Giải xong xác tục mượn hình Chí Tôn.


Giải: Cởi bỏ ra. 
Xác tục: Thể xác phàm bằng xương bằng thịt của con người nơi cõi trần. Khi thể xác nầy chết thì nó sẽ thúi rã biến thành đất. 
Hình Chí Tôn: Hình ảnh của Ðức Chí Tôn. Mượn hình Chí Tôn là chỉ Chơn thần con người, bởi vì khi Ðức Phật Mẫu tạo hóa ra Chơn thần của con người thì lấy theo hình ảnh của Ðức Chí Tôn.

C.4: Cởi bỏ xong xác phàm thì Chơn thần liền xuất ra.

Câu 5: Khối vật chất vô hồn viết tử.

Khối vật chất: Thể xác phàm của con người, vì nó chỉ là một khối vật chất, được nuôi dưỡng và lớn lên bằng vật chất, và khi chết thì thúi rã biến trở thành vật chất lẫn vào đất.
Vô hồn: Không có linh hồn ngự trong thể xác.
Viết tử: Nói rằng chết. Viết là nói rằng, Tử là chết.

C.5: Thể xác của con người không có linh hồn ngự trị thì gọi là chết.

Ðức Chí Tôn ban cho mỗi người một Ðiểm Linh quang làm Linh hồn để tạo sự sống cho thể xác, gìn giữ sự sống ấy và điều khiển các hoạt động của thể xác. Khi Linh hồn ấy xuất ra khỏi thể xác thì thể xác hết hoạt động và chết.

Câu 6: Ðất biến hình tự thử qui căn.


Ðất biến hình: Ðất biến ra hình thể của con người, bởi vì thể xác con người được nuôi dưỡng và lớn lên bằng những thực phẩm do Ðất sản xuất ra. Tự thử: Từ đó, từ lúc ấy. 
Qui căn: Trở về gốc, gốc ấy là Ðất. Qui là trở về, căn là gốc rễ.

C.6: Thể xác con người do Ðất biến hoá ra thì khi chết, thể xác nầy từ đó biến hóa trở lại thành Ðất.

Câu 7: Ðừng gìn thân ái nghĩa nhân.

Ðừng gìn: Không nên gìn giữ, tức là phải cởi bỏ ra hết. 
Thân ái: Gần gũi thương yêu. 
Nghĩa: Cách cư xử theo lẽ phải, hợp đạo lý. 
Nhân: Lòng thương người mến vật.

C.7: Nên cởi bỏ ra hết các thứ tình cảm thân ái và các điều nhân nghĩa (để Chơn thần dứt khoát ra đi).

* Kinh TÐ-TÐ 1936, Kinh Lễ 1952:
  • Ðừng gìn.
* Kinh TÐ-TÐ năm 1968, 1974, 1975:
  • Ðừng vì.
Khảo Dị-

Câu 8: Xôn xao thoát khổ xa lần bến mê.


Xôn xao: Rộn rịp ồn ào. 
Thoát khổ: Thoát ra khỏi các cảnh khổ não, hết khổ. 
Xa lần: Lần lần đi xa.
Bến mê: Chỉ cõi trần. (Xem: C.38 Tán Tụng Công Đức Diêu Trì Kim Mẫu).

C.8: Rộn rịp thoát khỏi nơi đau khổ nầy và đi xa dần cho khỏi cõi trần.

Câu 9: Hồn Trời hóa trở về Thiên cảnh.

Hóa: Sanh ra. 
Hồn Trời hóa: Linh hồn của con người do Trời sanh ra. Ðó là Ðiểm Linh quang được Ðức Chí Tôn chiết ra từ Khối Ðại Linh quang của Ðức Chí Tôn ban cho mỗi người. 
Thiên cảnh: Cõi Trời.

C.9: Linh hồn của con người do Trời sanh ra thì nay trở về cõi Trời.

Câu 10: Xác Ðất sanh đến lịnh phục hồi.

Xác Ðất sanh: Thể xác con người do các thực phẩm sanh ra từ Ðất nuôi dưỡng và lớn lên, nên có thể xem như do Ðất tạo ra. 
Phục hồi: Trở về. Phục là trở lại, hồi là về.

C.10: Thể xác do Ðất tạo nên nay được lịnh trở về Ðất.

Con người có Thể xác, Chơn thần và Linh hồn. Khi đến kỳ qui định (tới số), thể xác chết tan rã trở lại thành Ðất; còn Linh hồn và Chơn thần thì xuất ra đi trở về Trời.

Hai câu kinh 9 và 10 có ý nghĩa tương tự như đôi liễn nơi Thuyền Bát Nhã :

Vạn sự viết vô, nhục thể Thổ sanh huờn tại Thổ,
Thiên niên tự hữu, linh hồn Thiên tứ phản hồi Thiên.


Nghĩa là:

Muôn vật đều không, xác thịt Ðất sanh huờn lại Ðất,
Ngàn năm tự có, linh hồn Trời ban trở về Trời.

Câu 11: Từ từ Cực Lạc an vui.

Từ từ: Thong thả. 
Cực Lạc: Cực Lạc Thế Giới. 
An vui: An ổn vui vẻ.

C.11: Thong thả đi đến cõi Cực Lạc Thế Giới hưởng sự an vui.

Câu 12: Lánh nơi trược khí hưởng mùi siêu thăng.

Trược khí: Chất khí dơ bẩn. 
Nơi trược khí: Chỉ cõi trần, vì nơi cõi trần có nhiều trược khí, trược khí chiếm tới 2 phần, thanh khí chỉ có 1 phần. (Thanh khí là khí trong sạch).
Siêu thăng: Bay vượt lên cao, bay lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

C.12: Linh hồn bay lên lánh xa mùi trược khí của cõi trần, hưởng được siêu thăng nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Kinh Cầu Siêu

Kinh Cầu Siêu

KINH CẦU SIÊU

(Giọng Nam Ai)

BÀI KINH

  1. Ðầu vọng bái Tây Phương Phật Tổ,
  2. A-Di-Ðà Phật độ chúng dân.
  3. Quan Thế Âm lân mẫn ân cần,
  4. Vớt lê thứ khổ trần đọa lạc.
  5. Ðại Thánh Ðịa Tạng Vương Bồ Tát,
  6. Bố từ bi tế bạt vong hồn.
  7. Cứu khổ nàn Thái Ất Thiên Tôn,
  8. Miền Âm cảnh ngục môn khai giải.
  9. Ơn Ðông Nhạc Ðế Quân quảng đại,
  10. Ðộ kẻ lành chế cải tai ương.
  11. Chốn Dạ đài Thập Ðiện Từ Vương,
  12. Thấy hình khổ lòng thương thảm thiết.
  13. Giảm hình phạt, bớt đường luy tiết.
  14. Xá linh quang tiêu diệt tiền khiên.
  15. Ðặng nhẹ nhàng thẳng đến Cung Tiên,
  16. Nơi phước địa ở yên tu luyện.
  17. Xin Trời Phật chứng lòng sở nguyện,
  18. Hộ thương sanh u hiển khương ninh.
  19. (Niệm 3 lần Câu Chú của Thầy).

GIẢI NGHĨA


Kinh Cầu Siêu do Ðức Chuẩn Ðề Bồ Tát giáng cơ ban cho Minh Lý Ðạo (Tam Tông Miếu). Thuở mới Khai Ðạo Cao Ðài, Ðức Chí Tôn dạy Ngũ Chi Minh Ðạo dâng kinh cho Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, nên Hội Thánh đến thỉnh bài kinh nầy về làm Kinh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ. Bên Minh Lý gọi bài Kinh nầy là SÁM CẦU SIÊU.

Cầu siêu: Cầu là xin, siêu là vượt lên cao, siêu thăng.

Cầu siêu là cầu xin các Ðấng thiêng liêng cứu giúp linh hồn người chết cho được siêu thăng.

Kinh Cầu siêu: là bài Kinh tụng cầu xin Ðức Chí Tôn và các Ðấng thiêng liêng Phật Tiên Thánh Thần ân xá tội tình và cứu giúp linh hồn người chết được siêu thăng.

Hội Thánh có ghi chú dặn rằng: "Khi tụng hết bài Kinh Cầu siêu thì tụng tiếp bài Kinh Khi Ðã Chết Rồi (Ba mươi sáu cõi Thiên Tào,...) vì sợ e cho vong hồn hoặc là người không tu mà Hội Thánh mới độ hồn, hoặc là đạo hữu phạm thệ mà đi xuống cõi Phong đô, nên trước phải tụng bài Kinh Cầu siêu (Ðầu vọng bái Tây phương Phật Tổ,....) hầu cho vong hồn hồi dương đặng rồi thì tụng tiếp bài Kinh Khi Ðã Chết Rồi (Ba mươi sáu cõi Thiên Tào,...) đặng vong hồn hưởng phép siêu thăng tịnh độ.

Phải tụng xen kẽ như vậy cho đủ 3 lần. Khi dứt, niệm Câu Chú của Thầy 3 lần."

Câu 1-2:Ðầu vọng bái Tây Phương Phật Tổ,
A-Di-Ðà Phật độ chúng dân.

Ðầu vọng bái: Ðầu là cái đầu, vọng là trông ngóng, bái là lạy. Ðầu vọng bái là cúi đầu cầu khẩn lạy xuống.

Tây Phương: Hướng Tây, chỉ cõi Cực Lạc Thế Giới ở về hướng Tây.
Phật Tổ: Ðức Phật Thích Ca sáng lập Phật giáo và làm Tổ Sư Phật giáo, nên gọi Ðức Thích Ca là Phật Tổ.

A-Di-Ðà Phật: Phiên âm từ tiếng Phạn: AMITABHA, dịch là Vô Lượng Quang Phật hay Vô Lượng Thọ Phật. Trong thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ, Ðức Phật A-Di-Ðà làm Chưởng giáo Cực Lạc Thế Giới. Nay là thời Tam Kỳ Phổ Độ, Ngài giao quyền lại cho Ðức Di-Lạc Vương Phật làm Chưởng giáo Cực Lạc Thế Giới, và Ðức A-Di-Ðà vào ngự nơi Lôi Âm Tự. Ðộ: Cứu giúp. Chúng dân: Dân chúng, chỉ chung nhơn sanh hay nhơn loại.

C.1-2: Cúi đầu cầu khẩn lạy Ðức Phật Tổ và Ðức Phật A-Di-Ðà ở cõi Cực Lạc Thế Giới, xin cứu giúp nhơn sanh.

Câu 3-4:Quan Thế Âm lân mẫn ân cần,
Vớt lê thứ khổ trần đọa lạc.

Quan Thế Âm: Quan Thế Âm Bồ Tát, còn gọi là Phật Bà Quan Âm, Quan Âm Như Lai, Quán Thế Âm Phật.

Ðối với Phật giáo Tây Tạng, Quán Thế Âm Phật là một vị Phật Nam, hộ trợ xứ Tây Tạng. Dân chúng Tây Tạng đều tin rằng, Ngài chuyển hóa vào thân Ðức Vua Ðạt Lai Lạt Ma, cai trị xứ Tây Tạng, nên họ xem Ðức Ðạt Lai Lạt Ma là vị Phật Sống của họ. Ðức Quan Thế Âm có một hiện thân gồm 11 cái mặt, 1000 cánh tay, 1000 con mắt và có 108 hồng danh.

Ở nước Trung Hoa và Việt Nam, Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát là vị Phật Nữ, do 2 truyện tích: Quan Âm Thị Kính và Công Chúa Diệu Thiện.

Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát đã đắc quả Phật, nhưng Ngài đại nguyện xuống cõi Ta Bà cứu khổ cứu nạn chúng sanh, nên Ngài vẫn mang danh Bồ Tát. Bất cứ hạng nào trong chúng sanh, khi bị quá sức đau khổ, hay bị lâm nguy tánh mạng, như gặp phải nạn lửa cháy, chìm tàu, oan ức tù đày, ... , nếu thành tâm niệm danh hiệu cầu cứu Ngài, hoặc tụng bài Kinh Cứu Khổ, thì Ngài liền hiện thân tới cứu giúp.

Trong Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát vâng lịnh Ðức Chí Tôn làm Ðệ nhị Trấn Oai Nghiêm, cầm quyền Phật giáo, nêu cao gương từ bi bác ái tế độ của Phật.

Lân mẫn: Lân là thương xót, mẫn là lo lắng. Lân mẫn là thương xót và lo lắng giúp đỡ. Ân cần: Săn sóc đầy đủ với lòng thương mến.
Vớt: Cứu vớt.
Lê thứ: Dân đen, dân chúng nghèo khổ. Lê là màu đen, thứ là nhiều. Khổ trần: Những nỗi đau khổ nơi cõi trần.
Ðọa lạc: Phạt rơi xuống chỗ thấp kém, tối tăm, khổ sở. Ðọa là bị phạt xuống chỗ tối tăm khổ sở, lạc là rơi rụng.

C.3-4: Cúi đầu cầu khẩn lạy Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát, xin thương xót, lo lắng ân cần cứu vớt dân chúng nghèo khổ đang bị đày đọa khổ sở nơi cõi trần.

Câu 5-6: Ðại Thánh Ðịa Tạng Vương Bồ Tát,
Bố từ bi tế bạt vong hồn.

Ðại Thánh: Bực Thánh lớn. Ðịa Tạng Vương
Bồ Tát: Phật hiệu nầy có ý nghĩa như sau: Ðịa là đất, Tạng là chứa, đất chứa và chở muôn vật, vì Ngài có lập nguyện độ vô số chúng sanh ở hằng hà sa số thế giới, không một chúng sanh nào ra khỏi tự tâm của Ngài. Ngài lại còn Ðại nguyện: Ðịa ngục mà còn chúng sanh thì Ngài chưa chịu thành Phật.

Do lời Ðại nguyện nầy, Ðức Chí Tôn phong Ngài làm U Minh Giáo chủ (hay Phong Ðô Ðại Ðế), cai quản cõi U Minh Ðịa phủ (cũng gọi là cõi Phong Ðô). Thời Tam Kỳ Phổ Độ, Ðức Chí Tôn đại khai ân xá, giải tán Ðịa ngục, phóng thích các tội hồn, cho đi đầu thai trả quả. Ðức Chí Tôn lập ra một cõi mới là cõi Âm Quang để các linh hồn tội lỗi đến đó xét mình và học Ðạo, nhận biết lỗi lầm của mình mà ăn năn sám hối, cầu khẩn Ðức Chí Tôn cứu rỗi. Do đó, Ðức Ðịa Tạng Vương Bồ Tát trở thành Giáo chủ cõi Âm Quang, giáo hóa các Nam tội hồn; còn các Nữ tội hồn thì có Thất Nương Diêu Trì Cung đến giáo hóa.

Bố: Bày ra, cho.
Từ bi: Lòng thương yêu chúng sanh và lúc nào cũng muốn giúp chúng sanh thoát khổ.
Tế: Giúp đỡ.
Bạt: Nhảy qua, vượt qua.
Vong hồn: Linh hồn người chết.

C.5-6: Ðức Ðại Thánh Ðịa Tạng Vương Bồ Tát mở lòng từ bi cứu giúp các vong hồn vượt qua biển khổ.

Câu 7-8: Cứu khổ nàn Thái Ất Thiên Tôn,
Miền Âm cảnh ngục môn khai giải.

Khổ nàn: Khổ nạn, tai nạn khổ sở.
Miền Âm cảnh: Cõi Âm phủ, cõi Ðịa ngục.
Ngục môn: Cửa ngục.
Giải: Cởi bỏ.

C.7-8: Xin Ðức Thái Ất Thiên Tôn cứu giúp các tai nạn khổ sở, xin khai mở và bỏ đi các cửa ngục nơi cõi Âm phủ.

Câu 9-10: Ơn Ðông Nhạc Ðế Quân quảng đại,
Ðộ kẻ lành chế cải tai ương.

Ðông Nhạc Ðế Quân: Vị Thần làm đầu Ngũ Nhạc, cai trị phần hồn của nhơn loại. Tương truyền, ai mới thác xuống, linh hồn phải đến cho Thần Ðông Nhạc tra xét tội phước, rồi đến lúc đi đầu thai, cũng phải đến cho Thần Ðông Nhạc liệu định đường luân hồi.

Theo truyện Phong Thần, 5 vị Thần Ngũ Nhạc chia ra ở trên 5 hòn núi theo 4 hướng: Ðông, Tây, Nam, Bắc và ở Trung ương, kể ra:


  1. Hoàng Phi Hổ: Ðông Nhạc Thái Sơn, Tề Thiên Nhân Thánh Ðại Ðế, làm đầu Ngũ Nhạc.
  2. Sùng Hắc Hổ: Nam Nhạc Hành Sơn, Tư Thiên Chiêu Thánh Ðại Ðế.
  3. Thôi Anh: Bắc Nhạc Hằng Sơn, An Thiên Huyền Thánh Ðại Ðế.
  4. Tưởng Hùng: Tây Nhạc Hoa Sơn, Kim Thiên Thư Thánh Ðại Ðế.
  5. Văn Sính: Trung Nhạc Tung Sơn, Trung Thiên Sùng Thánh Ðại Ðế.

Năm vị Thần Ngũ Nhạc có bổn phận xem xét họa phước cho dân.

Quảng đại: Lòng dạ bao la rộng rãi.
Ðộ: Cứu giúp.
Chế cải: Sửa đổi cái cũ để làm ra cái mới.
Tai ương: Ðiều hại lớn. Tai là điều hại lớn, ương là xấu.

C.9-10: Ðông Nhạc Ðế Quân có lòng rộng rãi, ban ơn cứu giúp người lành và sửa đổi cho bớt tai ương.
* Kinh Lễ 1952, Kinh TÐ-TÐ 1936, 68, 74, 75:
  • ...... quảng đại.
  • Ðộ kẻ lành .....
* Kinh Nhựt Tụng Minh Lý Ðạo 1973:
  • ...... khoan đại.
  • Hộ kẻ lành .....
Khoan đại đồng nghĩa Quảng đại.
Ðộ là cứu giúp.
Hộ là che chở, giữ gìn.
Khảo Dị -

Xét trên ý nghĩa của câu kinh 10, dùng chữ: "Hộ kẻ lành" thì đúng hơn là "Ðộ kẻ lành", bởi vì người lành rồi thì không cần độ nữa, mà chỉ cần hộ trì cho họ được lành mãi. Còn độ là độ kẻ chưa lành, độ kẻ tội lỗi, cho họ trở nên lành.

Ðức Chí Tôn có nói rằng: "Thầy lại nói, buổi lập Thánh đạo, Thầy đến để độ rỗi kẻ có tội lỗi. Nếu đời không tội lỗi, đâu đến nhọc công Thầy." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. I. 44)

Câu 11-12: Chốn Dạ đài Thập Ðiện Từ Vương,
Thấy hình khổ lòng thương thảm thiết.

Dạ đài: Lầu đài ban đêm, tức là lầu đài cung điện nơi cõi Âm phủ. Dạ là đêm thuộc về Âm, đài là lầu đài.
Thập Ðiện Từ Vương: 10 vị vua nhơn từ cai quản 10 cửa ngục nơi cõi Âm phủ, thường gọi là Thập Ðiện Diêm Vương, dưới quyền của Ðức Ðịa Tạng Vương Bồ Tát.

Thập Ðiện Diêm Vương gồm 10 vị, kể ra sau đây :
  1. Nhứt Ðiện: Tần Quảng Vương cầm sổ sống chết.
  2. Nhị Ðiện: Sở Giang Vương coi Ðẳng Huợt Ðại Ðịa ngục.
  3. Tam Ðiện: Tống Ðế Vương coi Hắc Thắng Ðại Ðịa ngục.
  4. Tứ Ðiện: Ngũ Quan Vương coi Chúng Hiệp Ðại Ðịa ngục.
  5. Ngũ Ðiện: Diêm La Vương coi Kiếu Hoán Ðại Ðịa ngục.
  6. Lục Ðiện: Biện Thành Vương coi Ðại Kiếu Hoán Ðại Ðịa ngục.
  7. Thất Ðiện: Thái Sơn Vương coi Nhiệt Não Ðại Ðịa ngục.
  8. Bát Ðiện: Bình Ðẳng Vương coi Ðại Nhiệt Não Ðại Ðịa ngục.
  9. Cửu Ðiện: Ðô thị Vương coi A-Tỳ Ðại Ðịa ngục.
  10. Thập Ðiện: Chuyển Luân Vương coi việc cho đi đầu thai.
C.11-12: Nơi cõi Âm phủ, Thập Ðiện Diêm Vương nhơn từ, thấy tội nhơn bị hình phạt khổ sở thì đem lòng thương xót thảm thiết.

Câu 13: Giảm hình phạt, bớt đường luy tiết.

Luy tiết: Luy là sợi dây dùng để trói kẻ có tội; tiết là sợi dây dùng để trói. Luy tiết là trói buộc kẻ có tội, ý nói cảnh giam cầm tù tội.

C.13: Làm cho giảm bớt những hình phạt và giảm bớt việc giam cầm tù tội.
* Kinh Lễ 1952, Kinh TÐ-TÐ 1936, 1968, 74, 75:
  • ... ly tiết.
* Kinh Nhựt Tụng Minh Lý Ðạo năm 1973:
  • ... luy tiết.
Khảo Dị -

Từ ngữ "ly tiết" không có nghĩa nào thích hợp với câu kinh nầy. Vả lại, người bình dân đọc 2 chữ LYLUY như cùng một âm. Do đó, câu kinh nầy phải viết là LUY TIẾT mới đúng.

Câu 14: Xá linh quang tiêu diệt tiền khiên.

Xá: Tha cho, xá tội.
Linh quang: Ðiểm Linh quang do Ðức Chí Tôn ban cho mỗi người để làm linh hồn.
Xá linh quang: Tha thứ tội lỗi cho các linh hồn.
Tiêu diệt: Làm cho mất hẳn đi.
Tiền khiên: Những lỗi lầm đã gây ra trong kiếp sống trước. Khiên là lỗi lầm, tiền là trước.

C.14: Tha thứ tội lỗi cho các linh hồn và tiêu diệt hết các lỗi lầm đã gây ra trong kiếp trước.

Câu 15-16: Ðặng nhẹ nhàng thẳng đến Cung Tiên,
Nơi phước địa ở yên tu luyện.

Cung Tiên: Chỉ cõi Tiên, cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Phước địa: Ðất phước, vùng đất lành và an vui.
Tu luyện: Tu là sửa đổi đức tánh cho hoàn toàn, bỏ nhơn dục tìm đường Thiên lý; luyện là rèn, trau giồi cho sáng suốt. Tu mà không luyện thì chẳng khác chi một cục sắt, không rèn giũa thì làm sao trở thành món đồ dùng hữu ích.

C.15-16: Linh hồn được nhẹ nhàng bay thẳng lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, và ở yên nơi đất phước để lo tu luyện.

Câu 17-18: Xin Trời Phật chứng lòng sở nguyện,
Hộ thương sanh u hiển khương ninh.

Sở nguyện: Ðiều quan trọng mà mình mong mỏi trong lòng.
Hộ: Che chở giữ gìn.
Thương sanh: Những người sống thấp kém nghèo khổ, chỉ chung nhơn sanh. Thương là màu xanh, sanh là sống.

U hiển: U là tối tăm, chỉ cõi Âm phủ; Hiển là hiện ra rõ ràng, chỉ cõi Dương gian. U hiển là chỉ cõi Âm phủ của người chết và cõi Dương gian của người sống.
Khương ninh: Mạnh khỏe an ổn. Khương là mạnh khỏe, ninh là an ổn.

C.17-18: Xin Ðức Chí Tôn và chư Phật chứng điều sở nguyện và xin gìn giữ che chở nhơn sanh ở cõi Âm cũng như ở cõi Dương được mạnh khỏe và an ổn.


Kinh Đưa Linh Cữu

Kinh Đưa Linh Cữu

KINH ĐƯA LINH CỮU

(Giọng Nam Ai)

BÀI KINH

  1. Cầu các Trấn Thần linh trợ lịnh,
  2. Giữ Chơn hồn xa lánh xác trần.
  3. Nam mô Ðịa Tạng thi ân,
  4. Ðưa đường Thiên cảnh, lánh gần Phong đô.
  5. Nam mô Tam Trấn Hư Vô,
  6. Oai Nghiêm độ rỗi Cao đồ qui nguyên.
  7. Nam mô Tam giáo diệu huyền,
  8. Tuyệt luân Bát Nhã đưa thuyền độ vong.
  9. Nam mô Bạch Ngọc Công Ðồng,
  10. Thần Tiên Thánh Phật mở vòng trái oan.
  11. Nam mô Thượng Ðế Ngọc Hoàng,
  12. Mở cơ tận độ nhẹ nhàng chơn linh.
  13. Cửa Cực Lạc thinh thinh rộng mở,
  14. Rước vong hồn lui trở ngôi xưa.
  15. Tòa sen báu vật xin đưa,
  16. Chơn linh an ngự cho vừa quả duyên.
  17. (Niệm 3 lần Câu Chú của Thầy).

GIẢI NGHĨA


Kinh Ðưa Linh Cữu do Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ ban cho để đồng nhi tụng trong suốt thời gian đưa linh cữu từ nơi phát hành đến nơi chôn cất.

Linh cữu: Linh là linh hồn người chết, cữu là cái áo quan. Linh cữu là cái áo quan trong đó đã có liệm thi hài của một linh hồn vừa bỏ xác.

Theo cách gọi thông thường, khi đưa đi chôn thì gọi là Linh cữu, khi còn đặt trong nhà để tế lễ thì gọi là Quan tài.

Câu 1-2: Cầu các Trấn Thần linh trợ lịnh,
Giữ Chơn hồn xa lánh xác trần.

Thần linh: Các vị Thần thiêng liêng.
Các Trấn Thần linh: Các vị Thần thiêng liêng trấn nhậm ở các địa phương như: Thần Hoàng Bổn Cảnh, Thổ Thần, Thổ Ðịa, Sơn Thần .
Trợ lịnh: Trợ là giúp đỡ. Trợ lịnh là giúp đỡ thi hành các mệnh lệnh của cấp trên cho được hiệu quả.

Chơn hồn: Ở đây có nghĩa là Chơn thần, xác thân thiêng liêng, Nhị xác thân. (Xem trở lại C.6 Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối)
Xa lánh: Tránh đi chỗ khác cho xa chỗ đó.
Xác trần: Thể xác phàm, Ðệ nhứt xác thân.

C.1-2: Cầu xin các vị Thần linh trấn nhậm ở địa phương nầy giúp lịnh gìn giữ Chơn thần của người chết lánh xa xác phàm.

Câu 3-4: Nam mô Ðịa Tạng thi ân,
Ðưa đường Thiên cảnh, lánh gần Phong đô.

Nam mô: do tiếng Phạn phiên âm ra, có nghĩa là: Qui y, qui mạng, chí tâm hướng, tức là quyết chí vâng theo lời Phật dạy, nguyện hiến trọn đời mình cho Ðạo pháp. Về sau, từ ngữ Nam mô thường dùng làm tiếng khởi đầu cho một câu cầu nguyện.
Ðịa Tạng: Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, Giáo chủ cõi Âm quang. Khi xưa, thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ, Ngài là Giáo chủ cõi U Minh hay cõi Phong Ðô, nên gọi Ngài là U Minh Giáo chủ hay Phong Ðô Ðại Ðế. Thi ân: Làm ơn cho người.
Thiên cảnh: Cõi Trời, cõi Thiêng liêng Hằng sống.
Lánh gần: Lánh đi chỗ khác, đừng lại gần.
Phong Ðô: Ở đây chỉ cõi Âm quang do Ðức Ðịa Tạng Vương Bồ Tát làm Giáo chủ.

C.3-4: Xin cầu nguyện với Ðức Ðịa Tạng Vương Bồ Tát ban ơn đưa linh hồn người chết lên đường về cõi Thiêng liêng Hằng sống, lánh xa không cho đến gần cõi Âm quang.

Câu 5-6: Nam mô Tam Trấn Hư Vô,
Oai Nghiêm độ rỗi Cao đồ qui nguyên.

Tam Trấn: Thường gọi là Tam Trấn Oai Nghiêm, đó là 3 vị cầm quyền Tam giáo trong thời Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ. Tam Trấn Oai Nghiêm gồm:
Nhứt Trấn Oai Nghiêm: Ðức Ðại Tiên Trưởng Lý Thái Bạch, cầm quyền Tiên giáo, kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Nhị Trấn Oai Nghiêm: Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát, cầm quyền Phật giáo.
Tam Trấn Oai Nghiêm: Ðức Quan Thánh Ðế Quân, cầm quyền Nho giáo.
Hư Vô: Hư là trống không, vô là không. Hư Vô là hoàn toàn trống không, nhưng trong không mà có tất cả. Hư vô là cảnh giới vô cùng mầu nhiệm mà chẳng ai rõ thấu, vì cảnh giới ấy vắng lặng trống không mà lại sanh ra các Pháp.
Oai Nghiêm: Trang nghiêm khiến người khác nể sợ.
Ðộ rỗi: Ðộ là cứu giúp, rỗi là cứu vớt khỏi những ràng buộc tội lỗi. Ðộ rỗi là cứu giúp thoát khỏi những ràng buộc tội lỗi để được siêu thăng.
Cao đồ: Môn đồ của Ðấng Cao Ðài, tức là tín đồ của Ðạo Cao Ðài.
Qui nguyên: Qui là trở về, nguyên là cái gốc khởi sanh ra, đó là Thái Cực, tức là Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế. Qui nguyên là trở về với Ðức Chí Tôn.

C.5-6: Xin cầu nguyện với Tam Trấn Oai Nghiêm nơi cõi Hư Vô mầu nhiệm độ rỗi linh hồn của người tín đồ Cao Ðài được trở về với Ðức Chí Tôn.

Câu 7-8: Nam mô Tam giáo diệu huyền,
Tuyệt luân Bát Nhã đưa thuyền độ vong.


Tam giáo: Ba nền tôn giáo lớn ở Á Ðông: Phật giáo (Thích giáo), Tiên giáo (Lão giáo), Nho giáo (Khổng giáo).
Diệu huyền: Huyền diệu, huyền là sâu kín, diệu là khéo léo. Huyền diệu là sâu kín khéo léo mà trí phàm không thể biết rõ được.
Tuyệt luân: Tuyệt là dứt, luân là sự luân hồi. Tuyệt luân là dứt luân hồi, tức là không còn luân hồi nữa.
Bát Nhã thuyền: Bát Nhã là trí huệ, tức là sự hiểu biết đạo lý sáng suốt. Bát Nhã thuyền là chiếc thuyền trí huệ đưa các chơn hồn vượt qua biển khổ đến bờ giải thoát. (Xem chi tiết: C.25 Phật Mẫu Chơn Kinh)

Ðộ vong: Cứu giúp linh hồn người chết.

C.7-8: Xin cầu nguyện với Ba Ðấng Giáo Chủ Tam giáo huyền diệu, xin đem chiếc thuyền Bát Nhã cứu giúp các vong hồn thoát qua biển khổ, dứt khỏi luân hồi.

Câu 9-10: Nam mô Bạch Ngọc Công Ðồng,
Thần Tiên Thánh Phật mở vòng trái oan.

Bạch Ngọc: Bạch Ngọc Kinh, tòa lâu đài làm bằng ngọc trắng, là nơi thường ngự của Ðức Chí Tôn Thượng Đế.
Công Ðồng: Công là chung, đồng là cùng nhau.
Bạch Ngọc Công Ðồng: là một Ðại Hội chư Thần Thánh Tiên Phật tại Bạch Ngọc Kinh để quyết nghị các công việc chung có tính cách quan trọng, dưới quyền chủ tọa của Ðức Chí Tôn.
Trái oan: Oan là thù giận, trái là món nợ. Trái oan là món nợ oan nghiệt. Kiếp trước, mình làm cho người ta thù giận mình, tức là mình tạo ra oan trái, nay mình phải đền trả món nợ đó.

C.9-10: Xin cầu nguyện với các Ðấng Thần Thánh Tiên Phật trong Hội Công Ðồng nơi Bạch Ngọc Kinh, xin cởi mở ra cho hết vòng oan trái.

Câu 11-12: Nam mô Thượng Ðế Ngọc Hoàng,
Mở cơ tận độ nhẹ nhàng chơn linh.

Tận độ: Tận là hết, độ là cứu giúp. Tận độ là cứu giúp toàn cả chúng sanh, không chừa một người nào cả.
Cơ tận độ: Cơ quan có nhiệm vụ tận độ chúng sanh. Cơ quan nầy là Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ tức là Ðạo Cao Ðài.

Trong Bài Tựa quyển Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo, Hội Thánh có viết như sau:

"Ðức Quyền Giáo Tông (khi còn tại thế) và Ðức Hộ Pháp, trót 10 năm trường, nghĩa là từ ngày mở Ðạo, đã nhiều phen dâng sớ cho Ðại Từ Phụ và các Ðấng Thiêng liêng đặng xin Kinh Tận độ, nhưng mà Chí Tôn cùng chư Thần Thánh Tiên Phật chưa định ban ân cho toàn sanh chúng.

Mãi đến ngày 23 tháng 7 tới ngày mùng 4 tháng 8 năm Ất Hợi (dl 21 đến 31-8-1935) mới giáng cơ ban cho Tân Kinh. Ấy là một giọt nước Cam Lồ của Ðức Từ Bi rưới chan đặng gội nhuần cho các đẳng linh hồn của toàn thế giới.

Chúng ta thầm xét thì đủ hiểu rằng: Ðã trải qua 10 năm, Chí Tôn mới mở Cơ Tận độ. Cơ Tận độ nhơn sanh duy kể từ ngày ban Tân Kinh nầy mà thôi."

C.11-12: Xin cầu nguyện với Ðức Chí Tôn mở ra cơ quan Tận độ nhơn sanh để linh hồn người chết được nhẹ nhàng siêu thăng.

Câu 13-14: Cửa Cực Lạc thinh thinh rộng mở,
Rước vong hồn lui trở ngôi xưa.

Cửa Cực Lạc: Cửa đi vào Cực Lạc Thế giới.
Thinh thinh: Rộng rãi thênh thang.
Lui trở: Lui bước trở về.
Ngôi xưa: Ngôi vị cũ nơi cõi Thiêng liêng.

C.13-14: Cửa Cực Lạc Thế Giới mở rộng thênh thang để rước các vong hồn trở lại ngôi vị cũ.

Câu 15-16: Tòa sen báu vật xin đưa,
Chơn linh an ngự cho vừa quả duyên.

Tòa sen: Ngôi vị của Phật hay Bồ Tát.
Báu vật: Vật quí báu.
Chơn linh: Linh hồn.
An ngự: An là yên ổn, ngự là ngồi lên một cách trang trọng. An ngự là ngồi lên một cách trang trọng và an ổn.
Cho vừa: Cho tương xứng.
Quả duyên: Quả là cái kết quả, duyên là cái sức bổ trợ cho cái Nhân thành cái Quả. Quả duyên là cái kết quả do sự bổ trợ của cái duyên mà đạt được, tức là cái phẩm vị đạt được do công đức tu hành.

C.15-16: Xin đưa Chơn linh đến an ngự trên tòa sen quí báu cho tương xứng với công đức tu hành.
Kinh Hạ Nguyệt

Kinh Hạ Nguyệt

KINH ĐƯA LINH CỮU

(Giọng Nam Ai)

BÀI KINH

  1. Thức giấc mộng huỳnh lương vừa mãn.
  2. Tiếng phồn ba hết thoáng bên tai.
  3. Giải thi lánh chốn đọa đày,
  4. Chơn linh trong sạch ra ngoài Càn khôn.
  5. Phép Giải Oan độ hồn khỏi tội.
  6. Phướn Tiêu Diêu nắm mối trường sanh.
  7. Ơn nhờ hồng phước Chí Linh,
  8. Lôi Âm tự toại, Bồng Dinh hưởng nhàn.
  9. Nhờ Hậu Thổ xương tàn gìn giữ.
  10. Nghĩa Chí Tôn tha thứ tiền khiên.
  11. Ðưa tay vịn phép diệu huyền,
  12. Ngọc Hư lập vị, Cửu tuyền lánh chơn.
  13. Ngó Cực Lạc theo huờn Xá lợi.
  14. Cửu Trùng Thiên mở lối qui nguyên.
  15. Rỡ ràng Phật cốt Tiên duyên.
  16. Nước Cam lồ rửa sạch thuyền độ nhân.

GIẢI NGHĨA


Kinh Hạ Huyệt do Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát (Thường Cư Nam Hải Quan Âm Như Lai) giáng cơ ban cho.

Khi đưa linh cữu ra tới huyệt thì vị chứng đàn và đồng nhi đứng trước đầu huyệt, tụng Kinh Hạ Huyệt 3 hiệp, mỗi hiệp cúi đầu, mãn hiệp thứ ba liền tụng tiếp 3 biến Vãng Sanh Thần Chú. Hễ dứt thì niệm Câu Chú của Thầy 3 lần.

Hạ Huyệt: Hạ là đem xuống, huyệt là cái lỗ đào xuống đất. Hạ huyệt là đem quan tài đặt xuống cái huyệt đã đào sẵn dưới đất để chôn.
Kinh Hạ Huyệt là bài kinh để đồng nhi tụng trước khi đem quan tài đặt xuống huyệt để chôn.

Câu 1: Thức giấc mộng huỳnh lương vừa mãn.

Huỳnh lương: Huỳnh là màu vàng, lương là bắp. Huỳnh lương là bắp vàng, một lọai trong ngũ cốc dùng để nấu ăn. 
Giấc mộng huỳnh lương: Giấc chiêm bao kéo dài trong thời gian nấu chín nồi bắp vàng.

ÐIỂN TÍCH: Chung Ly Vân Phòng đời nhà Hớn, nên thường gọi là Hớn Chung Ly, là một vị Ðại Tiên, thấy Ông Lữ động Tân (thường gọi Lữ đồng Tân) có căn lành nên muốn độ họ Lữ đi tu, liền đến huyện Hàm Ðang gặp họ Lữ nói rằng:

- Ta là Chung Ly Vân Phòng tu ở núi Triều Hạc, Ông có muốn đi chơi với ta không?

Lữ đồng Tân có vẻ lưỡng lự vì muốn đi thi Tiến sĩ để dương danh với đời. Chung Ly biết vậy, liền mời Lữ đồng Tân đến bên nồi bắp vàng đang nấu, ngồi chơi, rồi đưa cho một cái gối bảo nằm xuống nghỉ, còn mình thì tiếp tục đun nồi bắp vàng. Ðồng Tân kê đầu vào gối nằm xuống giây lát thì chiêm bao thấy mình vác lều chõng đi thi, ngang qua một nhà giàu nọ, gặp một người con gái rất đẹp thì ướm lời. Nàng nọ nói rằng: " Nếu chàng đi thi đậu Trạng Nguyên thì thiếp nguyện nâng khăn sửa trấp." Lữ Đồng Tân vào khoa thi, đậu được Trạng Nguyên, về cưới nàng ấy, sau lại cưới thêm hầu thiếp nữa, được vua bổ làm quan Gián Nghị, lần lần được thăng lên đến chức Tể Tướng, giàu sang tột bực, con cháu đầy nhà.

Chẳng may, sau đó bị gian thần hãm hại, vu oan giá họa, vua truyền bắt tội, tịch thu hết gia sản sự nghiệp, rồi đày ra chốn Lãng Biển, cực khổ vô cùng. Kế giựt mình thức dậy, ngơ ngẩn tâm thần.

Chung Ly Vân Phòng ngồi kế bên bèn cười lớn, ngâm hai câu thơ:

Nồi bắp hãy còn ngòi,
Chiêm bao đà thấy cháu.


Lữ đồng Tân lấy làm lạ hỏi rằng:

- Thầy biết sự chiêm bao của tôi sao?

- Chiêm bao 50 năm, công việc cả muôn, thiệt không đầy một lát, đặng chẳng khá mừng, mất không nên thảm, hết vinh tới nhục là lẽ thường.

Lữ đồng Tân nghe Hớn Chung Ly nói thế thì tỉnh ngộ, ngẫm nghĩ lại mà chán ngán cuộc đời, liền từ bỏ mộng công danh, cầu xin Hớn Chung Ly truyền đạo.
(Do điển tích nầy mà người ta nói: Giấc Huỳnh lương, Giấc kê vàng, Giấc Hàm ÐanHoàng Lương Nhất Mộng là để chỉ giấc mộng của Lữ Ðồng Tân, xem vinh hoa phú quí là phù du mộng ảo).
Điển Tích-

Câu 2: Tiếng phồn ba hết thoáng bên tai.

Phồn ba: Phồn là nhiều; ba là cái hoa. Phồn ba, đồng nghĩa Phồn hoa, là chỉ nơi dân cư đông đúc, mua bán tấp nập, ngựa xe như nước, là trường náo nhiệt đua chen danh lợi.
Thoáng: Thoảng qua, lướt qua một cách nhẹ nhàng trong thời gian rất ngắn, chỉ đủ để cảm nhận được.

C.1-2: Khi thức tỉnh lại rồi, thấy cuộc đời như là một giấc chiêm bao. Cái âm vang của trường náo nhiệt đua chen danh lợi cũng hết thoảng bên tai.

Câu 3-4: Giải thi lánh chốn đọa đày,
Chơn linh trong sạch ra ngoài Càn khôn.

Giải thi: Giải là cởi bỏ, thi là thi hài thể xác. Giải thi là cởi bỏ thể xác, tức là khi thể xác chết, Chơn thần và Linh hồn xuất ra khỏi thể xác, đi lên cõi Thiêng liêng.
Chốn đọa đày: Chỉ cõi trần, vì cõi trần là cõi đọa.
Chơn linh trong sạch: Chơn linh trong sạch thì Chơn thần phải trong sạch. Muốn cho Chơn thần trong sạch thì phải giữ cho Thể xác trong sạch. Muốn cho Thể xác trong sạch thì phải ăn chay trường, cúng kiếng thường và giữ tư tưởng cho thanh cao. Một Chơn linh trong sạch khi ở trong một Chơn thần trong sạch; một Chơn thần trong sạch khi ở trong một Thể xác trong sạch. Chơn thần trong sạch thì mới nhẹ nhàng, mới bay lên tới cõi Thiêng liêng Hằng sống.
Càn Khôn: Trời Ðất, thường nói Càn Khôn Vũ Trụ. Ra ngoài Càn khôn: Bay thoát ra ngoài cõi trần, đi vào Càn Khôn Vũ Trụ.

C.3-4: Cởi bỏ thể xác để Linh hồn và Chơn thần bay lên lánh khỏi cõi trần đày đọa. Khi Linh hồn và Chơn thần trong sạch thì mới được nhẹ nhàng, thoát ra ngoài cõi trần, đi vào Càn Khôn Vũ Trụ.

Câu 5: Phép Giải Oan độ hồn khỏi tội.


Phép Giải oan: là một phép Bí tích rất huyền diệu của Ðạo Cao Ðài do Ðức Chí Tôn ban cho nhơn loại trong kỳ Ðại Ân Xá nầy, để cởi bỏ hết các oan nghiệt đã gây ra từ nhiều kiếp trước, nhờ đó nhơn sanh dễ tiến bước trên đường tu hành, theo đúng với Cơ Tận độ của Ðức Chí Tôn. (Xem: C.30 Kinh Giải Oan).

C.5: Phép Giải oan cứu giúp các linh hồn thoát khỏi các tội tình đã gây ra trong nhiều kiếp trước.

Câu 6: Phướn Tiêu Diêu nắm mối trường sanh.

Phướn Tiêu Diêu: Cây phướn của Lục Nương cầm, cũng gọi là Phướn Truy Hồn, để gìn giữ và hướng dẫn Chơn hồn đi lên các từng Trời của Cửu Trùng Thiên.

Trường sanh: Sống hoài, hằng sống, chỉ cõi TLHS.

C.6: Cây Phướn Tiêu Diêu của Lục Nương dẫn dắt các chơn hồn lên cõi Thiêng liêng Hằng sống.

Câu 7-8: Ơn nhờ hồng phước Chí Linh,
Lôi Âm tự toại, Bồng Dinh hưởng nhàn.

Hồng phước: Hồng là to lớn, phước là điều may mắn tốt lành. Hồng phước là điều may mắn tốt lành lớn do Ðức Chí Tôn ban cho. (Chữ Hồng dùng để chỉ cái gì to lớn của Ðức Chí Tôn hay do Ðức Chí Tôn ban cho. Thí dụ: Hồng oai, Hồng từ, Hồng ân, Hồng phước.)

Chí Linh: Rất thiêng liêng, chỉ Ðức Chí Tôn.

Lôi Âm: Lôi Âm Tự, chùa Lôi Âm ở tại kinh đô của cõi Cực Lạc Thế Giới, nơi ngự của Ðức Phật Thích Ca và Ðức A-Di-Ðà Phật. Ở đây, Lôi Âm là chỉ cõi Cực Lạc Thế Giới, là nơi hoàn toàn sung sướng và an vui. 
Tự toại: Tự là chính mình, toại là thỏa lòng. Tự toại là lòng dạ thỏa thích, ung dung thơ thới.

Bồng Dinh: Hai hòn đảo: Bồng Lai và Dinh Châu. Tương truyền trong biển Bột Hải nơi cõi Thiêng liêng có 3 hòn đảo tên là: Bồng Lai, Dinh Châu, Phương Trượng, đều có Tiên ở. Trên đảo Bồng Lai có núi Bồng Lai (cũng gọi là Bồng sơn) có 8 động đá là nơi ở của Bát Tiên. Bồng Dinh là chỉ cõi Tiên. Lôi Âm là chỉ cõi Phật.

C.7-8: Nhờ hưởng được ơn phước của Ðức Chí Tôn, nên Chơn hồn được ung dung thơ thới nơi cõi Phật, và an nhàn nơi cõi Tiên.

Câu 9: Nhờ Hậu Thổ xương tàn gìn giữ.

Hậu Thổ: Hậu là vua (theo nghĩa xưa), Thổ là đất. Hậu Thổ là vua Ðất, tức là vị Thần cai quản đất đai của một nước, làm đầu các vị Thổ Thần. Thổ Thần là vị Thần cai quản một vùng đất nhỏ. Xương tàn: Bộ xương còn lại sau khi xác chết thúi rã thành nước tan vào đất.

C.9: Xin nhờ thần Hậu Thổ gìn giữ các mảnh xương tàn của người chết gởi tại nơi đây.

Câu 10: Nghĩa Chí Tôn tha thứ tiền khiên.

Nghĩa Chí Tôn: Ơn nghĩa của Ðức Chí Tôn. 
Tiền khiên: Lỗi lầm đã gây ra trong các kiếp trước.

C.10: Ơn nghĩa của Ðức Chí Tôn tha thứ các lỗi lầm đã gây ra trong các kiếp trước.

Câu 11-12: Ðưa tay vịn phép diệu huyền,
Ngọc Hư lập vị, Cửu tuyền lánh chơn.

Phép diệu huyền: Phép Bí tích huyền diệu mà Ðức Chí Tôn đã ban cho như: Phép Giải oan, Phép Xác, Phép Ðoạn căn, Phép Ðộ thăng, vv. 
Vịn: Ðặt bàn tay tựa vào cho có thế vững, ý nói dựa vào.
Vịn phép diệu huyền: Dựa vào các Phép Bí tích huyền diệu.
Ngọc Hư: Ngọc Hư Cung nơi cõi Thiêng liêng, là nơi họp Thiên triều của Ðức Chí Tôn Thượng Ðế. Hiệp Thiên Ðài là hình ảnh của Ngọc Hư Cung tại thế.
Lập vị: Làm nên phẩm vị cho mình.
Cửu tuyền: Tuyền là suối, Cửu tuyền là Chín suối, chỉ cõi Âm phủ. Tương truyền, cõi Âm phủ có 9 dòng suối.
Lánh chơn: Bước đi lánh khỏi chỗ đó.

C.11-12: Dựa vào các Phép Bí tích huyền diệu mà lên Ngọc Hư Cung lập phẩm vị cho mình, và bước đi lánh xa cõi Âm phủ.
* Kinh TÐ-TÐ năm 1936:
  • Ðưa tay dịnh phép.
* Kinh Lễ in bên Pháp năm 1952:
  • Ðưa tay định phép.
* Kinh TÐ-TÐ năm 1968, 1974, 1975:
  • Ðưa tay vịn phép.
Khảo Dị - -
Câu 13: Ngó Cực Lạc theo huờn Xá lợi.

Ngó: Nhìn. 
Cực Lạc: Cực Lạc Thế Giới, cõi Phật.
Huờn: do chữ Hoàn nói trại ra. Hoàn là một viên tròn, một cái hột. Thí dụ như: Hoàn thuốc.
Xá lợi: Sau khi Ðức Phật Thích Ca tịch diệt, thể xác của Phật được hỏa thiêu. Trong mớ tro tàn còn lại có những hột tròn tròn chiếu sáng như ngọc, gọi là Ngọc Xá lợi. Các hột Xá lợi nầy được thu giữ cẩn thận, phân chia ra nhiều chỗ để thờ. Vị Tăng Thống của Phật giáo Tích Lan có đem qua tặng Tòa Thánh Tây Ninh một hột Ngọc Xá lợi nầy. Do đó, từ ngữ Huờn Xá lợi là chỉ Ðức Phật.

C.13: Nhìn về phía Cực Lạc Thế Giới để theo về với Phật.

Câu 14: Cửu Trùng Thiên mở lối qui nguyên.

Cửu Trùng Thiên: Chín từng Trời. Cửu là 9, Trùng là nhiều lớp chập chồng lên nhau, Thiên là Trời. (Xem chi tiết về Cửu Trùng Thiên nơi chữ: Chín từng Trời, Câu 8 bài Kinh Niệm Hương). Mở lối: Mở đường.

Qui nguyên: Qui là trở về; Nguyên là cái gốc mà từ đó nó được sanh ra, gốc đó là Thái Cực tức là Ðức Chí Tôn Thượng Ðế. Qui nguyên là trở về với Ðức Chí Tôn.

C.14: Chín từng Trời mở ra một con đường để các Chơn hồn trở về với Ðức Chí Tôn.

Câu 15: Rỡ ràng Phật cốt Tiên duyên.

Rỡ ràng: Sáng ngời một cách đẹp đẽ.
Phật cốt: Cốt cách như Phật.
Tiên duyên: Có duyên với Tiên, tức là có mối dây ràng buộc với các vị Tiên.

C.15: Cốt cách sáng ngời như Phật, có mối dây ràng buộc với Tiên.
* Kinh TÐ-TÐ- năm 1936:
  • Rỡ ràng Phật cốt Tiên duyên.
* Kinh Lễ 1952, Kinh TÐ-TÐ 1968, 1974, 1975:
  • Rõ ràng Phật cốt tiền duyên.
  • Rõ ràng: Rất rõ, rất minh bạch.
Tiền duyên: Có mối dây ràng buộc từ trước.
Khảo Dị - -
Câu 16: Nước Cam lồ rửa sạch thuyền độ nhân.

Nước Cam lồ: Chữ Hán là Cam lồ thủy, Cam là ngọt, Lồ do chỡ Lộ đọc trại ra, Lộ là giọt sương. Cam lồ thủy tức là Cam lộ thủy là nước sương ngọt. Ðây là chất nước huyền diệu do Ðức Quan Âm Bồ Tát luyện thành, có vị ngọt, mùi thơm, công dụng rất linh diệu, giải trừ oan nghiệt, cải tử huờn sanh.
Thuyền độ nhân: Chiếc thuyền Bát Nhã cứu độ người.

C.16: Nước Cam lồ rửa sạch tiền khiên nghiệp chướng, và chiếc thuyền Bát Nhã cứu độ người đưa qua biển khổ.
Vãng Sanh Thần Chú

Vãng Sanh Thần Chú

VÃNG SANH THẦN CHÚ

BÀI KINH

Nam-mô

A-Di-Ðà Bà-Dạ, Ða-Tha-Già-Ða-Dạ,
Ða-Ðiệt-Dạ-Tha: A-Di-Rị-Ðô-Bà-Tì,
A-Di-Rị-Ða, Tất-Ðam-Bà-Tì,
A-Di-Rị-Ða, Tì-Ca-Lan-Ðế,
A-Di-Rị-Ða, Tì-Ca-Lan-Ða,
Già-Di-Nị, Già-Già-Na,
Chỉ-Ca-Ða-Lệ, Ta-Bà-Ha.
 
(Tụng 3 lần rồi niệm Câu Chú của Thầy 3 lần).

GIẢI NGHĨA

Vãng sanh: Vãng là đã qua, ý nói chết, qua đời; Sanh là sanh ra và sống. Vãng sanh là chết ở thế giới ô trược nầy để linh hồn chuyển sanh qua một thế giới khác cao hơn, thanh khiết hơn, tốt đẹp hơn, an vui sung sướng hơn.
Thần chú: Thần là thiêng liêng mầu nhiệm, Chú là câu niệm đặc biệt có tác dụng rất huyền diệu.
Vãng sanh Thần chú: là Câu niệm bằng tiếng Phạn đặc biệt của Phật giáo để cầu nguyện với Ðức Phật A-Di-Ðà cứu độ linh hồn người chết được sanh về cõi Cực Lạc Thế Giới.

Vãng sanh Thần chú gồm 59 chữ, được giải nghĩa theo Phật Học Từ Ðiển của Ông Ðoàn trung Còn như sau:

Nam-mô A-Di-Ðà Bà-Dạ: Tiếng Phạn là Namah Amitabhavyuha, nghĩa là: Qui kính Ðức A-Di-Ðà Phật.

Ða-Tha-Già-Ða-Dạ
: Tiếng Phạn là Tathagata, nghĩa là: Như Lai. (Như Lai là một trong 10 hiệu của Phật).

Ða-Ðiệt-Dạ-Tha: dịch là tức thuyết chú viết, nghĩa là: Liền đọc bài Chú dưới đây.

10 câu tiếp theo: là mật ngữ, đại ý có nghĩa là: Nhổ bỏ tận gốc các nghiệp chướng.

Ta-Bà-Ha: tiếng Phạn là Swâha. Thường các bài Thần chú đều có 3 chữ chót là Ta-Bà-Ha, có nghĩa là: Thường tựu, kiết tường, tiêu tai tăng phước, viên tịch, vô trụ, kính Phật chứng minh.

Vãng Sanh Thần Chú còn được gọi là: Chú Vãng Sanh, Vãng Sanh Chơn ngôn, Vãng Sanh Quyết định Chơn ngôn.
Kinh Khai Cửu Đại Tường Và Tiểu Tường

Kinh Khai Cửu Đại Tường Và Tiểu Tường

KINH KHAI CỬU ĐẠI TƯỜNG VÀ TIỂU TƯỜNG

(Giọng Nam Xuân)

BÀI KINH

  1. Ðã quá chín từng Trời đến vị.
  2. Thần đặng an, Tinh Khí cũng an.
  3. Tầng Trời gắng bước lên thang.
  4. Trông mây nhìn lại cảnh nhàn buổi xưa.
  5. Cõi thảm khổ đã vừa qua khỏi.
  6. Quên trần ai, mong mỏi Ðộng Ðào.
  7. Ngó chi khổ hải sóng xao,
  8. Ðoạn tình yểm dục đặng vào cõi Thiên.
  9. Giọt lụy của Cửu Huyền dầu đổ,
  10. Chớ đau lòng thuận nợ trầm luân.
  11. Nắm cây huệ kiếm gươm thần,
  12. Dứt tan sự thế nợ trần từ đây.

GIẢI NGHĨA

Kinh Khai Cửu, Ðại Tường và Tiểu Tường do Ðức Quan Âm Bồ Tát giáng cơ ban cho để đồng nhi tụng mở đầu trước khi tụng Kinh Tuần Cửu, Kinh Tiểu Tường hay Ðại Tường.

Tuần Cửu: Tuần là khoảng thời gian đều đặn gồm nhiều ngày, Cửu là 9. Tuần Cửu là khoảng thời gian 9 ngày.

Một tín đồ Cao Ðài khi chết, được thân nhân làm Tuần Cửu tại Thánh Thất sở tại, với một nghi thức đặc biệt ấn định trong Nghi Lễ của Ðạo Cao Ðài.

Cứ sau khi chết được 9 ngày thì thân nhân đến Thánh Thất sở tại làm Tuần Nhứt Cửu, rồi tiếp theo đếm 9 ngày nữa thì làm Tuần Nhị Cửu, vv., cho đến Tuần Cửu Cửu mới chấm dứt Tuần Cửu, tổng cộng là 81 ngày.

(Phật giáo thì làm Tuần Thất [Tuần 7 ngày], sau khi chết được 7 ngày thì làm Tuần Thất thứ nhứt, sau 7 ngày nữa thì làm Tuần Thất thứ nhì, vv. và tiếp tục đến Tuần Thất thứ bảy là chấm dứt, tính chung là 49 ngày).
  • Tuần nhứt Cửu: Ngày chết được kể là 1, đếm tới ngày thứ 9 thì làm Tuần Nhứt Cửu tại Thánh Thất sở tại, tụng Kinh Ðệ Nhứt Cửu.
  • Tuần Nhị Cửu: Tiếp tục đếm tới ngày thứ 18 thì làm Tuần Nhị Cửu, cũng làm tại Thánh Thất sở tại, tụng bài Kinh Ðệ Nhị Cửu.
  • vv . . . . . . . . . . . . .
  • Tuần Cửu Cửu: Tiếp tục đếm tới ngày thứ 81 thì làm Tuần Cửu Cửu, là kỳ chót hết, nên gọi là Chung Cửu, cũng làm tại Thánh Thất sở tại y như 8 kỳ Cửu trước và tụng bài Kinh Ðệ Cửu Cửu.
Tiểu Tường: Tiểu là nhỏ, Tường là tốt lành. Tiểu Tường là điều tốt lành nhỏ. Ðại Tường là điều tốt lành lớn.

Trong nhà có tang, cả nhà đều đau buồn thương xót tưởng nhớ người quá cố. Nhưng thời gian lâu dần xoa dịu nỗi đau thương, cái buồn bớt dần, đem lại cái vui như một điều lành, điều tốt . Vì vậy, Tiểu Tường cũng là Tiểu Kiết Tường.

Theo Tân Luật của Ðạo Cao Ðài, hôm sau ngày làm Tuần Cửu Cửu, bắt đầu đếm 1, đếm tới ngày thứ 200 thì làm Lễ Tiểu Tường, cũng làm tại Thánh Thất sở tại, tụng bài Kinh Tiểu Tường.

Ðại Tường: Hôm sau ngày làm Tiểu Tường, bắt đầu đếm 1, đếm tới ngày thứ 300 thì làm Lễ Ðại Tường. Tới Ðại Tường là mãn tang, làm Lễ Trừ Phục (đốt áo tang và khăn tang).

Tính từ ngày chết đến ngày Lễ Ðại Tường mãn tang là 581 ngày, tức khoảng 1 năm 7 tháng rưỡi, chưa tới 2 năm.

Câu 1: Ðã quá chín từng Trời đến vị.

Chín từng Trời: Cửu Trùng Thiên. (Xem chi tiết nơi Câu 8 bài Niệm Hương). Phía trên 9 từng Trời, là từng Trời thứ 10, gọi là Hư Vô Thiên, có cõi Cực Lạc Thế Giới, là nơi hoàn toàn an vui sung sướng. Ðã quá 9 từng Trời: Ðã đi qua được 9 từng Trời, tức là đến được từng Trời thứ 10 có cõi Cực Lạc Thế Giới.
Vị: Ngôi vị. Ðến vị: Ðến chỗ đặt ngôi vị của mình.

C.1: Ðã qua khỏi Chín từng Trời (Cửu Trùng Thiên) thì đến cõi Cực Lạc Thế Giới là nơi có ngôi vị cũ của mình.

Câu 2: Thần đặng an, Tinh Khí cũng an.

Thần, Tinh, Khí: Ðây là Tam bửu của con người. Tinh là Thể xác, Khí là Chơn thần, Thần là Chơn linh hay Linh hồn.

C.2: Người chết rồi thì Thể xác nằm yên trong lòng đất, còn Chơn thần và Chơn linh được các Ðấng Thiêng liêng cứu giúp nên cũng được yên ổn.

Câu 3: Tầng Trời gắng bước lên thang.

Các từng Trời từ thấp dần dần lên cao như những nấc thang, Chơn thần cố gắng bước lên.

Câu 4: Trông mây nhìn lại cảnh nhàn buổi xưa.

Trông thấy các lớp mây thì nhìn lại cái cảnh thong dong nhàn hạ thuở xưa, lúc còn ở cõi Thiêng Liêng, chưa đầu kiếp xuống trần.

Câu 5: Cõi thảm khổ đã vừa qua khỏi.

Cõi thảm khổ là cõi trần, Chơn thần đã vừa thoát ra khỏi cõi trần.

Câu 6: Quên trần ai, mong mỏi Ðộng Ðào.

Trần ai: Trần là bụi bặm, ai là bụi. Trần ai là chỉ cõi trần, cõi của nhơn loại đang sống, vì cõi nầy có nhiều bụi bặm ô trược. Ðộng Ðào: chỉ cõi Tiên. (Xem Ðiển tích C.5 Kinh Khi Về)

C.6: Quên đi cõi trần đầy bụi bặm ô trược nầy, hãy mong mỏi đi lên cõi Tiên.

Câu 7-8: Ngó chi khổ hải sóng xao,
Ðoạn tình yểm dục đặng vào cõi Thiên.

Ngó chi: Nhìn làm chi.
Khổ hải: Biển khổ, chỉ cõi trần.
Sóng xao: Những làn sóng xao động trên mặt nước.

Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo Con đường Thiêng liêng Hằng sống, có đoạn nói về Khổ hải sóng xao:

"Chúng ta dòm phía dưới thấy đại hải mênh mông, nước cuồn cuộn xanh như biếc, sóng dợn ba đào, mỗi làn sóng có đề chữ KHỔ, chúng ta chia ra đi trên ấy, chúng ta thấy dợn hào quang nổi lên dữ tợn lắm, mấy chữ lớn là: Sanh, Lão, Bệnh, Tử, làn sóng dợn lên rồi hạ xuống, mỗi làn đều có một chữ KHỔ. Chúng ta thấy đau khổ trong buổi sanh, thấy làn sóng rồi chúng ta thấy khổ nhục, khổ dữ lắm, mỗi làn sóng đều thấy khổ, thử nghĩ đại hải như thế nào thì khổ hải là cả nước chúng ta như thế ấy."

Ðoạn tình: Ðoạn là cắt đứt, tình là các thứ tình cảm của con người.
Con người có Thất Tình: Hỷ [mừng], Nộ [giận], Ái [thương], [ghét], Ai [buồn], Lạc [vui], Dục [muốn]. Ðoạn tình là cắt đứt các thứ tình cảm.

Yểm dục: Yểm là đè nén, dục là ham muốn.
Con người có Lục Dục, tức là 6 thứ ham muốn, kể ra: Sắc dục [ham muốn sắc đẹp], Thinh dục [ham muốn âm thanh êm tai], Hương dục [ham muốn mùi thơm],Vị dục [ham muốn ăn ngon], Xúc dục [ham muốn da thịt mát mẻ], Ý dục [ham muốn được thỏa mãn ý nghĩ]. Yểm dục là đè nén lòng ham muốn. Lòng ham muốn là của xác thịt nên có xu hướng về đường vật chất, xúi giục con người làm điều sái quấy để nó được thỏa mãn. Cho nên cần phải đè nén lòng dục, và cần chuyển hóa nó vào đường cao thượng.

C.7-8: Ngó chi khổ hải sóng xao, Ðoạn tình yểm dục đặng vào cõi Thiên, nghĩa là: Ðừng nhìn biển khổ đang dợn sóng ba đào, hãy cắt lìa các thứ tình cảm và đè nén lòng ham muốn thì mới vào được cõi Trời (cõi Thiêng Liêng Hằng Sống).

Con người có Thất TìnhLục Dục. Chúng là mối loạn hằng ngày trong tâm trí. Con người vì bị Thất Tình Lục Dục khiến sai mà hao tổn tinh thần, tiêu mòn khí phách. Chúng luôn luôn xô đẩy con người vào hang sâu vực thẳm.

Làm người phải lập chí cao thượng, đừng để Thất Tình cám dỗ, Lục Dục khiến sai, mình phải có ý chí cương quyết mạnh mẽ làm chủ nó, hướng dẫn nó vào đường đạo đức, chớ đừng yếu ớt lôi thôi, mới mong đắc đạo, bước vào Tiên cảnh.

Câu 9-10:Giọt lụy của Cửu Huyền dầu đổ,
Chớ đau lòng thuận nợ trầm luân.

Giọt lụy: Giọt nước mắt, chỉ sự đau khổ thương tiếc.

Cửu huyền: Theo nghĩa thông thường thì Cửu Huyền là Tổ Tiên 9 đời trước mình, sanh ra dòng họ nhà mình. Thờ Cửu Huyền là ý nói mình thờ Tổ Tiên 9 đời trước mình. (Xem chi tiết: Cửu Huyền Thất Tổ, C.20 Kinh Cầu Tổ Phụ Ðã Qui Liễu)

Nhưng trong Câu Kinh nầy: Giọt lụy của Cửu Huyền dầu đổ, là ý nói những người thân yêu đang chảy nước mắt khóc than thương tiếc cho cái chết của người thân, như thế thì Cửu Huyền ở đây là chỉ những người thân thiết đang còn sống, đang còn hiện tiền, mới khóc than trước cái chết của người thân yêu.

Do đó, theo hướng nầy, chúng ta giải thích chữ Cửu Huyền là Cửu Tộc, bởi vì Bổn thị Cửu Tộc tức Hệ thống Cửu Huyền, Cửu Tộc và Cửu Huyền đều có cùng một nguyên lý.

  • Theo Tộc chế đời nhà Châu, Cửu Tộc là 9 hạng người có liên hệ thân thuộc với bản thân mình, kể ra như sau:
    • 1. Những người trong ngũ phục thuộc họ cha.
    • 2. Cô và con cô.
    • 3. Chị em gái và con của chị em gái.
    • 4. Con gái và con của con gái.
Bốn hạng người trên thuộc tộc cha.
    • Cha của mẹ, tức là Ông ngoại.
    • Mẹ của mẹ, tức là Bà ngoại.
    • Chị em gái của mẹ và con của các vị ấy.
Ba hạng người nầy thuộc tộc của mẹ.
    • Cha vợ.
    • Mẹ vợ.
Hai hạng người nầy thuộc tộc của vợ.
  • Nếu không căn cứ theo Tộc chế của nhà Châu, mà căn cứ theo sự gần gũi thương yêu, Cửu Tộc là 9 hạng người gần gũi thân thiết nhứt của mình có thể được kể ra như sau:
    1. Cha ruột.
    2. Mẹ ruột.
    3. Cha vợ [hoặc Cha chồng].
    4. Mẹ vợ [hoặc Mẹ chồng].
    5. Vợ [hoặc chồng] của BẢN THÂN.
    6. Anh chị ruột.
    7. Em ruột trai hay gái.
    8. Con.
    9. Cháu.
C.9: Dầu cho những người thân thích trong 9 hạng đổ lệ khóc than thương tiếc cái chết của mình.

Thuận: Bằng lòng theo.
Trầm luân: Chìm đắm.
Thuận nợ trầm luân: Bằng lòng đi theo sự kéo níu tình cảm của những người thân yêu để phải chìm đắm trong vòng luân hồi.

C.9-10: Giọt lụy của Cửu Huyền dầu đổ, Chớ đau lòng thuận nợ trầm luân. Nghĩa là: Dầu cho những người thân yêu đổ lệ khóc than thương tiếc cái chết của mình, thì mình cũng chớ đau lòng mà trở lại cõi trần để phải chịu chìm đắm trong vòng luân hồi.

Câu 11-12: Nắm cây huệ kiếm gươm thần,
Dứt tan sự thế nợ trần từ đây.

Huệ: Sáng suốt, thông hiểu sự lý, dứt điều mê muội.
Thần: Thiêng liêng huyền diệu.
Huệ kiếm gươm thần: Cây kiếm trí huệ, cây gươm mầu nhiệm. Ðây là cách nói so sánh cho dễ hiểu, bởi vì người chiến sĩ dùng gươm và kiếm để đánh thắng kẻ địch, còn người tu thì dùng cái trí huệ đạt được của mình làm như cây gươm cây kiếm để quyết thắng các tên giặc Lục dục Thất Tình và chặt đứt mọi phiền não, mọi sợi dây ràng buộc con người vào cõi trần, để trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Dứt tan: Làm cho mất hẳn.
Sự thế: Việc đời.
Nợ trần: Các món nợ oan nghiệt gây ra nơi cõi trần.

C.11-12: Cầm chặt cây kiếm trí huệ huyền diệu để dẹp tan việc đời và chặt đứt các món nợ oan nghiệt ràng buộc vào cõi trần thì từ đây mới có thể trở về cõi Thiêng Liêng.
Kinh Đệ Nhứt Cửu

Kinh Đệ Nhứt Cửu


(Giọng Nam Xuân)

BÀI KINH

  1. Vườn Ngạn Uyển sanh hoa đã héo.
  2. Khối hình hài đã chịu rã tan.
  3. Bảy dây oan nghiệt hết ràng,
  4. Bợn trần rửa sạch muôn ngàn đau thương.
  5. Kìa Thiên cảnh con đường vòi vọi.
  6. Ánh Hồng Quân đương chói Ngọc Lầu.
  7. Cung Thiềm gắng bước cho mau.
  8. Thoát ba Thần phẩm đứng đầu Tam Thiên.
  9. Khá tỉnh thức tiền duyên nhớ lại,
  10. Ðoạn cho rồi oan trái buổi sanh.
  11. Ðem mình nương bóng Chí Linh,
  12. Ðịnh tâm chí Thánh mới gìn ngôi xưa.
  13. Hồn định tỉnh đã vừa định tỉnh.
  14. Phách anh linh ắt phải anh linh.
  15. Quản bao Thập ác Lục hình,
  16. Giải thi thoát khổ diệt hình đoạt căn.
  17. (Niệm Câu Chú của Thầy 3 lần)

GIẢI NGHĨA


Kinh Ðệ Nhứt Cửu do Nhứt Nương Diêu Trì Cung giáng cơ ban cho. Nhứt Nương có nhiệm vụ cai quản Vườn Ngạn Uyển của Ðức Phật Mẫu, và hướng dẫn các Chơn hồn vừa mới thoát xác, lên từng Trời thứ nhứt, đến Vườn Ngạn Uyển xem cái hoa của mình mới vừa héo úa. Các Chơn hồn còn được Nhứt Nương giúp cho định tỉnh Chơn thần và Chơn linh.

Câu 1: Vườn Ngạn Uyển sanh hoa đã héo.

Ngạn Uyển: Ngạn là bờ cao, Uyển là cái vườn của nhà vua. Ngạn Uyển là cái vườn hoa của Ðức Phật Mẫu nơi cõi Thiêng Liêng. Trong vườn Ngạn Uyển có trồng đủ 12 sắc hoa khác nhau, tượng trưng 12 con Giáp (Thập nhị Ðịa Chi). Tuổi của con người nằm trong 12 con Giáp nầy. Mỗi sanh mạng của con người nơi thế gian đều được tượng hình bằng một cái hoa nở trong vườn. Mỗi khi hoa ấy héo tàn thì người ấy lìa trần trở về cõi Thiêng Liêng. Khi người ấy tái kiếp xuống trần thì hoa ấy lại nở ra. Khi người ấy làm điều đạo đức thì sắc hoa tươi thắm, nếu làm điều gian ác thì sắc hoa ủ dột xấu xí.

Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo Con đường Thiêng Liêng Hằng Sống:

"Trước mắt chúng ta hiện tượng hào quang chiếu diệu một vườn hoa, đẹp đẽ đủ màu. Vườn hoa ở cảnh Thiêng Liêng ấy không phải như vườn hoa ở thế gian nầy đâu! Bông hoa thiêng liêng ấy sẽ sống một triệu lần do nơi huyền năng biến hóa của nó, và nó sẽ hiện tượng biến hóa trước mặt ta vô cùng vô tận vậy. Bởi vì nó thay đổi màu sắc rực rỡ vô biên, cho nên mỗi phen kiếp sanh tại thế nầy, đường tấn hóa trên con đường trí thức tinh thần, mỗi khi nhơn loại tiến triển lên thì vườn Ngạn Uyển nó sẽ đổi hình đổi tướng một cách đẹp đẽ vô ngần."

C.1: Một cái hoa được sanh ra ở trong vườn Ngạn Uyển mà héo tàn thì một sanh mạng con người nơi cõi trần đã chết.

Câu 2: Khối hình hài đã chịu rã tan.

Khối hình hài: Thể xác phàm bằng xương bằng thịt.
C.2: Thể xác phàm chết thì sình thúi và rã tan thành đất.

Câu 3-4: Bảy dây oan nghiệt hết ràng,
Bợn trần rửa sạch muôn ngàn đau thương.

Bảy Dây oan nghiệt: Khi con người sống nơi cõi trần, Chơn thần liên lạc với Thể xác qua 7 dòng điện từ [còn gọi là 7 sợi dây từ khí] mà mắt phàm không thấy được.

Nhờ 7 dòng điện từ nầy mà Chơn thần ra lịnh cho Thể xác phải làm đúng theo lời dạy bảo của Chơn linh, nhưng cũng qua 7 dòng điện từ nầy mà Xác phàm đòi hỏi Chơn thần phải làm cho nó thỏa mãn. Nếu Chơn linh yếu đuối không ngăn cản nổi thì Chơn thần làm theo sự đòi hỏi của Thể xác, nên mới gây ra nhiều mối oan nghiệt trong kiếp sống. Do đó mới gọi 7 dòng điện từ nầy là 7 dây oan nghiệt.

Khi ta nằm chiêm bao, Chơn thần xuất khỏi Thể xác, nhưng vẫn nối liền Thể xác bằng 7 dòng điện từ. Khi có tiếng động mạnh, Thể xác nghe được, liền dùng 7 dòng điện từ nầy kéo Chơn thần trở về lập tức, và liền đó ta giựt mình thức dậy.

Bảy dây oan nghiệt ở vào 7 nơi trong cơ thể:
  1. Trên đầu [mỏ ác].
  2. Ngay trán.
  3. Ngay cổ.
  4. Ngay tim.
  5. Ngay hông trái,
  6. Ngay dạ dưới.
  7. Dưới xương khu.
Khi Thể xác chết, 7 dây oan nghiệt vẫn còn kéo níu Chơn thần, ràng buộc Chơn thần không cho xuất ra. Do đó, Ðức Chí Tôn ban cho Phép Ðoạn Căn để Chức sắc hành pháp cắt đứt 7 dây oan nghiệt, Chơn thần mới xuất ra rời bỏ thể xác, bay lên cõi Thiêng Liêng.

Bợn trần: Các thứ dơ bẩn nơi cõi trần làm ô trược bổn tánh tốt đẹp và Chơn thần của con người.

Câu kinh 4 nói về Phép Xác, Chức sắc hành pháp dùng Cam Lồ Thủy tẩy rửa Chơn thần của người chết cho thanh khiết , trước khi hành pháp Ðoạn Căn cắt 7 dây oan nghiệt.

C.3-4: 7 sợi dây oan nghiệt đã được cắt đứt rồi, không còn ràng buộc Chơn thần nữa, đồng thời cũng đã rửa sạch hết các nhơ bợn của cõi trần bám vào Chơn thần làm cho Chơn thần dứt hết các nỗi đau thương.

Câu 5: Kìa Thiên cảnh con đường vòi vọi.

Thiên cảnh: Cõi Trời, cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Vòi vọi: Ở cao quá tầm nhìn của mắt như là không thấy đâu là tận cùng.

C.5: Kìa là con đường cao vòi vọi đi lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Câu 6: Ánh Hồng Quân đương chói Ngọc Lầu.

Hồng Quân: Hồng là to lớn, Quân là cái bàn xoay của người thợ nặn đồ gốm. Hồng Quân là cái bàn xoay to lớn dùng để nặn ra các thứ đồ vật, ý so sánh để nói rằng: Ðấng Tạo Hóa là Ông Thợ Trời, chuyển vận 2 khí Âm Dương làm như cái bàn xoay to lớn để tạo hóa ra vạn vật. Do đó, Hồng Quân là chỉ Ðức Chí Tôn. 
Ngọc Lầu: Tòa lầu đài bằng ngọc, ý nói Bạch Ngọc Kinh, nơi thường ngự của Ðức Chí Tôn.

C.6: Ánh hào quang của Ðức Chí Tôn đương chiếu sáng rực rỡ Bạch Ngọc Kinh.

Câu 7: Cung Thiềm gắng bước cho mau.

Cung Thiềm: Thiềm là con thiềm thừ, tục gọi là con cóc. Tương truyền trên Cung Trăng có một con thiềm thừ to lớn đẹp đẽ, đã sống được 8000 tuổi, dưới họng có chữ son. Do đó, Cung Thiềm là chỉ Cung Trăng hay Mặt trăng. Nơi đây là Bạch Vân Ðộng của chư Thánh, mà vị đứng đầu là Thanh Sơn Ðạo Sĩ, tức là Trạng Trình Nguyễn bỉnh Khiêm.

C.7: Kìa là Cung Trăng, Chơn thần cố gắng bước đi cho mau.

Câu 8: Thoát ba Thần phẩm đứng đầu Tam Thiên.

Ba Thần phẩm: 3 bực Thần: - Ðịa Thần, - Nhơn Thần, - Thiên Thần. Tam Thiên: Tam là thứ 3, Thiên là từng Trời. Tam Thiên là từng Trời thứ 3, đó là từng Thanh Thiên. Theo Vũ Trụ Quan của Ðạo Cao Ðài: Từng Trời thứ nhứt có Vườn Ngạn Uyển, Từng Trời thứ nhì có Vườn Ðào Tiên, Từng Trời thứ ba là Thanh Thiên, Từng Trời thứ tư là Huỳnh Thiên, vv.

C.8: Ði lên qua được 3 Thần phẩm thì Chơn hồn đứng đầu ở từng Trời thứ ba (để chuẩn bị đi lên từng Trời thứ tư).

Câu 9-10: Khá tỉnh thức tiền duyên nhớ lại,
Ðoạn cho rồi oan trái buổi sanh.

Khá: Nên, phải nên. 
Tỉnh thức: Thức tỉnh, tỉnh ra mà biết rõ, không còn mê lầm nữa. 
Tiền duyên: Duyên trước, tức là mối dây ràng buộc được định sẵn từ kiếp trước.
Ðoạn: Cắt đứt. 
Oan trái: Oan là thù giận, trái là món nợ. Oan trái là món nợ về thù giận, tức là món nợ oan nghiệt.
Buổi sanh: Lúc còn sống nơi cõi trần.

C.9-10: Nên thức tỉnh để nhớ lại là mình đã có duyên từ kiếp trước. Cắt đứt cho rồi các món nợ oan nghiệt mà mình đã gây ra lúc còn sống nơi cõi trần.

Câu 11-12: Ðem mình nương bóng Chí Linh,
Ðịnh tâm chí Thánh mới gìn ngôi xưa.


Nương: Dựa vào, nhờ cậy vào. 
Bóng: Ánh sáng.
Ðịnh tâm: Gìn giữ cái Tâm cho được yên ổn, không vọng động. 
Phép tu Thiền: Giới, Ðịnh, Huệ, là để định cái Tâm cho đến khi đạt được trí huệ. 
Chí Thánh: Rất thiêng liêng mầu nhiệm. Thánh là thiêng liêng mầu nhiệm. 
Ngôi xưa: Ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng.

C.11-12: Ðem mình nương theo ánh sáng của Ðức Chí Tôn mà bước tới. Ðịnh cái Tâm cho được thiêng liêng mầu nhiệm thì mới gìn giữ được ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng.

Câu 13: Hồn định tỉnh đã vừa định tỉnh.

Ðịnh tỉnh: Ðịnh là sắp đặt yên ổn, tỉnh là không mê, hiểu rõ mọi việc. Ðịnh tỉnh là làm cho tinh thần được yên ổn mà nhận biết rõ mọi việc.

C.13: Phải giữ cho linh hồn được yên ổn và thức tỉnh.

Câu 14: Phách anh linh ắt phải anh linh.

Phách: Chơn thần. 
Anh linh: Anh là đẹp nhứt, linh là thiêng liêng. Anh linh là cao quí thiêng liêng.

C.14: Chơn thần vốn cao quí thiêng liêng thì phải giữ cho luôn luôn được cao quí thiêng liêng.

Câu 15-16: Quản bao Thập ác Lục hình,
Giải thi thoát khổ diệt hình đoạt căn.
 
Quản bao: Chẳng ngại, có sá chi, coi không đáng kể.
Thập ác: Mười điều ác do Thân, Khẩu, Ý của con người gây ra. 
Thân thì tạo ra 3 điều ác: - Sát sanh, - Du đạo, - Tà dâm. 
Khẩu thì tạo ra 4 điều ác: - Nói dối, - Nói ác, - Nói chia rẽ, - Nói phù phiếm. 
Ý thì tạo ra 3 điều ác: - Tham lam, - Sân giận, - Si mê. 
Khi còn sống nơi cõi trần thì Thân, Khẩu, Ý còn gây ra được 10 điều ác. Nay Thể xác đã chết rồi thì không thể gây ra Thập ác, nên chẳng còn e ngại nữa.
Lục hình: Sáu hình thức phô bày ra nơi cõi trần, Phật giáo goị là Lục cảnh hay Lục trần, gồm: 
Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Trong thể xác con người có Lục căn: Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt, Thân, Ý, tức là: Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Da thịt,

Ý nghĩ. Lục cảnh phô bày trước Lục căn, hấp dẫn Lục căn, làm cho Lục căn ham muốn, sanh ra Lục dục: Sắc dục, Thinh dục, Hương dục, Vị dục, Xúc dục, Ý dục. Chính Lục dục nầy xúi giục và xô đẩy con người vào vòng vật chất, xa đường đạo đức, tạo ra cho con người biết bao mối oan nghiệt nơi cõi trần .

Khi thân thể con người chết đi thì Lục căn tiêu mất, cho nên dù Lục cảnh (Lục trần hay Lục hình) có cám dỗ thế mấy đi nữa thì cũng chẳng làm gì được.

Giải thi: Giải là cởi bỏ, Thi là thi hài thể xác. Giải thi là cởi bỏ thể xác, tức là thể xác chết vì Chơn thần và Linh hồn đã lìa bỏ thể xác. 
Thoát khổ: Thoát khỏi cảnh khổ não.
Diệt hình: Diệt là làm cho mất đi, tiêu diệt; Hình là hình thể sắc tướng. Diệt hình là là tiêu diệt hình thể sắc tướng, mà khi sắc tướng không còn nữa thì chỉ còn cái Vô vi, Vô hình.
Ðoạt căn: Ðoạt được cái nguồn gốc của mình, tức là đắc đạo, trở về ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng.

C.15-16: Quản bao Thập ác Lục hình, Giải thi thoát khổ diệt hình đoạt căn. Nghĩa là: Có sá chi Mười điều ác của Thân Khẩu Ý, Sáu cảnh hấp dẫn phô bày nơi cõi trần, vì nay đã cởi bỏ thể xác rồi, hình hài đã tiêu mất rồi, đã thoát khỏi các cảnh khổ não nơi cõi trần và đoạt được ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng.
* Kinh TÐ-TÐ năm 1936, Kinh Lễ năm 1952:
  • đoạt căn.
* Kinh TÐ-TÐ năm 1968, 1974, 1975:
  • đoạt căn.
Ðoạn căn: là phép cắt đứt 7 Dây oan nghiệt để cho Chơn thần thoát khỏi thể xác, trở về cõi thiêng liêng.
Khảo Dị-
Kinh Đệ Nhị Cửu

Kinh Đệ Nhị Cửu


(Giọng Nam Xuân)

BÀI KINH

  1. Tây Vương Mẫu vườn Ðào ướm chín.
  2. Chén trường sanh có lịnh ngự ban.
  3. Tiệc hồng đã dọn sẵn sàng,
  4. Chơn thần khá đến hội hàng chư Linh.
  5. Ðã thấy đủ Thiên đình huyền pháp.
  6. Cổi giác thân lên đạp Ngân kiều.
  7. Ðẩu tinh chiếu thấu Nguyên tiêu.
  8. Kim quang kiệu đỡ đến triều Ngọc Hư.
  9. Khí trong trẻo dường như băng tuyết.
  10. Thần im đìm dường nét thiều quang.
  11. Xa chừng thế giới Ðịa hoàn,
  12. Cõi Thiên đẹp thấy nhẹ nhàng cao thăng.
  13. (Niệm Câu Chú của Thầy 3 lần)

GIẢI NGHĨA


Kinh Ðệ Nhị Cửu do Nhị Nương Diêu Trì Cung giáng cơ ban cho. Nhị Nương có nhiệm vụ cai quản Vườn Ðào Tiên của Ðức Phật Mẫu, và hướng dẫn các chơn hồn từ từng Trời thứ nhứt đi lên từng Trời thứ hai, đến Vườn Ðào Tiên dự tiệc trường sanh.

Câu 1: Tây Vương Mẫu vườn Ðào ướm chín.

Tây Vương Mẫu: Một danh hiệu của Ðức Phật Mẫu.
Vườn Ðào: Vườn Ðào Tiên của Ðức Phật Mẫu. Trái Ðào Tiên còn được gọi là trái Bàn Ðào. Cây Ðào Tiên không trồng ở thế gian được vì theo lời Ðức Phật Mẫu, đất ở thế gian mỏng lắm. Tương truyền, vườn Ðào Tiên của Ðức Phật Mẫu có 3600 cây, chia làm 3 phần:

Ðàng trước có 1200 cây, hoa nhỏ trái nhỏ, 3000 năm mới chín, người ăn Ðào nầy thì thân thể nhẹ nhàng.
Khoảng giữa có 1200 cây, hoa thơm trái ngọt, 6000 năm mới chín, người ăn vào có thể bay bổng lên mây.
Phía sau có 1200 cây, trái có vỏ vân tím hột vàng, 9000 năm mới chín, người ăn vào được trường sanh bất lão.
Theo lời thuyết đạo của Ðức Phạm Hộ Pháp, nơi Diêu Trì Cung, Ðức Phật Mẫu trụ sanh quang lại làm thành một khối gọi là quả Ðào Tiên, đủ sự sống vĩnh cửu nơi cõi Hư linh. Người ăn trái Ðào Tiên sẽ được mạnh khỏe luôn, trẻ mãi không già.
Ðức Phật Mẫu dùng trái Ðào Tiên làm phần thưởng cho các Chơn linh đắc đạo trở về đến bái kiến Ðức Phật Mẫu.
Ướm chín: Trái cây vừa mới bắt đầu chín, màu hơi ửng lên.
C.1: Vườn Ðào Tiên của Phật Mẫu có trái sắp chín.

Câu 2: Chén trường sanh có lịnh ngự ban.

Trường sanh: Sống lâu dài.
Chén trường sanh: Chén rượu Tiên, uống vào thì được trường thọ.
Ngự ban: Ý nói Ðức Phật Mẫu ban tặng. Ngự là chỉ hành động của vua.
C.2: Chơn hồn lên đến Vườn Ðào Tiên thì có lịnh của Ðức Phật Mẫu ban cho chén rượu Tiên, để Chơn hồn uống vào được trường sanh.

Câu 3-4:
Tiệc hồng đã dọn sẵn sàng,
Chơn thần khá đến hội hàng chư Linh.

Tiệc hồng: Hồng là to lớn. Tiệc hồng là bữa tiệc lớn, long trọng, có nhiều người tham dự.
Khá đến: Nên đến.
Hội hàng: Hội hè, hội họp.
Chư Linh: Các Ðấng TL. Chư là nhiều vị, Linh là thiêng liêng.
C.3-4: Bữa tiệc lớn đã được dọn sẵn sàng, Chơn thần nên đến tham dự để hội họp cùng các Ðấng Thiêng liêng.

Câu 5: Ðã thấy đủ Thiên đình huyền pháp.

Thiên đình: Triều đình của Ðức Chí Tôn.
Huyền pháp: Phép thuật biến hóa huyền diệu.
C.5: Ðã thấy đủ các phép biến hóa huyền diệu của Thiên đình.

Câu 6: Cổi giác thân lên đạp Ngân kiều.

Cổi: Bỏ ra.
Giác thân: Giác là biết, thân là xác thân. Giác thân là xác thân có các cơ quan để nhận biết các sự vật và hiện tượng chung quanh. Ðây là xác thân phàm của con người có ngũ giác quan (Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Da).
Cổi Giác thân: Bỏ đi cái xác thân phàm, đừng luyến tiếc nó.
Ngân kiều: Ngân là sông Ngân, Ngân Hà; Kiều là cây cầu. Ngân kiều là cây cầu bắc qua Ngân Hà. Ngân Hà là con sông lớn nơi cõi Thiêng liêng, chia cách tình yêu của Ngưu Lang và Chức Nữ, đó là dòng sông đau khổ, nối liền với biển khổ, nên nó cũng được xem như biển khổ.
C.6: Cổi bỏ xác thân phàm, Chơn thần nhẹ nhàng đặt chân lên Ngân kiều để chuẩn bị đi qua biển khổ.

Câu 7: Ðẩu tinh chiếu thấu Nguyên tiêu.

Ðẩu tinh: Tinh là ngôi sao, Ðẩu tinh là ngôi sao Bắc Ðẩu.
Nguyên tiêu: Nguyên là bắt đầu, thứ nhứt; Tiêu là từng Trời. Nguyên tiêu là từng Trời thứ nhứt. Ở đây, Nguyên tiêu không có nghĩa là đêm rằm tháng giêng.
C.7: Sao Bắc Ðẩu chiếu sáng thấu đến từng Trời thứ nhứt.

Câu 8: Kim quang kiệu đỡ đến triều Ngọc Hư.

Kim quang: Lằn ánh sáng màu vàng.
Kiệu: Ðồ dùng sang trọng để ngồi trên đó có người khiêng đi.
Kiệu đỡ: Ngồi lên kiệu có người khiêng đi.
Triều: Chầu vua.
Ngọc Hư: Ngọc Hư Cung.
C.8: Lằn ánh sáng vàng làm như cái kiệu đỡ gót Chơn thần đưa đến chầu Ðức Chí Tôn nơi Ngọc Hư Cung.

Câu 9-10:
Khí trong trẻo dường như băng tuyết.
Thần im đìm dường nét thiều quang.

Khí và Thần: Tam bửu của con người là Tinh, Khí, Thần. Tinh là Thể xác, Khí là Chơn thần, Thần là Chơn linh.
Băng tuyết: Băng là nước đong lại thành những tảng lớn, thấy trong suốt. Tuyết là hơi nước gặp lạnh ở dưới 0oC, đông lại thành những hạt nhỏ rơi xuống trắng xóa. Băng tuyết là chỉ sự trong sạch.
Im đìm: Hoàn toàn im lặng.
Thiều quang: Thiều là đẹp, quang là ánh sáng. Thiều quang là ánh sáng đẹp. Ðó là ánh sáng của mùa Xuân.
C.9-10: Chơn thần thì trong trẻo tinh khiết như băng tuyết, còn Chơn linh thì im lìm và đẹp như ánh sáng mùa Xuân.

Câu 11-12:
Xa chừng thế giới Ðịa hoàn,
Cõi Thiên đẹp thấy nhẹ nhàng cao thăng.

Xa chừng: Chừng là mức độ hạn định một cách đại khái. Xa chừng là đã khá xa chỗ đó.
Ðịa hoàn: Ðịa là đất, hoàn là vùng đất lớn. Ðịa hoàn là Ðịa cầu.
Thế giới Ðịa hoàn: Ý nói Ðịa cầu 68 của nhơn loại.
C.11-12: Ði đã khá xa cõi trần, thấy cõi Thiêng Liêng Hằng Sống đẹp đẽ, Chơn thần nhẹ nhàng bay lên cao.
Kinh Đệ Tam Cửu

Kinh Đệ Tam Cửu


(Giọng Nam Xuân)

BÀI KINH

  1. Cõi Thanh Thiên lên miền Bồng đảo.
  2. Ðộng Thiên Thai Bảy Lão đón đường.
  3. Cam lồ rưới giọt nhành dương,
  4. Thất tình Lục dục như dường tiêu tan.
  5. Cung Ðẩu Tốt nhặt khoan tiếng nhạc.
  6. Ðệ lịnh bài cánh hạc đưa linh.
  7. Tiêu thiều lấp tiếng dục tình.
  8. Bờ dương bóng phụng đưa mình nâng thân.
  9. Cung Như Ý Lão Quân tiếp khách,
  10. Hội Thánh Minh giao sách Trường xuân.
  11. Thanh quang rỡ rỡ đòi ngàn.
  12. Chơn hồn khoái lạc lên đàng vọng Thiên.
  13. (Niệm Câu Chú của Thầy 3 lần)

GIẢI NGHĨA


Kinh Ðệ Tam Cửu do Tam Nương DTC giáng cơ ban cho. Tam Nương có nhiệm vụ hướng dẫn các chơn hồn lên Thanh Thiên, là từng Trời thứ 3 trong Cửu Trùng Thiên. Gọi là Thanh Thiên vì ở từng Trời nầy, ánh sáng đều có màu xanh.

Câu 1-2:
Cõi Thanh Thiên lên miền Bồng đảo.
Ðộng Thiên Thai Bảy Lão đón đường.

Bồng đảo: Ðảo Bồng Lai. Tương truyền ở biển Bột Hải nơi cõi TL có 3 hòn đảo: Bồng đảo [tức là đảo Bồng Lai], Dinh đảo [tức là đảo Dinh Châu], Phương đảo [tức là đảo Phương Trượng]. Ba hòn đảo nầy đều có các vị Tiên đến ở. Trên đảo Bồng Lai có núi Bồng Lai (Bồng sơn) là nơi ở của Bát Tiên. Nước biển chung quanh 3 hòn đảo nầy thì rất nhẹ, không đỡ nổi hột cải, nên gọi là Nhược Thủy (nước yếu).

Ðộng: Hang đá trong núi.
Thiên Thai: tên của một hòn núi có Tiên ở. Trong truyện Lưu Thần và Nguyễn Triệu, hai chàng đi lên núi Thiên Thai hái thuốc, bị lạc không biết đường về, xảy gặp 2 nàng Tiên từ trong núi đi ra, rồi kết duyên cùng 2 nàng Tiên nầy. Ở núi Thiên Thai được chừng nửa năm, 2 chàng nhớ quê đòi trở về thăm. Khi về đến nhà thì con cháu đã đến đời thứ 7, không còn ai nhận ra. Hai chàng thất vọng, buồn bã trở lại núi Thiên Thai thì không tìm được đường lên núi, đành chịu chết ở chơn núi.
Bảy Lão: Bảy Ông Tiên, có lẽ đây là Trúc Lâm Thất Hiền tu thành Tiên. Ðây là 7 Ông Hiền ở trong rừng trúc, vào đời nhà Tấn bên Tàu, có tên là: Nguyễn Tịch, Kê Khang, Hướng Tú, Lưu Linh, Sơn Ðào, Nguyễn Hàm, Vương Nhung.

C.1-2: Từ cõi Thanh Thiên đi lên miền đảo Bồng Lai, có 7 Ông Tiên ở động Thiên Thai ra đường đón tiếp.

Câu 3-4:
Cam lồ rưới giọt nhành dương,
Thất tình Lục dục như dường tiêu tan.

Cam lồ: Nước Cam lồ, thứ nước huyền diệu do Ðức Quan Âm Bồ Tát chế thành. Thường thấy trên các hình hay tượng Ðức Quan Thế Âm, tay trái của Ðức Bồ Tát cầm Tịnh bình chứa nước Cam lồ, tay mặt cầm cành dương liễu, để nhúng vào Tịnh bình mà làm phép rải nước Cam lồ.
Giọt nhành dương: Giọt nước nơi cành dương liễu, đó là giọt nước Cam lồ của Ðức Quan Âm Bồ Tát.
C.3-4: Dùng cành cây dương liễu nhúng vào nước Cam lồ, rải lên Chơn thần để làm cho Lục dục và Thất tình tiêu tan.

Hai Câu kinh nầy là nói về Phép Xác: Vị Chức sắc hành pháp dùng nước Âm Dương cúng nơi Thiên bàn, đổ chung lại để luyện thành Cam lồ thủy, rồi dùng cành dương liễu nhúng vào nước nầy rải lên Chơn thần người chết đang nằm trong quan tài, để tẩy rửa Chơn thần cho được tinh khiết. Vị Chức sắc hành pháp phải trụ thần cho có huệ nhãn mới nhìn xuyên qua được lớp ván của quan tài, thấy được Chơn thần của người chết, thì việc hành pháp mới đạt hiệu quả huyền diệu.

Câu 5: Cung Ðẩu Tốt nhặt khoan tiếng nhạc.

Cung Ðẩu Tốt: Ðây là Cung Ðẩu Suất của Ðức Thái Thượng Lão Quân.
Nhặt khoan: Khi nhanh khi chậm.

C.5: Nơi Cung Ðẩu Suất của Ðức Thái Thượng Lão Quân có tiếng nhạc phát ra khi nhanh khi chậm.

Câu 6: Ðệ lịnh bài cánh hạc đưa linh.

Ðệ: Ðưa lên cấp trên với cử chỉ kính trọng.
Lịnh bài: Cái thẻ bài dùng làm hiệu lịnh của một vị Bề Trên cấp cho. Cánh hạc: Ðôi cánh chim hạc. Ðưa linh: Ðưa linh hồn đi lên.

C.6: Trình cái thẻ lịnh bài thì được cỡi lên chim hạc để chim hạc đưa chơn linh đi lên.

Câu 7: Tiêu thiều lấp tiếng dục tình.

Tiêu thiều: Tiêu là cái ống sáo, thiều là sáng đẹp. Tiêu thiều là tên của một khúc nhạc thổi bằng ống sáo nghe rất réo rắt, khiến người nghe có tư tưởng trở nên cao thượng. Tương truyền khúc nhạc Tiêu thiều nầy do Bà Nữ Oa chế ra và vua Thuấn học được, đem dạy cho nhạc công trong triều đình.

Dục tình: Lòng ham muốn vật chất hay thú vui xác thịt.

C.7: Tiêu thiều lấp tiếng dục tình, nghĩa là: Khúc nhạc tiêu thiều che lấp dục tình, khiến cho tâm hồn con người trở nên cao thượng.

Câu 8: Bờ dương bóng phụng đưa mình nâng thân.

Bờ dương: Cái bờ đất có trồng cây dương.
Trong Ðạo Ðức Kinh có câu: Dương vô trần nhiễm, Ðạo giả như dương. Nghĩa là: Cây dương không nhiễm bụi trần, Ðạo thì như cây dương. Do đó, Bờ dương là bờ đạo đức.

Bóng phụng: Hình ảnh của con chim phụng.
Bờ dương bóng Phụng: Do câu Hán văn: Phụng hàm đơn chiếu đề dương bạn, nghĩa là: Con chim phụng ngậm sắc lịnh của vua tiến lên bờ đạo đức. (Hàm là ngậm, Ðơn chiếu là tờ chiếu đỏ của vua, Ðề là tiến lên, Dương bạn là bờ dương).
Nâng thân: Nâng đỡ xác thân thiêng liêng đem lên.

C.8: Chim phụng đưa Chơn thần lên bờ đạo đức.

Câu 9-10:
Cung Như Ý Lão Quân tiếp khách,
Hội Thánh Minh giao sách Trường xuân.

Ðức Thái Thượng Lão Quân tiếp khách tại Cung Như Ý,
Ðức Thái Thượng hội chư Tiên và chư Thánh lại gọi là Hội Thánh Minh, giao cho Chơn hồn một quyển sách tên là sách Trường Xuân, để Chơn hồn học tập theo đó mà tu luyện thành bực Thánh, bực Tiên.

Câu 11-12:
Thanh quang rỡ rỡ đòi ngàn.
Chơn hồn khoái lạc lên đàng vọng Thiên.

Thanh quang: Ánh sáng màu xanh. Thanh là màu xanh. Nơi từng Trời Thanh Thiên, ánh sáng đều có màu xanh.
Rỡ rỡ: Sáng ngời rực rỡ chói lọi.
Ðòi ngàn: Ðòi là nhiều, ngàn là rừng núi. Ðòi ngàn là rừng núi chập chồng.
Vọng Thiên: Vọng là trông mong, Thiên là Trời. Vọng Thiên là trông mong lên Trời chầu Ðức Chí Tôn.

C.11-12: Thanh quang rỡ rỡ đòi ngàn, Chơn hồn khoái lạc lên đàng vọng Thiên. Nghĩa là: Ánh sáng màu xanh sáng ngời rực rỡ soi khắp núi rừng, Chơn hồn khoái lạc lên đường, trông mong lên Trời chầu Ðức Chí Tôn.
* Kinh Lễ 1952, Kinh TÐ-TÐ 1968, 1974:
  • đôi ngàn.
* Kinh TÐ-TÐ năm 1936, 1975:
  • đòi ngàn.
Ðôi: là hai.
Ðòi là nhiều.
Dùng chữ ÐÒI mới đúng.
Khảo Dị-

Kinh Đệ Tứ Cửu

Kinh Đệ Tứ Cửu


(Giọng Nam Xuân)

BÀI KINH

  1. Sắc huỳnh chiếu roi vàng đường hạc.
  2. Cõi Huỳnh Thiên nhẹ thoát chơn Tiên.
  3. Năm rồng đỡ nổi đầu thuyền,
  4. Vào Cung Tuyệt Khổ kiến Huyền Thiên Quân.
  5. Trừ quái khí roi thần chớp nhoáng,
  6. Bộ Lôi Công giải tán trược quang.
  7. Cửa Lầu Bát Quái chun ngang,
  8. Hỏa tinh Tam muội thiêu tàn oan gia.
  9. Ðạp Thái sơn nhảy qua Ðẩu Suất.
  10. Vịn Kim câu đến chực Thiên môn.
  11. Chơn thần đã nhập Càn khôn.
  12. Thâu quyền độ thế bảo tồn chúng sanh.
  13. (Niệm Câu Chú của Thầy 3 lần)

GIẢI NGHĨA

Kinh Ðệ Tứ Cửu do Tứ Nương Diêu Trì Cung giáng cơ ban cho. Tứ Nương có nhiệm vụ hướng dẫn các Chơn hồn lên từng Trời Huỳnh Thiên. Từng Trời nầy có ánh sáng đều màu vàng, nên được gọi là Huỳnh Thiên. Huỳnh là màu vàng.

Câu 1: Sắc huỳnh chiếu roi vàng đường hạc.

Roi: Lưu lại, roi dấu.
Ðường hạc: Ðường bay của chim hạc.
C.1: Ánh sáng màu vàng chiếu vào làm cho đường bay của chim hạc lưu lại màu vàng.
* Kinh Lễ in bên Pháp 1952:
  • chiếu rõi vàng.
* Kinh TÐ-TÐ năm 1936, 1968, 1974, 1975:
  • chiếu rõi vàng.
Rõi: Dõi, theo sát, nối theo.
Khảo Dị-
Câu 2: Cõi Huỳnh Thiên nhẹ thoát chơn Tiên.

Nhẹ thoát: Thanh thoát nhẹ nhàng.
Nhẹ thoát chơn Tiên: Bước chơn đi nhẹ nhàng thanh thoát như Tiên.

C.2: Bước chơn nhẹ nhàng thanh thoát như Tiên đi lên từng Trời Huỳnh Thiên.

Câu 3-4:
Năm rồng đỡ nổi đầu thuyền,
Vào Cung Tuyệt Khổ kiến Huyền Thiên Quân.

Kiến: Thấy, gặp.
Thường nói: Bái kiến là lạy chào, mừng gặp một Ðấng Thiêng liêng.

C.3-4: Chơn hồn bước xuống chiếc thuyền có 5 con rồng đỡ đầu thuyền nổi lên, đưa Chơn hồn vào Cung Tuyệt Khổ để bái kiến Ðức Huyền Thiên Quân.

Ðức Huyền Thiên Quân ở Cung Tuyệt Khổ chỉ là một hóa thân của Ðấng Thượng Ðế, bởi vì theo nấc thang Tiến Hóa với đề mục là chữ Khổ: Bực Hiền thì Tùng Khổ, Thần thì Thắng khổ, Thánh thì Thọ Khổ, Tiên thì Thoát Khổ, Phật thì Giải Khổ, Thượng Ðế thì Tuyệt Khổ. (Tuyệt là dứt).

Câu 5-6:
Trừ quái khí roi thần chớp nhoáng,
Bộ Lôi Công giải tán trược quang.

Trừ: Loại bỏ, làm mất đi.
Quái khí: Tà khí, chất khí độc.
Roi thần: Thần là thiêng liêng huyền diệu. Roi thần là cái roi có phép tắc huyền diệu. Chớp nhoáng: Lóe sáng lên rồi tắt, rồi lại lóe sáng lên lại tắt, cứ thế tiếp diễn nhiều lần.
Bộ Lôi Công: Lôi Công là Thần làm Sấm sét. Bộ Lôi Công là cơ quan gồm những vị Thần Sấm sét. Ðứng đầu Bộ Lôi Công là Thái Sư Văn Trọng vào thời Phong Thần, tước hiệu Cửu Thiên Cảm Ứng Lôi Thinh Phổ Hóa Thiên Tôn.
Giải tán: Làm cho tiêu tan mất.
Trược quang: Trược là dơ bẩn hôi hám; quang là ánh sáng, ở đây có nghĩa là chất khí. Trược quang là chất khí dơ bẩn hôi hám.

C.5-6: Cây roi thần quơ lên lóe sáng để tẩy trừ tà khí, và các Thần Sấm sét trong Bộ Lôi Công làm tiêu tan hết các chất ô trược bám vào Chơn thần.

Câu 7-8:
Cửa Lầu Bát Quái chun ngang,
Hỏa tinh Tam muội thiêu tàn oan gia.

Lầu Bát Quái: Bát Quái Đài nơi cõi Thiêng Liêng.
Chun ngang: Chui qua.
Hỏa tinh: Sao Hỏa, chỉ về lửa.
Tam-muội: Phiên âm từ tiếng Phạn: Samadhi, nghĩa là Thiền định, Ðại định. Hỏa tinh Tam-muội là phép Thiền định lấy Chơn Hỏa của Ngũ Hành trong cơ thể mà luyện thành lửa để tung ra. Phật giáo gọi phép nầy là: Hỏa diệm Tam-muội hay Hỏa quang Tam muội. Ðức Phật Thích Ca có dùng phép nầy, từ trong thân Ngài xuất ra thứ lửa huyền diệu để hàng phục giống rồng độc.

Ðức Cao Thượng Phẩm, trong Luật Tam Thể có nói về Hỏa tinh, trích ra sau đây: "Hỏa tinh, tiếng Pháp gọi là Calorie về Y học, còn gọi là Feu Serpent về khoa Thần Linh học, nó chạy luồn trong tủy và tiết ra bởi các dây thần kinh. Muốn luyện Hỏa tinh, phải tịnh tâm, định trí, trụ Thần (Tam-muội) mà chuyển vận, tức là lấy khí Dương vào cơ thể đó vậy. Phải lấy trí mà điều khiển nó,"

Thiêu tàn: Ðốt cho cháy tiêu hết. Thiêu là đốt cháy, tàn là hết.
Oan gia: Oan gia là người có thù giận với mình.

C.7-8: Chơn thần chun ngang qua cửa Bát Quái Đài, các Ðấng dùng lửa Tam-muội đốt cháy tiêu hết các oan gia nghiệp chướng.

Câu 9: Ðạp Thái sơn nhảy qua Ðẩu Suất.

Thái sơn: Núi Thái Sơn nơi cõi Huỳnh Thiên.
Ðẩu Suất: Cung của Ðức Thái Thượng Lão Quân.

C.9: Chơn thần đã có Thần thông, nên đứng trên núi Thái sơn nhảy qua tới Cung Ðẩu Suất.

Câu 10: Vịn Kim câu đến chực Thiên môn.

Vịn: Dựa vào.
Kim: Vàng.
Câu: Bắt giữ, dẫn dắt.
Kim câu: Cái Câu Tiên bài bằng vàng của Ðức Thái Thượng, Giáo chủ Ðạo Tiên, dùng làm lịnh điều khiển các vị Tiên. Người nào cầm Câu Tiên bài ra lịnh thì mọi người phải tuân theo vì đó là lịnh của Giáo chủ.
Chực: Chờ sẵn.

C.10: Dựa vào Câu Tiên bài của Ðức Thái Thượng Lão Quân, Chơn thần đến chờ sẵn tại cửa Trời.
* Kinh Lễ 1952, Kinh TÐ-TÐ 1974, 1975:
  • Ðịnh Kim câu ....
* Kinh TÐ-TÐ năm 1936:
  • Dịnh Kim câu ....
* Kinh TÐ-TÐ năm 1968:
  • Vịn Kim câu ....
Ðịnh: Sắp đặt để làm, sắp đặt cho yên.
Khảo Dị-
Câu 11-12:
Chơn thần đã nhập Càn khôn.
Thâu quyền độ thế bảo tồn chúng sanh.

Thâu: Ðem vào, ý nói có.
Ðộ thế: Cứu đời, cứu giúp người đời.
Bảo tồn: Gìn giữ cho còn.
Chúng sanh: Các loài sanh vật gồm: Thảo mộc, Thú cầm và Nhơn loại.

C.11-12: Chơn thần đã nhập vào Càn Khôn Vũ Trụ (tức là đắc đạo), nên có quyền trở lại cõi trần để cứu giúp người đời và bảo tồn chúng sanh.
Kinh Đệ Ngũ Cửu

Kinh Đệ Ngũ Cửu


(Giọng Nam Xuân)

BÀI KINH

  1. Ánh hồng chiếu đường mây rỡ rỡ.
  2. Cõi Xích Thiên vội mở ải quan.
  3. Thiên Quân diêu động linh phan.
  4. Cả miền Thánh vức nhộn nhàng tiếp nghinh.
  5. Ðài Chiếu Giám Cảnh Minh nhẹ bước,
  6. Xem rõ ràng tội phước căn sinh.
  7. Lần vào Cung Ngọc Diệt Hình,
  8. Khai Kinh Vô Tự đặng nhìn quả duyên.
  9. Ðắc văn sách thông Thiên định Ðịa,
  10. Phép huyền công trụ nghĩa hóa thân.
  11. Kỵ Kim quang kiến Lão Quân.
  12. Dựa xe Như Ý, Oai Thần tiễn thăng.
  13. (Niệm Câu Chú của Thầy 3 lần)

GIẢI NGHĨA


Kinh Ðệ Ngũ Cửu do Ngũ Nương Diêu Trì Cung giáng cơ ban cho. Ngũ Nương có nhiệm vụ hướng dẫn các chơn hồn lên từng Trời Xích Thiên. Gọi là Xích Thiên bởi vì ở từng Trời nầy, ánh sáng đều có màu hồng. Xích là màu hồng.

Câu 1: Ánh hồng chiếu đường mây rỡ rỡ.

Ánh hồng: Ánh sáng màu hồng.
Chiếu: Rọi sáng.
Ðường mây: Ðường đi trên mây.
Rỡ rỡ: Sáng ngời, rực rỡ.

C.1: Ánh sáng hồng chiếu rực rỡ con đường đi trên mây.

Câu 2: Cõi Xích Thiên vội mở ải quan.

Xích: Màu hồng.
Xích Thiên: Từng Trời có ánh sáng màu hồng. Ðó là từng Trời thứ 5 trong Cửu Trùng Thiên.
Ải quan: Cửa ải, cửa ngõ ra vào đặt tại biên giới của một nước.

C.2: Cửa ải đi vào từng Trời Xích Thiên vội vàng mở ra.

Câu 3: Thiên Quân diêu động linh phan.

Thiên Quân: Vị tướng Trời.
Diêu động: Dao động, chuyển động đưa qua đưa lại một cách đều đặn.
Linh phan: Cây Phướn linh. Phan là cây Phướn. Linh là thiêng liêng.

C.3: Một vị Thiên Quân cầm cây phướn linh đưa qua đưa lại làm hiệu lịnh.

Câu 4: Cả miền Thánh vức nhộn nhàng tiếp nghinh.

Thánh vức: Vức tức là Vực, là một vùng đất. Thánh vức là vùng đất Thánh. Thánh vức đồng nghĩa với Thánh địa.
Nhộn nhàng: Nhộn nhịp, rộn rịp, đông đảo nhiều người vui vẻ lăng xăng công việc.
Tiếp nghinh: Ðón rước tiếp đãi.

C.4: Cả miền đất Thánh nhộn nhịp đón rước và tiếp đãi.

Câu 5-6:
Ðài Chiếu Giám Cảnh Minh nhẹ bước,
Xem rõ ràng tội phước căn sinh.

Ðài: Nơi xây cao lên.
Chiếu: Soi rọi.
Giám: Tấm kiếng, gương soi.
Ðài Chiếu Giám: là một cái đài trên đó có đặt một tấm kiếng lớn mà phép huyền diệu Thiêng Liêng cho thấy trở lại tất cả việc làm, lời nói của mỗi Chơn hồn trong suốt kiếp sanh nơi cõi trần, khi Chơn hồn đứng trước tấm kiếng ấy, để cây Cân Công Bình Thiêng Liêng cân tội phước mà định phận: Thăng hay đọa. Ðài Chiếu Giám còn được gọi là Minh Cảnh Ðài.
Minh là sáng, Cảnh còn đọc là Kính: Tấm kiếng dùng làm gương soi.

Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo nói về Minh Cảnh Ðài như sau: "Ðài ấy là Tòa Tam Giáo, chúng ta không thấy cái trạng thái hình thể nó ra sao. Khi chúng ta đến, hào quang chiếu diệu xông lên như ngọn lửa vậy. Lửa ấy chẳng phải lửa thật, nó là hào quang, cho ta thấy trước rồi biến mất đi, kế thấy một cây Cân Công Bình hiện ra trước mắt chúng ta, rồi cũng từ từ biến mất. Chúng ta thấy mình chẳng khác nào như khán giả đứng trước đài kia coi cả kiếp sanh của chúng ta, không điều gì sót, phải chăng nơi ấy Kinh Phật gọi là Minh Cảnh Ðài? Trước mặt chúng ta, khi trước chúng ta làm những việc gì, nay nó chiếu lại cho xem, chẳng khác gì như mình xem tuồng hát bóng vậy. Mỗi khi mình hành động gì trong kiếp sanh khi xưa, hôm nay đều ngó thấy trước mặt, và Cân ấy tùy theo nên hư tội phước mà hiện tượng ra hết thảy, quyết đoán một cách công bình, không sai chút nào hết. Phải chăng đó là huyền bí của Tòa Thiêng Liêng ấy? Vậy hành tàng đã có trước mặt, Luật Tam giáo chẳng hề sai chạy. Kiếp sanh đã làm gì, Ðời hay Ðạo, mặt Thiêng Liêng không sót một điều."

Căn sinh: Căn là gốc rễ, sinh là sống. Căn sinh là chỉ tất cả lời nói, việc làm trong suốt một kiếp sống nơi cõi trần.

C.5-6: Chơn hồn nhẹ nhàng bước lên Ðài Chiếu Giám (còn gọi là Minh Cảnh Ðài) để xem lại một cách rõ ràng có bao nhiêu tội và phước mà Chơn hồn đã gây ra trong suốt kiếp sống nơi cõi trần.


Câu 7-8:
Lần vào Cung Ngọc Diệt Hình,
Khai Kinh Vô Tự đặng nhìn quả duyên.

Lần vào: Ði lần vào trong.
Khai: Mở ra.
Kinh Vô Tự: Quyển Kinh không chữ. Ðây là một quyển Kinh rất huyền diệu nơi cõi thiêng liêng, bởi vì khi Chơn hồn đến đứng trước quyển Kinh ấy, lật ra xem thì chữ bắt đầu hiện ra trên các trang giấy trắng, thấy rõ tên tuổi và tất cả việc làm trong kiếp sanh của Chơn hồn nơi cõi trần.

Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo Con đường Thiêng Liêng Hằng Sống, nói về Vô Tự Kinh như sau:

"Nếu khi vô được rồi, thân nhân chúng ta dắt chúng ta đến một Cung có một quyển sách Thiên Thơ gọi là Vô Tự Kinh, để trước mặt chúng ta, dở ra xem, thấy tên mình và kiếp sanh của mình đã làm gì, nó hiện ra đủ hết trong quyển Thiên Thơ ấy. Vị Chưởng quản Cung ấy gọi là Nam Tào Bắc Ðẩu. Nơi Nam Tào Bắc Ðẩu, không có ai trị ta hết, chính ta trị lấy ta. Sau khi xem xong quyển Vô Tự Kinh, ta thấy hết hành tàng của ta thì ta định kiếp cho ta, chính Chơn thần định án ta, chớ không ai định án ta hết, nên dầu ta muốn chối tội cũng không được. Cái bí mật vô đối cầm quyền cả Càn Khôn Vũ Trụ là như vậy: Chính mình làm tòa xử lấy mình."

Quả duyên: Quả là cái kết quả, duyên là cái sức bổ trợ cho cái Nhân thành thành cái Quả. Quả duyên là cái kết quả do sự bổ trợ của cái duyên mà đạt được, tức là cái phẩm vị đạt được do công đức tu hành.

C.7-8: Chơn hồn đi lần vào trong đến Cung Ngọc Diệt Hình, mở quyển Vô Tự Kinh thì chữ mới hiện ra, chép rõ tất cả lời nói, hành vi của Chơn hồn trong suốt kiếp sanh nơi cõi trần, nhờ đó Chơn hồn nhìn thấy được phẩm vị của mình.

Câu 9: Ðắc văn sách thông Thiên định Ðịa,

Ðắc: Ðược.
Văn sách: Văn là lời văn, sách là quyển sách. Văn sách là lời văn viết trong quyển sách.
Thông Thiên định Ðịa: Thông suốt các việc ở trên Trời, định rõ các việc ở dưới đất tức là quyết định được các việc nơi cõi trần. Như vậy Chơn hồn đã có được trí huệ và Thần thông.

C.9: Chơn hồn được một quyển sách, học trong đó thì thông suốt các việc trên Trời và định được các việc nơi cõi trần, tức là Chơn hồn đạt được trí huệ và Thần thông.

Câu 10: Phép huyền công trụ nghĩa hóa thân.

Phép huyền công: Công phu tu luyện đạt được các phép tắc biến hóa huyền diệu. Thí dụ như Tề Thiên Ðại Thánh trong Truyện Tây Du học được Thất thập nhị Huyền công, tức là 72 phép biến hóa huyền diệu.
Trụ nghĩa: Trụ là ở, còn đấy; Nghĩa là điều phải đúng theo đạo lý. Trụ nghĩa là ở nơi điều nghĩa. Hoá thân: Biến hóa thân mình bằng cách dùng phép thuật huyền diệu.

C.10: Các phép huyền công biến hóa thân mình được xử dụng ở nơi điều nghĩa.

Câu 11: Kỵ Kim quang kiến Lão Quân.

Kỵ: Cỡi.
Kim quang: Lằn ánh sánh vàng.
Kỵ Kim quang: Cỡi trên lằn ánh sáng vàng, ý nói đứng trên lằn ánh sáng vàng để nó đưa đi. (Giống như C.8 KÐ2C: Kim quang kiệu đỡ ).
Kiến: Thấy, gặp.

C.11: Ðứng trên lằn ánh sáng vàng để nó đưa mình đến bái kiến Ðức Thái Thượng Lão Quân.

Câu 12: Dựa xe Như Ý, Oai Thần tiễn thăng.

Xe Như Ý: Chiếc xe Tiên, mà người ngồi trên đó muốn đi đến đâu thì nó sẽ đưa đến đó đúng như ý muốn.

Oai Thần: Các vị Thần oai vệ.
Tiễn thăng: Ðưa tiễn bay lên. Tiễn là đưa lên đường, thăng là bay lên.

C.12: Nhờ chiếc xe Như Ý đưa mình đi lên đúng theo ý muốn, có các vị Oai Thần tiễn đưa bay lên.
Kinh Đệ Lục Cửu

Kinh Đệ Lục Cửu


(Giọng Nam Xuân)

BÀI KINH

  1. Bạch Y Quan mở đàng rước khách,
  2. Cõi Kim Thiên nhẹ tách Tiên xa.
  3. Vào Cung Vạn Pháp xem qua,
  4. Cho tường cựu nghiệp mấy tòa thiên nhiên.
  5. Cung Lập Khuyết tìm duyên định ngự.
  6. Lãnh Kim sa đặng dự Như Lai.
  7. Minh Vương Khổng Tước cao bay,
  8. Ðem Chơn thần đến tận Ðài Huệ Hương.
  9. Mùi ngào ngọt thơm luôn Thánh thể,
  10. Trừ tiêu tàn ô uế sinh quang.
  11. Thiên thiều trổi tiếng nhặt khoan,
  12. Ðưa linh thẳng đến Niết Bàn mới thôi.
  13. (Niệm Câu Chú của Thầy 3 lần)

GIẢI NGHĨA

Kinh Ðệ Lục Cửu do Lục Nương DTC giáng cơ ban cho. Lục Nương có nhiệm vụ hướng dẫn các Chơn hồn từ từng Trời Xích Thiên lên từng Trời Kim Thiên. Kim Thiên là từng Trời thứ 6 trong Cửu Trùng Thiên.

Câu 1-2:
Bạch Y Quan mở đàng rước khách,
Cõi Kim Thiên nhẹ tách Tiên xa.

Bạch Y Quan: Một địa danh nơi từng Trời Kim Thiên.
Tiên xa: Chiếc xe Tiên, cũng gọi là xe Như Ý.

C.1-2: Nơi Bạch Y Quan, mở cửa đón rước Chơn hồn. Chơn hồn nhẹ nhàng bước xuống rời khỏi chiếc xe Tiên để đi vào cõi Kim Thiên.

Câu 3-4:
Vào Cung Vạn Pháp xem qua,
Cho tường cựu nghiệp mấy tòa thiên nhiên.

Tường: Rõ ràng, biết rõ.
Cựu: Xưa, cũ.
Cựu nghiệp: Sự nghiệp cũ, tức là những sự nghiệp đã tạo ra trong nhiều kiếp sống trước nơi cõi trần. Tòa: Ngôi nhà lớn.
Thiên nhiên: Cái mà Trời làm ra như thế, không phải do sức người tạo ra.
Tòa thiên nhiên: Ngôi nhà lớn do Trời tạo ra như thế, để ghi lại sự nghiệp của mỗi Chơn hồn đã tạo ra trong các kiếp sống nơi cõi trần.

C.3-4: Chơn hồn được đưa vào Cung Vạn Pháp để xem qua cho biết rõ ràng sự nghiệp cũ của mình được ghi lại trong mấy Tòa thiên nhiên.

Câu 5: Cung Lập Khuyết tìm duyên định ngự.

Duyên: Cái mối dây ràng buộc được định sẵn từ trước. Ở đây ý nói ngôi vị cũ của mình nơi cõi thiêng liêng.
Ðịnh: Có ý làm.
Ngự: Ngồi lên một cách trang trọng.

C.5: Tại Cung Lập Khuyết, Chơn hồn tìm thấy ngôi vị cũ của mình, định ngồi lên (nhưng chưa được).

Câu 6: Lãnh Kim sa đặng dự Như Lai.

Kim sa: Kim là vàng, sa là hột cát. Kim sa là hột cát vàng. Những hột cát vàng nầy do Phép Phật tạo thành. Kim Sa Ðại Ðiện là tòa nhà lớn làm bằng cát vàng tại kinh đô Cực Lạc Thế Giới, là nơi ngự của Ðức Phật Thích Ca.
Như Lai: Một trong 10 danh hiệu của Phật.

C.5: Chơn hồn lãnh một hột Kim sa đặng đi gặp Phật.

Câu 7-8:
Minh Vương Khổng Tước cao bay,
Ðem Chơn thần đến tận Ðài Huệ Hương.

Minh Vương Khổng Tước: Minh Vương là vua sáng, Khổng Tước là con công.

Theo Phật Học Từ Ðiển, Minh Vương là những vị Tôn giả hầu cận Ðức Phật, thọ giáo lệnh của Ðức Phật, hiện thân hàng phục bọn ác ma. Các Tôn giả nầy có trí huệ và oai đức, đánh phá hết thảy các ma chướng, ủng hộ các nhà tu hành chơn thật. Tuy là người hầu cận Ðức Phật, nhưng vâng mệnh cầm giữ giáo lệnh thì quyền uy như một vị Minh Vương.

Minh Vương Khổng Tước là vị Tôn giả hầu cận Ðức Phật Chuẩn Ðề (Chuẩn Ðề Bồ Tát) mà nguyên căn là một con công, sanh vào thời Khai Thiên Lập Ðịa, được Ðức Chuẩn Ðề Bồ Tát thâu phục vào thời Phong Thần. Khi Ðức Chuẩn Ðề xuất du thì vị tôn giả nầy hiện lại nguyên hình là một con công màu đỏ, xòe 2 cánh chiếu hào quang ngũ sắc, chở Ðức Chuẩn Ðề bay đi.

C.7-8: Vị Minh Vương Khổng Tước chở Chơn thần bay lên cao, đem đến tận Ðài Huệ Hương.

Câu 9-10:
Mùi ngào ngọt thơm luôn Thánh thể,
Trừ tiêu tàn ô uế sinh quang.

Mùi ngào ngọt: Mùi rất thơm.
Thánh thể: Thánh là thiêng liêng huyền diệu, thể là thân thể. Thánh thể là xác thân thiêng liêng, tức là Chơn thần.
Trừ: Làm cho mất đi.
Tiêu tàn: Làm tiêu mất hẳn.
Ô uế: Ô là dơ bẩn, uế là hôi hám. Ô uế là dơ bẩn hôi hám.
Sinh quang: Khí Sanh quang, chất khí để nuôi dưỡng sự sống cho các loài sanh vật trong khắp Càn Khôn Vũ Trụ.

C.9-10: Mùi ngào ngọt thơm luôn Thánh thể, Trừ tiêu tàn ô uế sinh quang. Nghĩa là: Mùi thơm ngào ngọt của Ðài Huệ Hương xông thơm Chơn thần, tẩy trừ hết sạch các mùi dơ bẩn hôi hám lẫn vào trong Khí Sanh quang.

Câu 11-12:
Thiên thiều trổi tiếng nhặt khoan,
Ðưa linh thẳng đến Niết Bàn mới thôi.

Thiên thiều: Thiều là nhạc thiều, loại nhạc cung đình, nghe rất réo rắt êm tai, khiến cho tâm hồn người nghe trở nên cao thượng. Tương truyền Nhạc thiều do vua Thuấn học được của Bà Nữ Oa. Thiên thiều là nhạc thiều của Trời.

Trổi tiếng nhặt khoan: Khởi lên tiếng nhạc khi nhanh khi chậm, khi nhặt khi lơi.
Ðưa linh: Ðưa Chơn linh đi lên.
Niết Bàn: Cõi Phật, cõi Cực Lạc Thế Giới hoàn toàn hạnh phúc.

C.11-12: Khúc nhạc thiều của Trời khởi lên lúc nhanh lúc chậm, đưa Chơn linh thẳng lên đến cõi Niết Bàn mới thôi.

* Kinh Lễ in bên Pháp 1952:
  • Tiêu thiều.
* Kinh TÐ-TÐ năm 1936, 1968, 1974, 1975:
  • Thiên thiều.
Tiêu thiều: Khúc nhạc thiều thổi bằng ống sáo. (Xem C.7 KÐ3C: Tiêu thiều lấp tiếng dục tình).
Khảo Dị-
Kinh Đệ Thất Cửu

Kinh Đệ Thất Cửu


(Giọng Nam Xuân)

BÀI KINH

  1. Nhẹ phơ phới dồi dào không khí,
  2. Hạo Nhiên Thiên đã chí môn quan.
  3. Ðẹp xinh cảnh vật đòi ngàn.
  4. Hào quang chiếu diệu khai đàng thăng Thiên.
  5. Cung Chưởng Pháp xây quyền Tạo Hóa,
  6. Kiến Chuẩn Ðề thạch xá giải thi.
  7. Dà Lam dẫn nẻo Tây Qui,
  8. Kim chung mở lối kịp kỳ kỵ sen.
  9. Ðộng Phổ Hiền Thần Tiên hội hiệp.
  10. Dỡ kim cô đưa tiếp linh quang.
  11. Im lìm kìa cõi Niết Bàn,
  12. Lôi Âm trống thúc lên đàng thượng Thiên.
  13. (Niệm Câu Chú của Thầy 3 lần)

GIẢI NGHĨA

Kinh Ðệ Thất Cửu do Thất Nương DTC giáng cơ ban cho. Thất Nương có nhiệm vụ dẫn dắt các Chơn hồn từ Kim Thiên đi lên từng Trời Hạo Nhiên Thiên, là từng thứ 7 trong Cửu Trùng Thiên, dưới quyền chưởng quản của Ðức Chuẩn Ðề Bồ Tát và Ðức Phổ Hiền Bồ Tát. Ngoài ra Thất Nương còn có nhiệm vụ giáo hóa các nữ tội hồn nơi cõi Âm Quang.

Câu 1-2:
Nhẹ phơ phới dồi dào không khí,
Hạo Nhiên Thiên đã chí môn quan.

Nhẹ phơ phới: Nhẹ phơi phới, nhẹ nhàng lắm. 
Dồi dào không khí: Bầu không khí dồi dào khí sanh quang, làm cho Chơn thần được đầy đủ sức sống và nhẹ nhàng.
Ðã chí: Ðã đến. 
Môn quan: Môn là cái cửa, quan là cửa lớn. Môn quan là cái cửa lớn đi vào một từng Trời.

C.1-2: Chơn hồn nhẹ nhàng bay phơi phới trong bầu không khí dồi dào khí sanh quang, đã đến cái cửa lớn đi vào từng Trời Hạo Nhiên Thiên.
* Kinh Lễ, Kinh TÐ-TÐ 1936, 1968, 1974:
  • Nhẹ phơ phới...
* Kinh TÐ-TÐ 1975:
  • Nhẹ phơi phới...
Phơ phới đồng nghĩa với Phơi phới.
Khảo Dị-


KHẢO DỊ:
* Kinh Lễ, Kinh TÐ-TÐ 1936, 1968, 1974:
Nhẹ phơ phới...
* Kinh TÐ-TÐ 1975:
Nhẹ phơi phới...

Phơ phới đồng nghĩa với Phơi phới.

Câu 3-4:
Ðẹp xinh cảnh vật đòi ngàn.
Hào quang chiếu diệu khai đàng thăng Thiên.

Ðòi ngàn: Ðòi là nhiều, ngàn là rừng núi. Ðòi ngàn là rừng núi chập chồng. (Giống như: C.11. KÐ3C)
Hào quang: Hào là cái lông dài và nhọn, quang là ánh sáng. Hào quang là ánh sáng tỏa ra từ thân thể của một Ðấng thiêng liêng. 
Chiếu diệu: Chiếu sáng rực rỡ. 
Khai đàng: Mở đường. 
Thăng Thiên: Bay lên Trời.

C.3-4: Cảnh vật rừng núi chập chồng thật là xinh đẹp. Ánh hào quang chiếu sáng rực rỡ mở đường bay lên Trời.

Câu 5-6:
Cung Chưởng Pháp xây quyền Tạo Hóa,
Kiến Chuẩn Ðề thạch xá giải thi.

Cung Chưởng Pháp: Cơ quan chưởng quản về pháp luật của Trời, giữ gìn an ninh và trật tự trong Càn Khôn Vũ Trụ. Cung Chưởng Pháp thuộc từng Trời Hạo Nhiên Thiên, nên từng Trời nầy được gọi là Hạo Nhiên Pháp Thiên.
Xây quyền: Xây dựng quyền hành căn cứ trên Luật pháp. 
Tạo Hóa: chỉ Ðức Chí Tôn Thượng Ðế.
Kiến: Thấy, gặp. 
Chuẩn Ðề: Ðức Chuẩn Ðề Bồ Tát.
Thạch xá: Thạch là đá, xá là nhà. Thạch xá là ngôi nhà bằng đá. 
Giải thi: Giải là cắt nghĩa cho rõ ra, Thi là do chữ Thơ, Thư nói trại ra, nên Thi là quyển sách. Ở đây Thi là Thiên Thi, là quyển sách của Trời ghi chép Thiên điều, tức là ghi chép Luật pháp của Trời. Giải thi là giảng giải Thiên thơ.

GHI CHÚ: Chữ Thi ở đây nằm trong chữ Thiên Thi trong các câu Kinh: "Tam Kỳ khai hiệp Thiên Thi." (Phật Mẫu Chơn Kinh)

"Hiệp chúng đẳng chư Phật tạo định Thiên Thi." (Di Lạc Chơn Kinh)

C.5-6: Cung Chưởng Pháp chưởng quản Pháp luật của Càn Khôn Vũ Trụ, nên căn cứ trên luật pháp, xây dựng quyền hành của Ðức Chí Tôn. Chơn hồn đến gặp Ðức Chuẩn Ðề Bồ Tát đang giảng giải Thiên thơ trong ngôi nhà đá.

Câu 7-8:
Dà Lam dẫn nẻo Tây Qui,
Kim chung mở lối kịp kỳ kỵ sen.

Dà Lam: còn viết là Già Lam, là vị Phật gọi là Phật Già Lam. 
Dẫn nẻo: Dẫn đường.
Tây Qui: Một địa danh nơi từng Hạo Nhiên Thiên.
Kim chung: Cái chuông bằng vàng. 
Mở lối: Mở đường.

Kỵ sen: Kỵ là cỡi lên, ý nói đứng trên; Kỵ sen là đứng trên cái bông sen thần (Liên thần) để nó đưa mình bay lên. (Xem: C.5 KKÐCR)

C.7-8
: Ðức Phật Già Lam dẫn đường đi đến Tây Qui, có tiếng chuông vàng mở đường cho Chơn hồn kịp bước lên bông sen thần để nó đưa đi.

Câu 9-10:
Ðộng Phổ Hiền Thần Tiên hội hiệp.
Dỡ kim cô đưa tiếp linh quang.

Ðộng Phổ Hiền: Cái động đá, nơi Ðức Phổ Hiền Bồ Tát cư ngụ. 
Kim cô: Kim là vàng, cô là cái đai. Kim cô là cái đai bằng vàng, đội trên đầu. 
Dỡ: Lấy ra.
Dỡ kim cô: Lấy cái vòng kim cô ra khỏi đầu.
Linh quang: Ðiểm linh quang, đó là Chơn linh hay Linh hồn.

C.9-10: Ðức Phổ Hiền Bồ Tát cùng chư vị Thần Tiên hội họp trong động đá. Dỡ cái kim cô ra để dưa Chơn linh tiếp tục bay lên.

Câu 11-12:
Im lìm kìa cõi Niết Bàn,
Lôi Âm trống thúc lên đàng thượng Thiên.

Lôi Âm: Lôi là sấm, âm là tiếng. Lôi Âm trống tức là Lôi Âm Cổ, cái trống Lôi Âm, vì tiếng trống phát ra lớn như tiếng sấm. Thúc là thúc giục. Lôi Âm trống thúc là tiếng trống Lôi Âm thúc giục lên đường.
Thượng Thiên: Thượng là đi lên, Thiên là Trời. Thượng Thiên là đi lên Trời.

C.11-12: Kìa là cõi Niết Bàn hoàn toàn yên lặng, tiếng trống Lôi Âm thúc giục Chơn hồn lên đường đi lên Trời.
* Kinh TÐ-TÐ 1936, Kinh Lễ 1952:
  • thượng tiêu.
* Kinh TÐ-TÐ 1968, 1974, 1975:
  • thượng Thiên.
Tiêu từng Trời, Thượng tiêu là đi lên các từng Trời.
Khảo Dị-
Kinh Đệ Bát Cửu

Kinh Đệ Bát Cửu


(Giọng Nam Xuân)

BÀI KINH

  1. Hơi Tiên tửu nực nồng thơm ngọt,
  2. Phi Tưởng Thiên để gót tới nơi.
  3. Mùi trần khi đã xa khơi,
  4. Say sưa bầu khí bồi hồi chung phong.
  5. Cung Tận Thức thần thông biến hóa.
  6. Phổ Ðà Sơn giải quả Từ Hàng.
  7. Cỡi Kim Hẩu đến Tịch san,
  8. Ðẩu vân nương phép Niết Bàn đến xem.
  9. Cung Diệt Bửu ngọc rèm đã xủ,
  10. Nghiệp hữu hình tượng đủ vô vi.
  11. Hồ Tiên vội rót tức thì,
  12. Nước Cam lồ rửa ai bi kiếp người.
  13. (Niệm Câu Chú của Thầy 3 lần)

GIẢI NGHĨA

Kinh Ðệ Bát Cửu do Bát Nương DTC giáng cơ ban cho. Bát Nương có nhiệm vụ dẫn dắt các Chơn hồn từ Hạo Nhiên Thiên đi lên từng Trời Phi Tưởng Thiên, là từng thứ 8 trong Cửu Trùng Thiên, dưới quyền chưởng quản của Ðức Từ Hàng Bồ Tát.

Câu 1-2:
Hơi Tiên tửu nực nồng thơm ngọt,
Phi Tưởng Thiên để gót tới nơi.

Tiên tửu: Rượu Tiên, loại rượu do các vị Tiên dùng huyền diệu Tiên gia chế thành, có mùi vị thơm ngọt.
Nực nồng: Mùi rượu mạnh bốc lên nhiều.
Ðể gót: Ðặt chơn tới.

C.1-2: Khi đặt chơn tới từng Trời Phi Tưởng Thiên thì đã cảm thấy mùi rượu Tiên nực nồng thơm ngọt.

Câu 3-4:
Mùi trần khi đã xa khơi,
Say sưa bầu khí bồi hồi chung phong.

Mùi trần: Cái mùi ô uế của cõi trần.
Xa khơi: Xa lắm.
Say sưa: Ở trạng thái ngây ngất vì tác dụng của rượu.
Bầu khí: Bầu không khí.
Bồi hồi: Xao xuyến trong lòng.
Chung phong: Chung là tiếng chuông, phong là gió. Chung phong là tiếng chuông theo gió đưa lại.

C.3-4: Chơn hồn đã đi khỏi rất xa mùi uế trược của cõi trần, cảm thấy say sưa trong bầu không khí nực nồng hơi Tiên tửu,và cảm thấy bồi hồi khi nghe tiếng chuông theo gió đưa lại.

Câu 5: Cung Tận Thức thần thông biến hóa.

Thần thông: Thần là thiêng liêng mầu nhiệm; thông là suốt tới, không chi ngăn trở nổi. Thần thông là phép biến hóa huyền diệu, đạt được do công phu tu luyện lâu dài. Theo Phật giáo, khi những vị Tỳ Kheo tu đắc quả A-La-Hán (đối phẩm Thiên Thánh) thì đạt được 6 phép Thần thông, gọi là Lục thông, kể ra:
Thiên Nhãn thông: Thấy được những vật rất xa.
Thiên Nhĩ thông: Nghe được tiếng nói rất xa.
Túc mạng thông: Biết được tất cả chuyện đời quá khứ, hiện tại và tương lai.
Tha tâm thông: Biết tư tưởng trong tâm của người.
Thần túc thông: Phép đi khắp nơi trong nháy mắt.
Lậu tận thông: Phép trong sạch hoàn toàn.

C.5: Nơi Cung Tận Thức, các phép thần thông biến hóa rất huyền diệu.

Câu 6: Phổ Ðà Sơn giải quả Từ Hàng.

Phổ Ðà Sơn: Núi Phổ Ðà ở biển Nam Hải nơi cõi thiêng liêng, là nơi Công Chúa Diệu Thiện tu hành đắc đạo thành Quan Thế Âm Bồ Tát. Công Chúa Diệu Thiện là một chiết linh của Ðức Từ Hàng Bồ Tát giáng trần.
Giải quả: Cởi bỏ cái quả kiếp.
Từ Hàng: Ðức Từ Hàng Bồ Tát.
Giải quả Từ Hàng: Cởi bỏ cái quả kiếp của Từ Hàng Bồ Tát. Cái quả kiếp ấy là những oan trái của Từ Hàng Bồ Tát, nay Công Chúa Diệu Thiện phải gánh trả. Khi Công Chúa Diệu Thiện tu đắc đạo thành Bồ Tát thì cái quả kiếp của Từ Hàng Bồ Tát đã được cởi bỏ.

C.6: Nơi Phổ Ðà Sơn, Công Chúa Diệu Thiện tu hành đắc đạo, nên đã cởi bỏ được cái quả kiếp của Từ Hàng Bồ Tát.

Câu 7-8:
Cỡi Kim Hẩu đến Tịch san,
Ðẩu vân nương phép Niết Bàn đến xem.

Kim Hẩu: là con Kim Mao Hẩu, kim là vàng, mao là lông, hẩu là một loại sư tử, nói theo âm tiếng Tàu. Kim Mao Hẩu là con sư tử lông vàng, một loại thú linh nơi cõi Thiêng Liêng. Ðức Từ Hàng Bồ Tát, mỗi khi du hành, thường cỡi Kim Mao Hẩu.

Khi Ðức Phạm Hộ Pháp trấn thần 8 con Kim Mao Hẩu nơi 4 cầu thang lên Cửu Trùng Đài và Bát Quái Đài Tòa Thánh, Ngài có giải thích rằng: "Con Kim Mao Hẩu rất mạnh khỏe, tượng trưng cái năng lực tinh thần của người tu, nhờ nó mà qua các từng Trời và trở về cùng Ðức Chí Tôn."

Ðẩu vân: Ðẩu là thình lình vọt lên, vân là mây.

Ðẩu vân là phép nhảy vọt đi rất lẹ trên mây. Trong truyện Tây Du, Tề Thiên Ðại Thánh học được phép Cân Ðẩu vân (Cân là gân), vận gân cốt và niệm chú rồi nhảy vọt bay đi rất nhanh trên mây, mỗi Cân Ðẩu vân đi được 18000 dặm.

Nương phép: Dựa vào phép thuật mầu nhiệm.

C.7-8: Chơn hồn cỡi lên con Kim Mao Hẩu để nó đưa đến một hòn núi gọi là Tịch san, rồi nhờ phép Ðẩu vân, Chơn hồn nhảy vọt bay lên xem cõi Niết Bàn.

Câu 9-10:
Cung Diệt Bửu ngọc rèm đã xủ,
Nghiệp hữu hình tượng đủ vô vi.

Ngọc rèm: Tấm rèm bằng ngọc. Rèm là cái tấm để treo che phía trên cửa.
Xủ: Buông xuống.
Nghiệp hữu hình: Sự nghiệp hữu hình tạo ra nơi cõi trần.
Vô vi: Vô hình. (Xem Câu 4 Kinh Tiên giáo). Cõi Vô vi là cõi thiêng liêng vô hình.

C.9-10: Nơi Cung Diệt Bửu, tấm rèm ngọc đã buông xuống. Sự nghiệp hữu hình của mỗi người nơi cõi trần hiện ra đủ hết nơi cõi thiêng liêng.

Câu 11-12: Hồ Tiên vội rót tức thì,
Nước Cam lồ rửa ai bi kiếp người.

Hồ Tiên: Hồ là cái bầu, Hồ Tiên là cái bầu đựng rượu Tiên. Rượu Tiên hay Tiên tửu có tác dụng rất huyền diệu, giống như nước Cam lồ, nên khi dùng để uống thì gọi là Tiên tửu, khi các vị Tiên dùng làm phép thì gọi là nước Cam lồ.

Ai bi: Bi ai, buồn rầu thê thảm.

C.11-12: Lấy bầu rượu Tiên rót ra tức thì, dùng nước Cam lồ rửa sạch những nỗi bi ai của kiếp người.
Kinh Đệ Cửu Cửu

Kinh Đệ Cửu Cửu


(Giọng Nam Xuân)

BÀI KINH

  1. Vùng thoại khí Bát hồn vận chuyển.
  2. Tạo Hóa Thiên sanh biến vô cùng.
  3. Hội Bàn Ðào Diêu Trì Cung,
  4. Phục sinh đào hạnh, rượu hồng thưởng ban.
  5. Cung Bắc Ðẩu xem căn quả số.
  6. Học triều nghi vào ở Linh Tiêu.
  7. Ngọc Hư Cung sắc lệnh kêu,
  8. Thưởng phong, trừng trị, phân điều đọa thăng.
  9. Nơi Kim Bồn vàn vàn nguơn chất,
  10. Tạo hình hài các bậc nguyên nhân.
  11. Cung Trí Giác trụ Tinh Thần,
  12. Huờn Hư mầu nhiệm thoát trần đăng Tiên.
  13. (Niệm Câu Chú của Thầy 3 lần)

GIẢI NGHĨA


Kinh Ðệ Cửu Cửu gồm 12 câu thơ, trong đó, 8 câu thơ đầu do Cửu Nương Diêu Trì Cung giáng cơ ban cho, và 4 câu thơ cuối do Ðức Phật Mẫu giáng cơ viết tiếp ban cho trọn bài.

Cửu Nương có nhiệm vụ dẫn dắt các Chơn hồn đến từng Trời Tạo Hóa Thiên để bái kiến Ðức Phật Mẫu. Tạo Hóa Thiên là từng Trời thứ 9, cao nhất trong Cửu Trùng Thiên.

Câu 1-2:
Vùng thoại khí Bát hồn vận chuyển.
Tạo Hóa Thiên sanh biến vô cùng.

Thoại khí: Thoại, cũng đọc là Thụy, nghĩa là tốt lành, khí là chất khí. Thoại khí là khí lành, nó chính là Hỗn nguơn khí, là khí Sanh quang nuôi sống cả vạn linh trong Càn Khôn Vũ Trụ.

Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo Con đường Thiêng Liêng Hằng Sống, có đoạn mô tả Bạch Ngọc Kinh ở trong vùng Thoại khí như sau:

"Thoạt tiên, chúng ta ngó thấy phía xa xăm có ánh sáng chói lọi, cũng như mặt trời mọc buổi sáng, đàng xa ngó thấy một ánh sáng chiếu diệu, cũng như một vùng Thoại khí. Khi Pháp xa của Bần đạo đến thấy hào quang chiếu diệu chói vào Pháp xa sáng rỡ, dường thể ánh sáng đèn pha ở thế gian nầy vậy. Lại gần tới còn thấy một vật khác thường quái lạ, nhưng nó là một Tòa Thiên các đẹp đẽ lắm, màu sắc thay đổi sáng rỡ, mà cả Thoại khí bao quanh làm như thể vận chuyển hình trạng của nó vậy.

Nhà cửa ở thế gian là con vật chết, Bạch Ngọc Kinh là con vật sống, biến hóa thay đổi như thể vận hành, xung quanh Thoại khí bao trùm, từ Nam chí Bắc, từ Ðông qua Tây, khối lửa ánh sáng ấy, chúng ta ngó thấy như mặt trời vậy, mà ánh sáng mặt trời thì nóng nực, bực bội, còn ánh sáng nơi Bạch Ngọc Kinh thì lại dịu dàng và huyền bí lắm, sung sướng khoái lạc lắm! Tại sao đài các là con tử vật, mà nó sống? Sống là do nơi đâu? Nếu biết được thì không lạ gì.

Nơi Bạch Ngọc Kinh nó là Hỗn Nguơn khí biến hình nó ra. Hỗn Nguơn khí là khí Sanh quang của chúng ta đã thở, đã hô hấp, khí để nuôi cả sanh vật sống, ta cũng do nơi nó xuất hiện, mà biểu làm sao không sống?"

Bát hồn: 8 phẩm chơn hồn: Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Tiên hồn, Phật hồn.

Tạo Hóa Thiên: Từng Trời thứ 9 ở vị trí cao nhất trong Cửu Trùng Thiên, dưới quyền chưởng quản của Ðức Phật Mẫu. Ðức Chí Tôn giao cho Ðức Phật Mẫu nhiệm vụ tạo hóa, nên từng Trời nầy được gọi là Tạo Hóa Thiên. Ðức Phật Mẫu thâu lằn Sanh quang của ngôi Thái Cực, rồi lấy khí Dương quang phối hợp với Âm quang để tạo hóa Chơn thần cho Vạn linh, rồi vận chuyển Vạn linh cho đầu kiếp xuống trần thành chúng sanh. Sanh biến: Biến hóa sanh ra.

C.1-2: Vùng thoại khí Bát hồn vận chuyển, Tạo Hóa Thiên sanh biến vô cùng, nghĩa là: Ðức Phật Mẫu ở từng Trời Tạo Hóa Thiên, vận chuyển Bát hồn trong vùng thoại khí (Khí Sanh quang), biến hóa vô cùng để tạo thành chúng sanh.

Câu 3-4:
Hội Bàn Ðào Diêu Trì Cung,
Phục sinh đào hạnh, rượu hồng thưởng ban.

Bàn Ðào: Bàn là quanh co, Ðào là cây đào. Cây Bàn Ðào tức là cây Ðào Tiên vì có thân mọc quanh co. Cho nên trái Bàn Ðào tức là trái Ðào Tiên.
Hội Bàn Ðào: Hội liên hoan gồm chư Thần Thánh Tiên Phật do Ðức Phật Mẫu tổ chức tại Diêu Trì Cung, trong dịp đúng kỳ Vườn Ðào Tiên có trái chín. (Xem: C.1 Kinh Đệ Nhị Cửu)
Phục sinh: Phục là trở lại, sinh là sống. Phục sinh là sống trở lại, phục hồi sự sống.
Ðào hạnh: Trái đào và trái hạnh.
Rượu hồng: Ý nói Rượu Tiên.

C.3-4: Ðức Phật Mẫu mở Hội Bàn Ðào nơi Diêu Trì Cung, đãi tiệc là những trái đào và trái hạnh, vì đó là 2 thứ trái quí nơi cõi Tiên có đặc tính phục hồi sự sống, và Ðức Phật Mẫu ban thưởng cho uống rượu Tiên.

Câu 5: Cung Bắc Ðẩu xem căn quả số.

Căn quả số: Căn là gốc rễ, chỉ các việc làm thiện ác trong kiếp sống trước; Quả là cái kết quả có được theo Luật Nhân quả; số là cái số phận của mỗi người. Căn quả số là cái số phận của mỗi người do nơi căn quả, tức là do nơi kết quả của những việc làm thiện ác trong kiếp sống trước tạo nên.

C.5: Chơn hồn vào Cung Bắc Ðẩu xem căn quả cho biết số phận của mình.

Câu 6: Học triều nghi vào ở Linh Tiêu.

Triều nghi: Nghi lễ và phép tắc nơi triều đình.
Linh Tiêu: Linh Tiêu Ðiện trong Ngọc Hư Cung, là nơi họp triều đình của Ðức Chí Tôn. (Xem: C.2 Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu)

C.6: Chơn hồn phải học tập các phép tắc và lễ nghi nơi triều đình để vào Linh Tiêu Ðiện chầu lạy Ðức Chí Tôn.

Câu 7-8:
Ngọc Hư Cung sắc lệnh kêu,
Thưởng phong, trừng trị, phân điều đọa thăng.

Sắc lệnh: Lịnh của Ðức Chí Tôn.
Thưởng phong: Phong thưởng, có công thì được phong thưởng cho những phẩm vị Thần Thánh Tiên Phật.
Trừng trị: Có tội thì bị trừng phạt cho sợ mà không dám tái phạm.
Phân điều đọa thăng: Chia ra 2 điều: Ðọa đày xuống cõi thấp kém khổ sở, hoặc là siêu thăng.

C.7-8: Nơi Ngọc Hư Cung, Sắc lệnh của Ðức Chí Tôn gọi Chơn hồn vào để các Ðấng xem xét công và tội, phân ra: có công thì được phong thưởng và siêu thăng, có tội thì bị trừng phạt và bị đọa đày.

Câu 9-10:
Nơi Kim Bồn vàn vàn nguơn chất,
Tạo hình hài các bậc nguyên nhân.

Kim Bồn: Kim Bàn nơi Diêu Trì Cung. Kim Bàn hay Kim Bồn là cái chậu bằng vàng nơi Diêu Trì Cung mà Ðức Phật Mẫu dùng để chứa các nguyên chất. (Xem: C.2 Phật Mẫu Chơn Kinh)

Vàn vàn: do chữ Vạn vạn nói trại ra, vạn là muôn = 10000. Vàn vàn là Vạn vạn, là muôn muôn, chỉ một số lượng nhiều lắm, không thể đếm hết.

Nguơn chất: Nguyên chất, chất khí nguyên thủy, đầu tiên hơn hết, đó là khí Dương quang và khí Âm quang. Ðức Chí Tôn chưởng quản khí Dương quang, và Ðức Phật Mẫu chưởng quản khí Âm quang. Ðức Phật Mẫu chứa 2 khí nguyên chất nầy trong Kim Bàn, rồi thâu lằn Sanh quang của ngôi Thái Cực của Ðức Chí Tôn, cho 2 khí Âm Dương ấy phối hợp nhau để tạo ra Chơn thần cho vạn linh trong Càn Khôn Vũ Trụ.
Hình hài: Ở đây chỉ Xác thân Thiêng Liêng, tức Chơn thần.
Nguyên nhân: Những người mà Chơn linh được sanh ra từ lúc Khai Thiên. (Xem: C.7 Phật Giáo). Ðầu tiên, Nguyên nhân chỉ là một Ðiểm Linh quang của Ðức Chí Tôn. Ðức Phật Mẫu dùng nguyên chất trong Kim Bàn tạo cho Ðiểm Linh quang ấy một Chơn thần. Thế là Ðức Phật Mẫu tạo thành một nguyên nhân nơi cõi thiêng liêng. Sau đó, Ðức Phật Mẫu cho nguyên nhân ấy đầu kiếp xuống cõi trần thì có được hình hài nơi cõi trần và thành một nguyên nhân nơi cõi trần.

C.9-10: Nơi Kim Bồn vàn vàn nguơn chất, Tạo hình hài các bậc nguyên nhân, nghĩa là: Nơi Kim Bàn trong Diêu Trì Cung, Ðức Phật Mẫu chứa rất nhiều nguyên chất. Phật Mẫu dùng các nguyên chất nầy để tạo Chơn thần cho các nguyên nhân.

Câu 11-12:
Cung Trí Giác trụ Tinh Thần,
Huờn Hư mầu nhiệm thoát trần đăng Tiên.

Trụ: Giữ vững. Tinh Thần: Hai Bửu trong Tam Bửu của con người nơi cõi trần .
Tam Bửu gồm: Tinh, Khí, Thần. Trong Phép Luyện Ðạo, luyện cho Tam Bửu Tinh Khí Thần hiệp nhứt là: Luyện Tinh hóa Khí, Luyện Khí hiệp Thần, Luyện Thần huờn Hư thì đạt được Chơn thần huyền diệu, đắc đạo tại thế.
Trước khi Luyện Tinh hóa Khí thì phải: Trụ Tinh, Dưỡng Khí, Tồn Thần.
Huờn Hư: Huờn là hoàn trở lại, Hư là Hư Vô, cõi giới rất huyền vi mầu nhiệm. Huờn Hư là trở nên mầu nhiệm.
Thoát trần: Thoát ra khỏi cõi trần, tức là được siêu thăng, thoát khỏi luân hồi.
Ðăng Tiên: Ðăng là lên. Ðăng Tiên là lên đường đi lên cõi Tiên, tức là đắc đạo thành Tiên, lên ở cõi Tiên.

C.11-12: Hai Câu kinh nầy, Ðức Phật Mẫu nói về Phép Luyện Ðạo, luyện cho Tam Bửu Tinh Khí Thần hiệp nhứt, đắc đạo thành Tiên tại thế: Nơi Cung Trí Giác, luyện cho Tam Bửu Tinh Khí Thần hiệp nhứt thì tạo được Chơn thần huyền diệu, đắc đạo thành Tiên, thoát khỏi cõi trần, lên đường về Tiên cảnh.
Kinh Tiểu Tường

Kinh Tiểu Tường


(Giọng Nam Xuân)

BÀI KINH

  1. Tịnh niệm phép Nhiên Ðăng tưởng tín.
  2. Hư Vô Thiên đến thính Phật điều.
  3. Ngọc Hư Ðại Hội ngự triều.
  4. Thiều quang nhị bá Thiên kiều để chơn.
  5. Bồ Ðề Dạ dẫn hồn thượng tấn,
  6. Cực Lạc quan đẹp phận Tây Qui.
  7. Vào Lôi Âm kiến A-Di,
  8. Bộ Công Di-Lạc Tam Kỳ độ sanh.
  9. Ao Thất Bửu gội mình sạch tục.
  10. Ngôi liên đài quả phúc Dà Lam.
  11. Vạn linh trổi tiếng mầng thầm.
  12. Thiên Thơ Phật tạo độ phàm giải căn.
  13. (Niệm Câu Chú của Thầy 3 lần)

GIẢI NGHĨA


Kinh Tiểu Tường do Ðức Phật Mẫu giáng cơ ban cho.

Từ ngày làm Tuần Cửu Cửu (Chung Cửu) đến ngày làm Lễ Tiểu Tường là đúng 200 ngày.

Tiểu Tường cũng được làm tại Thánh Thất sở tại, phải tụng bài Kinh Khai Cửu Ðại Tường và Tiểu Tường, rồi kế đó mới tụng Kinh Tiểu Tường.

Câu 1: Tịnh niệm phép Nhiên Ðăng tưởng tín.

Tịnh niệm: Tịnh là trong sạch, niệm là tưởng nghĩ tới. Tịnh niệm phép là phép tắc giữ lòng trong sạch để tưởng nghĩ tới một Ðấng Thiêng Liêng.
Nhiên Ðăng: Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật, Giáo chủ Phật giáo thời Nhứt Kỳ Phổ Ðộ, chưởng quản từng Trời Hư Vô Thiên. Tưởng tín: Tưởng là nhớ nghĩ tới, tín là tin. Tưởng tín là tin tưởng.

C.1: Phép tịnh niệm giữ lòng trong sạch để niệm danh Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật và tin tưởng nơi Ngài.

Câu 2: Hư Vô Thiên đến thính Phật điều.

Hư Vô Thiên: Từng Trời thứ 10, ngay bên trên Cửu Trùng Thiên. Trong từng Trời nầy có Ngọc Hư Cung và Cực Lạc Thế Giới.
Thính: Nghe.
Phật điều: Những điều Phật dạy.

C.2: Chơn hồn đến từng Trời Hư Vô Thiên để nghe những điều Phật dạy.

Câu 3: Ngọc Hư Ðại Hội ngự triều.

Ngọc Hư: Ngọc Hư Cung, thuộc từng Trời Hư Vô Thiên.
Ngự triều: Ngự là chỉ hành động của vua. Ngự triều là Ðức Chí Tôn đến họp triều đình.

C.3: Ðức Chí Tôn đến Ngọc Hư Cung để họp Ðại Hội triều đình.

Câu 4: Thiều quang nhị bá Thiên kiều để chơn.

Thiều quang: Thiều là đẹp, quang là ánh sáng. Thiều quang là ánh sáng đẹp, ở đây chỉ 1 ngày.
Nhị bá: 200.
Thiều quang nhị bá: 200 ngày. Từ ngày làm Tuần Chung Cửu đến ngày làm Tiểu Tường là 200 ngày. Thiên kiều: Kiều là cây cầu. Thiên kiều là cây cầu bắc lên Trời.

C.4: Thiều quang nhị bá Thiên kiều để chơn, nghĩa là: Hai trăm ngày sau, Chơn hồn được đặt chơn lên cây cầu Thiên kiều.

Câu 5-6:
Bồ Ðề Dạ dẫn hồn thượng tấn,
Cực Lạc quan đẹp phận Tây Qui.

Thượng tấn: Thượng là đi lên, tấn là tiến tới. Thượng tấn là tiến lên cao.
Quan: Cái cổng lớn.
Cực Lạc quan: Cái cổng lớn đi vào Cực Lạc Thế Giới.
Ðẹp phận: Số phận tốt đẹp.
Tây Qui: Một địa danh nơi cõi Cực Lạc Thế Giới.

C.5-6: Bồ Ðề Dạ hướng dẫn Chơn hồn tiến lên cao, đến cái cổng lớn đi vào Cực Lạc Thế Giới, rồi đi đến một chỗ gọi là Tây Qui, là nơi định phận tốt đẹp cho Chơn hồn.

Câu 7-8:
Vào Lôi Âm kiến A-Di,
Bộ Công Di-Lạc Tam Kỳ độ sanh.

Vào Lôi Âm: Ði vào Lôi Âm Tự, tức là đi vào Chùa Lôi Âm ở kinh đô của Cực Lạc Thế Giới.
Kiến: Thấy, gặp.
A-Di: nói tắt của từ ngữ A-Di-Ðà Phật. Ðức Phật A-Di-Ðà là Chưởng giáo Cực Lạc Thế Giới trong thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ. Qua thời Tam Kỳ Phổ Đổ, Ðức Phật A-Di-Ðà vâng lịnh Ðức Chí Tôn giao quyền Chưởng giáo lại cho Ðức Di-Lạc Vương Phật, Ngài vào ngự trong Lôi Âm Tự cùng với Ðức Phật Thích Ca.
Bộ Công: Bộ là sổ sách ghi chép, Công là công quả. Bộ công là bộ sổ ghi chép công quả. Những người nào có công quả giúp đời giúp Ðạo, phổ độ nhơn sanh thì được ghi vào Bộ Công Quả. Trong thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Ðức Chí Tôn lập ra một Trường thi Công quả cho chúng sanh đắc đạo, mà Ðức Phật Di-Lạc là Chánh Chủ Khảo nên Ðức Di-Lạc lập ra Bộ Công Quả để căn cứ vào đó mà chấm thi đậu rớt.
Ðộ sanh: Cứu giúp Chơn hồn đưa lên sống cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

C.7-8: Chơn hồn đi vào Chùa Lôi Âm để bái kiến Ðức Phật A-Di-Ðà. Ðức Phật Di-Lạc lập ra Bộ Công Quả trong thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ để cứu giúp các Chơn hồn đưa lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Câu 9: Ao Thất Bửu gội mình sạch tục.

Thất bửu: 7 món báu, kể ra: Vàng, Bạc, Ngọc Lưu ly, Ngọc Xà cừ, Ngọc Mã não, Ngọc Hổ phách, Ngọc San hô.
Ao Thất Bửu: Cái ao nơi cõi Cực Lạc Thế Giới, được xây dựng và trang trí bằng 7 thứ quí báu đẹp đẽ lạ thường. Ðặc biệt nước trong Ao Thất Bửu có đủ 8 công đức nên gọi là Bát Công Ðức Thủy. Người nào được ân huệ vào tắm trong Ao Thất Bửu thì trí tuệ được khai thông và chơn thần được trong sáng, vì các thứ ô trược nhiễm vào Chơn thần đã được gội sạch bởi nước 8 công đức trong ao. Sạch tục: Rửa sạch hết các thứ dơ bẩn nơi cõi trần đã bám vào Chơn thần. (Tục là chỉ cõi trần).

C.9: Chơn hồn được đến tắm nơi Ao Thất Bửu để gội sạch hết các thứ dơ bẩn của cõi trần đã bám vào Chơn thần.

Câu 10: Ngôi liên đài quả phúc Dà Lam.

Liên đài: Tòa sen, ngôi vị của Phật.
Quả phúc: Kết quả của phước đức. Ðó là ngôi vị Tiên, Phật.
Dà Lam: Già Lam, ngôi vị Phật gọi là Phật Già Lam.

C.10: Tòa sen, ngôi vị Phật Dà Lam là kết quả của những phước đức tu hành.

Câu 11: Vạn linh trổi tiếng mầng thầm.

Vạn linh: Tất cả các Chơn linh trong Càn Khôn Vũ Trụ gồm đủ Bát hồn.
Trổi tiếng: Cất tiếng nói lên.
Mầng thầm: Mừng rỡ mà không lộ ra ngoài, mừng kín đáo trong lòng.

C.11: Vạn linh trổi tiếng mừng thầm, nghĩa là: Vạn linh đều cất tiếng nói thầm trong lòng là rất vui mừng thấy một Chơn linh đắc đạo vào phẩm vị Phật.

Câu 12: Thiên Thơ Phật tạo độ phàm giải căn.

Thiên thơ: Thơ là sách, Thiên thơ là quyển sách của Trời ghi chép Thiên điều, tức là ghi chép các Luật pháp điều hành sự vận chuyển của Càn Khôn Vũ Trụ và sự tiến hóa của vạn linh. Thiên thơ được các Ðấng Tiên Phật họp tại Ngọc Hư Cung lập ra nên câu kinh mới viết là: Thiên thơ Phật tạo.
Ðộ phàm: Cứu giúp chúng sanh nơi cõi trần. Ðộ là cứu giúp, phàm là tầm thường thấp kém, chỉ cõi trần
Giải căn: Cởi bỏ cái gốc rễ, cái gốc rễ ấy là những việc làm thiện ác trong kiếp sống trước tạo thành các oan nghiệt nơi cõi trần. Giải căn là cởi bỏ các oan nghiệt của chúng sanh nơi cõi trần .

C.12: Thiên thơ Phật tạo độ phàm giải căn, nghĩa là: Chư Phật lập ra Thiên thơ để cứu giúp và cởi bỏ hết các oan nghiệt của chúng sanh nơi cõi trần.
Kinh Đại Tường

Kinh Đại Tường


(Giọng Nam Xuân)

BÀI KINH

  1. Hỗn Nguơn Thiên dưới quyền Giáo chủ,
  2. Di-Lạc đương thâu thủ phổ duyên.
  3. Tái sanh sửa đổi chơn truyền.
  4. Khai cơ tận độ Cửu tuyền diệt vong.
  5. Hội Long Hoa tuyển phong Phật vị.
  6. Cõi Tây phang đuổi quỉ trừ ma.
  7. Giáng linh Hộ Pháp Di-Ðà,
  8. Chuyển cây Ma Xử đuổi tà trục tinh.
  9. Thâu các đạo hữu hình làm một,
  10. Trường thi Tiên Phật duợt kiếp khiên.
  11. Tạo đời cải dữ ra hiền,
  12. Bảo sanh nắm giữ diệu huyền Chí Tôn.
  13. (Niệm Câu Chú của Thầy 3 lần)

GIẢI NGHĨA



Kinh Ðại Tường, còn được gọi là Hỗn Nguơn Kinh, do Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni giáng cơ ban cho.

Nội dung bài Kinh nầy, Ðức Phật Thích Ca cho biết Ðức Di-Lạc Vương Phật hiện nay đang chưởng quản từng Trời Hỗn Nguơn Thiên và làm Giáo Chủ Hội Long Hoa để tuyển phong Phật vị trong thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Ðức Phật Di-Lạc còn thay mặt Ðức Chí Tôn thực hiện tôn chỉ "Qui nguyên Tam giáo và phục nhứt Ngũ Chi Ðại Ðạo" để lập đời Thánh đức, tạo ra một xã hội Ðại đồng cho toàn nhơn loại.

Câu 1-2:
Hỗn Nguơn Thiên dưới quyền Giáo chủ,
Di-Lạc đương thâu thủ phổ duyên.

Hỗn Nguơn Thiên: Theo Di Lạc Chơn Kinh, từng Trời Tạo Hóa Thiên là từng thứ 9 cao nhất trong Cửu Trùng Thiên.

Từng Trời thứ 10 là Hư Vô Thiên, do Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật Chưởng quản.
Từng Trời thứ 11 là Hội Nguơn Thiên.
Từng Trời thứ 12 là Hỗn Nguơn Thiên.
Hai từng Trời 11 và 12 đều do Ðức Phật Di-Lạc chưởng quản.

Ðương: Ðảm đương, nhận lãnh gánh vác.
Thâu: Nhận vào.
Thủ: Gìn giữ.
Phổ: Bày ra khắp nơi.
Duyên: Có mối dây ràng buộc, ý nói có duyên với Phật, có duyên tu hành.
Ðương thâu thủ phổ duyên: Nhận lãnh việc thâu nhận và gìn giữ những người có duyên tu hành ở khắp nơi.

C.1-2: Ðức Di-Lạc Vương Phật làm Giáo chủ từng Trời Hỗn Nguơn Thiên. Ngài đảm đương việc thâu nhận và gìn giữ những người có duyên tu hành ở khắp nơi.

Câu 3:Tái sanh sửa đổi chơn truyền.

Tái sanh: Tái là lập lại một lần nữa. Tái sanh là giáng sanh xuống cõi trần một lần nữa. Chơn truyền: Giáo lý chơn thật của một nền tôn giáo do vị Giáo chủ truyền lại, nếu tu hành đúng y theo đó thì nhứt định sẽ được đắc đạo.

C.3: Ðức Di-Lạc Vương Phật sẽ giáng sanh xuống cõi trần nầy một lần nữa để sửa đổi tất cả giáo lý của các tôn giáo xưa, cho đúng chơn truyền, bởi vì giáo lý của các tôn giáo nầy, qua hơn 2000 năm truyền bá đã bị người đời canh cải làm sai lạc rất nhiều.

Ngũ giáo thất chơn truyền:

Ở Á Ðông có Tam giáo: Phật, Lão, Nho; ở Âu Mỹ Châu có Thiên Chúa giáo với 2 chi phái lớn là Chính Thống giáo và Tin Lành; ở Trung Ðông có Hồi giáo, cả thảy là 5 tôn giáo lớn trên Thế giới mở ra vào thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ, đã cứu độ nhơn sanh được hơn 2000 năm nay.

Năm nền tôn giáo lớn nầy theo thời gian, đã bị những người lãnh đạo sửa cải dần dần, mỗi vị sửa một ít, đến nay thì Chơn truyền đã gần như sai lạc hẳn, cho nên người tu thì nhiều mà đắc đạo thì không có mấy người.

Do đó, Ðức Chí Tôn mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ với tôn chỉ qui nguyên Tam giáo, phục nhứt Ngũ Chi, Ðức Di-Lạc Vương Phật là Ðấng được Ðức Chí Tôn ủy nhiệm thực hiện Cơ Qui Nhứt trọng đại nầy, đem các nền tôn giáo trở về gốc, sửa đổi giáo lý cho đúng với Chơn truyền của buổi ban đầu.


Câu 4: Khai cơ tận độ Cửu tuyền diệt vong.

Tận độ: Tận là hết, độ là cứu. Tận độ là cứu tất cả nhơn sanh, không chừa một người nào.
Cửu tuyền: Chín suối, chỉ cõi Âm phủ, cõi Ðịa ngục, bởi vì theo truyền thuyết dân gian thì ở cõi Âm phủ có 9 dòng suối.
Diệt vong: Diệt là làm cho tiêu hết, vong là mất. Diệt vong là làm cho tiêu mất hết.

C.4: Ðức Di-Lạc Vương Phật mở ra cơ quan tận độ nhơn sanh và tiêu diệt cõi Ðịa ngục.

Câu kinh nầy đúng theo Thánh ý của Ðức Chí Tôn: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là Ðại Ân Xá kỳ ba, để tận độ chúng sanh trước khi chấm dứt một giai đoạn tiến hóa cũ, bắt đầu một giai đoạn tiến hóa mới của nhơn loại nơi quả Ðịa cầu 68 nầy.

■ Vô Ðịa ngục, vô quỉ quan,
Chí Tôn Ðại Xá nhứt trường qui nguyên. (Phật Mẫu Chơn Kinh)

■ Ðóng Ðịa ngục, mở tầng Thiên,
Khai đường Cực Lạc, dẫn miền Tây phương. (Kinh Giải Oan)

Ðây là một nét đặc biệt hết sức mới mẻ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mà từ trước tới nay chưa hề có ở bất kỳ một tôn giáo nào.

Người tín đồ Cao Ðài phải hằng tâm ghi nhớ để luôn luôn cầu nguyện Ðức Chí Tôn cứu rỗi trong hồng ân của Ngài.

Câu 5: Hội Long Hoa tuyển phong Phật vị.

Hội Long Hoa
: Long là rồng, hoa là cái bông. Long Hoa là một cái cây to lớn có hình dáng giống như con rồng, trổ hoa rực rỡ. Ðức Di-Lạc Vương Phật sẽ mở Ðại Hội tuyển chọn người hiền đức tại cội cây Long Hoa nầy, nên Ðại Hội ấy được gọi là Ðại Hội Long Hoa do Ðức Di-Lạc làm Giáo chủ.

Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo: Nơi Cung Hỗn Nguơn Thiên cốt yếu là nơi chung họp cùng các Ðấng Chơn hồn cao siêu, trí thức thông minh, kể từ bậc Thiên Tiên cho đến Phật vị, đều đến ở nơi đây, đặng tạo dựng đại nghiệp của mình. Cả toàn thể trong Càn Khôn Vũ Trụ, hoặc tiêu diệt, hoặc biến sanh, cũng do nơi đó cầm Chơn pháp quyết định. Nơi đây là nơi quyết định chương trình Long Hoa Ðại Hội của toàn thể vạn linh trong Càn Khôn Vũ Trụ."
Tuyển phong: Tuyển lựa người đầy đủ đạo đức để phong thưởng.
Phật vị: Ngôi vị Phật.

C.5: Ðức Di-Lạc Vương Phật mở Ðại Hội Long Hoa tuyển lựa người đầy đủ công đức phong thưởng vào ngôi vị Phật.

Câu 6: Cõi Tây phang đuổi quỉ trừ ma.

Cõi Tây phang: Chữ Phang do chữ Phương nói trại ra. Cõi Tây phang là cõi Tây Phương Cực Lạc, tức là cõi Cực Lạc Thế Giới.

C.6: Nơi cõi Tây phương Cực Lạc, Ðức Phật Di-Lạc xua đuổi và trừ khử ma quỉ không cho lộng hành.

Câu 7-8:
Giáng linh Hộ Pháp Di-Ðà,
Chuyển cây Ma Xử đuổi tà trục tinh.

Giáng linh: Chơn linh giáng xuống trần. Giáng là đi xuống. Thường thì các Ðấng Thiêng liêng chiết chơn linh giáng sanh xuống cõi trần, như Ðại Tiên Lý thiết Quả chiết chơn linh giáng sanh xuống trần là Ðức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung.
Di-Ðà: Phiên âm từ tiếng Phạn, nghĩa là Phật.
Hộ Pháp Di-Ðà: Ðức Phật Hộ Pháp.
Cây Ma Xử: Nói đầy đủ là Cây Giáng Ma Xử. Giáng là hàng phục, Ma là loài Ma quỉ, Xử là cái chày. Giáng Ma Xử là cái chày để làm quỉ ma hàng phục. Giáng Ma Xử là bửu pháp của Ðức Hộ Pháp, trị tà ma, không cho chúng lộng hành.

Trong truyện Phong Thần, vị Thánh Vi Hộ, với bửu pháp là Giáng Ma Xử, vâng lịnh Thầy là Ðạo Hạnh Thiên Tôn, xuống núi giúp Khương Thượng Tử Nha đánh bại các Tiên Triệt giáo.
Ðuổi tà trục tinh: Tà tinh là tà ma tinh quái, chỉ chung loài ma quỉ yêu quái. Trục là xua đuổi. Ðuổi tà trục tinh là xua đuổi bọn tà ma yêu quái.

C.7-8: Ðức Phật Di-Lạc chiết chơn linh giáng trần làm một vị Phật Hộ Pháp, dùng bửu pháp Giáng Ma Xử chuyển động để xua đuổi các loài tà ma yêu quái.

Câu 9-10:
Thâu các đạo hữu hình làm một,
Trường thi Tiên Phật duợt kiếp khiên.

Các đạo hữu hình: Các tôn giáo hiện có nơi cõi trần.

Các đạo hữu hình gồm 5 nền tôn giáo lớn trên thế giới, như đã kể trong phần Giải thích Câu 3. Các nền tôn giáo nầy do nhiều Ðấng Giáo chủ mở ra ở các nước khác nhau, với phong tục tạp quán khác nhau, nên xảy ra nhiều sự va chạm và chia rẽ, cho đạo mình là chánh, đạo khác là tà, gây ra nhiều cuộc chiến tranh rất thảm khốc dưới danh nghĩa Thánh chiến.

Ngày nay, Ðức Di-Lạc nhận lãnh mạng lịnh của Ðức Chí Tôn, nên có đủ quyền pháp tóm thâu các nền tôn giáo nói trên vào một mối duy nhất, do chính Ngài làm Giáo chủ, tạo thành một nền Ðại Ðạo, để thống nhứt tín ngưỡng của nhơn sanh, lập ra thời kỳ Thánh đức, trong một xã hội Ðại đồng.

Trường thi Tiên Phật: Ðức Chí Tôn lập ra một Trường thi Công quả cho nhơn sanh đắc đạo thành những phẩm vị Tiên hay Phật, mà Ðức Di-Lạc Vương Phật làm Chánh Chủ Khảo tuyển lựa và phong thưởng vào Tiên vị hay Phật vị. (Hội Long Hoa tuyển phong Phật vị).

Duợt kiếp khiên: Duợt tức là duyệt, nghĩa là xem xét để đánh giá trị, thường nói Khảo duyệt hay Khảo duợt, là thử thách để đánh giá trị cao thấp. Kiếp là một đời sống. Khiên là lỗi lầm. Duợt kiếp khiên là xem xét những tội lỗi đã gây ra trong kiếp sống nơi cõi trần để chấm điểm cao thấp.

C.9-10: Ðức Di-Lạc Vương Phật thâu gom các nền tôn giáo lớn hiện nay vào một mối duy nhất, lập thành một nền Ðại Ðạo. Ðức Chí Tôn lập ra một Trường thi Công quả tuyển phong Tiên vị và Phật vị, giao cho Ðức Di-Lạc làm Chánh chủ khảo, duyệt xét tội tình của nhơn sanh để chấm thi đậu rớt.

Câu 11-12:
Tạo đời cải dữ ra hiền,
Bảo sanh nắm giữ diệu huyền Chí Tôn.

Cải dữ ra hiền: Giáo hóa để sửa đổi người hung dữ thành người hiền lành.
Bảo sanh: Gìn giữ sự sống theo đức háo sanh của Thượng Ðế.

C.11-12: Tạo lập đời Thượng nguơn Thánh đức bằng cách giáo hóa người dữ thành người hiền, gìn giữ sự sống cho chúng sanh, nắm giữ quyền pháp huyền diệu của Ðức Chí Tôn.
Di Lạc Chơn Kinh

Di Lạc Chơn Kinh

KHAI KINH KỆ
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ.
Ngã kim thính văn đắc thọ trì,
Nguyện giải Tân Kinh chơn thiệt nghĩa.
Thích Ca Mâu Ni Văn Phật thuyết
Di-Lạc Chơn Kinh.

DỊCH NGHĨA
Kệ mở đầu bài kinh
Giáo lý của Phật rất cao siêu, rất sâu xa, huyền vi mầu nhiệm.
Trăm ngàn muôn kiếp khó gặp đặng.
Ta ngày nay nghe biết được nhận lấy và gìn giữ,
Nguyện giải thích bài kinh mới với ý nghĩa chơn thật.
Ðức Thích Ca Mâu Ni Văn Phật thuyết giảng
Kinh Di-Lạc chơn thật.

CHÚ THÍCH
Di-Lạc Chơn Kinh, thuộc Kinh Tận Ðộ, do Ðức Phật Thích Ca giáng cơ ban cho.

Khai Kinh Kệ:

Khai là mở đầu, Kinh là bài kinh, Kệ là bài kệ, tức là một đoạn văn ngắn có vần điệu, có nội dung cho biết ý nghĩa tổng quát của bài kinh.

Khai Kinh Kệ là bài Kệ mở đầu một bài Kinh.

Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp:

Vô thượng: Không có cái gì cao hơn, ý nói rất cao siêu.
Thậm thâm: Rất sâu xa. Thậm là rất, thâm là sâu.
Vi diệu: Vi là rất nhỏ, diệu là khéo léo. Vi diệu là huyền vi mầu nhiệm.
Pháp: Giáo lý của Phật.

Giáo lý của Phật rất cao siêu, sâu xa, huyền vi mầu nhiệm.

Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ:

: Trăm.
Thiên: Ngàn.
Vạn: Muôn.
Kiếp: Một kiếp sống.
Nan: Khó.
Tao ngộ: Gặp gỡ tình cờ, không hẹn trước.

Trăm ngàn muôn kiếp khó gặp đặng.

Ngã kim thính văn đắc thọ trì:

Ngã: Ta, tiếng tự xưng của Ðức Phật Thích Ca.
Kim: Ngày nay.
Thính: Nghe.
Văn: Nghe biết.
Ðắc: Ðược.
Thọ: Nhận lãnh.
Trì: Gìn giữ, giữ lấy.
Thọ trì: Nhận lãnh và giữ lấy. Như nghe thuyết pháp thì đem lòng tin mà thọ lãnh rồi niệm nhớ chẳng quên (trì).

Ta ngày nay nghe biết, được nhận lãnh và giữ lấy.

CHÚ Ý: Bên Kinh Phật giáo, Câu kinh nầy là: " Ngã kim kiến văn đắc thọ trì." Nghĩa là: Ta nay thấy nghe và được thọ trì. Kiến là thấy. Kiến văn là nghe thấy.

Nguyện giải Tân Kinh chơn thiệt nghĩa:

Nguyện: Ý muốn trong lòng.
Giải: Cắt nghĩa cho rõ ra.
Tân Kinh: Kinh mới. Trái với Tân Kinh là Cựu Kinh. Các bài Kinh của Đại Đại Tam Kỳ Phổ Độdo các Ðấng Thiêng Liêng giáng cơ ban cho từ năm Bính Dần (1926) trở về sau được gọi là Tân Kinh. Còn các bài kinh thuộc Nhị Kỳ Phổ Ðộ, được gọi là Cựu Kinh.
Chơn thiệt nghĩa: Ý nghĩa chơn thật, chánh đáng.

Nguyện giải thích rõ ý nghĩa chơn thật của bài Tân Kinh nầy.

Thích Ca Mâu Ni Văn Phật thuyết Di-Lạc Chơn Kinh:

Thuyết: Nói rõ ra, thuyết giảng.
Chơn kinh: Bài kinh chơn thật, đúng chơn lý, do Ðức Phật giáng cơ viết ra.
Di-Lạc Chơn Kinh: Bài Kinh chơn thật nói rõ quyền pháp của Ðức Phật Di-Lạc trong thời Tam Kỳ Phổ Ðộ.

Ðức Thích Ca Mâu Ni Văn Phật thuyết giảng Di-Lạc Chơn Kinh.

THƯỢNG THIÊN HỖN NGƯƠN HỮU:
- Brahma Phật
- Çiva Phật,
- Christna Phật,
- Thanh Tịnh Trí Phật,
- Diệu Minh Lý Phật,
- Phục Tưởng Thị Phật,
- Diệt Thể Thắng Phật,
- Phục Linh Tánh Phật,
Nhứt thiết chư Phật, hữu giác hữu cảm, hữu sanh hữu tử, tri khổ nghiệp chướng, luân chuyển hóa sanh, năng du Ta-bà Thế giới độ tận vạn linh đắc qui Phật vị.

DỊCH NGHĨA
Từng Trời ở trên hết là Hỗn Nguơn Thiên có:

- Brahma Phật,
- Civa Phật,
- Christna Phật,
- Thanh Tịnh Trí Phật,
- Diệu Minh Lý Phật,
- Phục Tưởng Thị Phật,
- Diệt Thể Thắng Phật,
- Phục Linh Tánh Phật,

Tất cả các vị Phật, có biết có cảm động, có sanh có chết, biết rõ cái khổ do nghiệp chướng gây ra, luân hồi chuyển kiếp hóa sanh ra, có khả năng đi khắp các cõi trần cứu giúp tất cả Chơn linh, được trở về ngôi vị Phật.

CHÚ THÍCH

Thượng Thiên Hỗn Nguơn: Từng Trời Hỗn Nguơn ở trên hết. Thượng là ở trên, Thiên là từng Trời.
Hữu: Có.
Nhứt thiết: Tất cả.
Chư Phật: Các vị Phật.
Hữu giác: Có biết.
Cảm: Mối rung động trong lòng.
Hữu cãm: Có mối rung động trong lòng.
Hữu sanh: Có sanh ra và sống.
Hữu tử:Có chết.
Tri khổ: Biết rõ những cái khổ não nơi cõi trần.
Con người có Tứ Khổ: Sanh, Lão, Bệnh, Tử. Ngoài ra, con người còn chịu biết bao nỗi đau khổ khác do Tham, Sân, Sigây ra.

Nghiệp chướng: Nghiệp là cái lực cảm do những việc làm thiện ác trong kiếp sống trước tạo ra để ảnh hưởng lên kiếp sống hiện tại. Thường, chữ "Nghiệp" dùng với ý nghĩa là "Nghiệp dữ" (Ác nghiệp), thì đương nhiên phải chịu lấy hậu quả xấu theo đúng Luật Nhân Quả. Chướng là sự ngăn trở. Nghiệp chướng là sự ngăn trở của nghiệp, nó sẽ gây ra hoạn nạn, bệnh tật, trong kiếp sống hiện tại để ngăn trở, báo đáp lại những việc làm bất thiện đã tạo ra trong kiếp trước.
Luân chuyển hóa sanh: Luân là cái bánh xe, chuyển là xoay vần, hóa sanh là biến hóa sanh ra. Luân chuyển hóa sanh là xoay vòng như cái bánh xe, hết sanh rồi tử, hết tử rồi lại sanh ra. Ðó là sự luân hồi chuyển kiếp, khiến con người chìm đắm mãi trong cõi trần, từ kiếp nầy sang kiếp khác.
Năng du: Năng là có khả năng, du là đi đó đi đây. Năng du là có khả năng đi đó đi đây.
Ta bà Thế giới: Ta bà, do chữ Phạn là Saha phiên âm ra, có nghĩa là: Nhẫn nhục. Ta bà Thế giới là những cõi mà người tu hành phải nhẫn nhục, vì ở cõi nầy có nhiều ô trược và ác độc. Ở cõi nầy rất khó tu hành, nhưng nếu tu được thì công đức rất lớn, chỉ trong một kiếp cũng có thể đạt được phẩm vị cao trọng nơi cõi thiêng liêng. Cõi trần của nhơn loại chúng ta đây là một cõi trong Ta bà Thế giới.
Ðộ tận: Ðộ là cứu giúp, tận là hết. Ðộ tận là cứu giúp tất cả nhơn loại, không chừa một người nào, dầu con nít còn trong bụng mẹ cũng phải độ.

Ðức Chí Tôn có nói:

"Chiêu kỳ trung độ dẫn hoài sanh", là nghĩa gì? Dầu cho trẻ con trong bụng cũng phải độ, sao các con lại đuổi thiện nam tín nữ?" (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. I. 20)

Vạn linh: Tất cả Chơn linh trong Càn Khôn Vũ Trụ gồm đủ Bát hồn: Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn và Phật hồn. Vạn linh đầu kiếp xuống trần làm chúng sanh.
Ðắc qui Phật vị: Ðược trở về ngôi vị Phật. Ðắc là được, Qui là trở về, Phật vị là ngôi vị Phật. Dùng chữ Qui là trở về, với ý nghĩa là: Trước đây Chơn linh đã đạt được ngôi vị Phật nơi cõi thiêng liêng, nay đầu kiếp xuống trần, tu hành đắc đạo trở về ngồi lại trên ngôi vị cũ.

HỘI NGUƠN THIÊN HỮU

- Trụ Thiện Phật,
- Ða Ái Sanh Phật,
- Giải Thoát Khổ Phật,
- Diệu Chơn Hành Phật,
- Thắng Giái Ác Phật,

Nhứt thiết chư Phật, tùng lịnh Di-Lạc Vương Phật, năng chiếu diệu quang tiêu trừ nghiệt chướng.

Nhược hữu chúng sanh văn Ngã ưng đương thoát nghiệt, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, tùng thị Pháp điều Tam Kỳ Phổ Ðộ, tất đắc giải thoát luân hồi, đắc lộ Ða-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Ðề thị chi chứng quả Cực Lạc Niết Bàn.

Nhược nhơn đương sanh, nhược nhơn vị sanh, nhược nhơn hữu kiếp, nhược nhơn vô kiếp, nhược nhơn hữu tội, nhược nhơn vô tội, nhược nhơn hữu niệm, nhược nhơn vô niệm, thính đắc Ngã ngôn, phát tâm thiện niệm, tất đắc A-Nậu Ða-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Ðề, tất đắc giải thoát.

Nhược hữu nhơn thọ trì khủng kinh ma chướng, nhứt tâm thiện niệm: Nam mô Di-Lạc Vương Bồ-Tát, năng cứu khổ ách, năng cứu tam tai, năng cứu tật bịnh, năng độ dẫn chúng sanh thoát chư nghiệt chướng, tất đắc giải thoát.

DỊCH NGHĨA:
Từng Trời Hội Nguơn Thiên có:

- Trụ Thiện Phật,
- Ða Ái Sanh Phật,
- Giải Thoát Khổ Phật,
- Diệu Chơn Hành Phật,
- Thắng Giái Ác Phật,

Tất cả các vị Phật, nghe theo mệnh lệnh của Ðức Di-Lạc Vương Phật, có khả năng chiếu ánh sáng huyền diệu làm tiêu trừ các nghiệt chướng.

Nếu như có người nào nghe biết lời TA, thì phải thoát khỏi các nghiệp ác, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, tùng theo và nhìn nhận là đúng Luật pháp của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, ắt được giải thoát khỏi luân hồi, đắc đạo Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, ấy là chứng được quả vị nơi cõi Cực Lạc Niết Bàn (Cực Lạc Thế Giới).

Nếu như người đang sống, nếu như người chưa được sanh ra, nếu như người có kiếp sống, nếu như người không có kiếp sống, nếu như người có tội, nếu như người không tội, nếu như người có lòng tưởng niệm, nếu như người không lòng tưởng niệm, nghe được lời nói của TA, phát khởi lòng tưởng nghĩ điều lành, ắt được phẩm vị Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, ắt được giải thoát.

Nếu như có người nhận lãnh và gìn giữ làm theo lời Phật dạy, bị sợ hãi vì ma quỉ cản ngăn, một lòng một dạ tưởng nghĩ điều lành, niệm: Nam mô Di-Lạc Vương Bồ Tát, có khả năng cứu giúp tai nạn khổ sở, có khả năng cứu giúp 3 tai họa lớn, có khả năng cứu được bịnh tật, có khả năng cứu giúp và dẫn dắt chúng sanh thoát khỏi các thứ nghiệt chướng, ắt được giải thoát.

CHÚ THÍCH

Hội Nguơn Thiên: Ðây là từng Trời kế bên dưới Hỗn Nguơn Thiên, và ở khoảng giữa Hư Vô Thiên và Hỗn Nguơn Thiên. Hư Vô Thiên là từng Trời thứ 10 (ở ngay phía trên Cửu Trùng Thiên) thì Hội Nguơn Thiên là từng thứ 11 và Hỗn Nguơn Thiên là từng thứ 12. Hai từng Trời 11 và 12 đều đặt dưới quyền chưởng quản của Ðức Di-Lạc Vương Phật.
Năng chiếu diệu quang: Có khả năng chiếu sáng bằng ánh sáng huyền diệu.
Tiêu trừ: Diệt trừ cho mất hết.
Nghiệt chướng: Nghiệt là cái mầm ác, nghiệp ác; chướng là ngăn trở. Nghiệt chướng là cái nghiệp ác gây ra nhiều chướng ngại cho kiếp sống hiện tại, như gặp phải hoạn nạn, tai ương, hay bịnh tật.
Nhược: Nếu như.
Nhược hữu: Nếu như có.
Chúng sanh: Các loài sanh vật, gồm: Thảo mộc, Thú cầm, Nhơn loại. Nghĩa hẹp của Chúng sanh là nhơn loại.
Văn: Nghe biết.
Ngã: Ta, tiếng tự xưng của Ðức Phật Thích Ca.
Văn Ngã: Nghe biết lời Ta.
Ưng đương: Thì phải, nên phải.
Thoát nghiệt: Thoát khỏi các nghiệp ác.
Niệm: Tưởng nghĩ tới, đọc nho nhỏ vừa đủ nghe lời cầu nguyện.
Phật, Pháp, Tăng: Tam Bửu của Ðức Chí Tôn.

Ðức Chí Tôn là Phật, vị Phật lớn nhứt trong các vị Phật. Ðức Chí Tôn phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, biến Lưỡng Nghi thành Tứ Tượng, rồi Bát Quái. "Thầy khai Bát Quái mà tác thành Càn Khôn Thế Giới nên mới gọi là Pháp, Pháp có mới sanh ra Càn Khôn Vũ Trụ rồi mới có người nên gọi là Tăng. Thầy là Phật, chủ cả Pháp và Tăng, lập thành các Ðạo mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. I. 52)

Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng là niệm Ðức Chí Tôn.
Tùng thị: Tùng là tuân theo, thị là phải là đúng. Tùng thị là tuân theo vì cho đó là đúng.
Pháp điều: Những điều khoản của Luật pháp.

Tam Kỳ Phổ Ðộ: Đại Đại Tam Kỳ Phổ Độ, nền Ðại Ðạo do Ðức Chí Tôn mở ra lần thứ 3 để cứu độ nhơn sanh.

Tất đắc: Ắt được.
Giải thoát: Cởi bỏ hết để thoát ra.
Giải thoát luân hồi: Cởi bỏ hết để thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử.
Ðắc lộ: Ðắc là được, lộ là đường đi, mà đạo cũng là đường đi, nên Ðắc lộ đồng nghĩa Ðắc đạo.
Ða-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Ðề: do phiên âm từ chữ Phạn là: Tara Samyas Sambôdhi, nghĩa là: Tara (Ða-La) là Thượng, ở trên. Samyas (Tam-Diệu) là Chánh đẳng. Sambôdhi (Tam-Bồ-Ðề) là Chánh giác. Chánh đẳng là bực Chơn chánh, Chánh giác là giác ngộ chơn chánh, biết rõ chơn lý, giác ngộ hoàn toàn.

Ða-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Ðề là Thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ðó là phẩm vị Phật.
Thị chi: Ấy là, tức là.
Chứng quả: Nhận thực cái kết quả tu hành, tức là đắc đạo đoạt được ngôi vị.
Cực Lạc Niết Bàn: Cực Lạc Thế Giới hay Tây phương Cực Lạc.
Ðương: Ðang lúc.
Vị: Chưa.
Nhược nhơn đương sanh: Nếu như người đang sống.
Nhược nhơn vị sanh: Nếu như người chưa được sanh ra.
Hữu kiếp: Có kiếp sống nơi cõi trần.
Vô kiếp: Không có kiếp sống nơi cõi trần.
Hữu niệm: Có tưởng nghĩ tới.
Thính đắc Ngã ngôn: Nghe được lời nói của Ta.
Phát tâm thiện niệm: Lòng phát khởi tưởng nghĩ điều lành.
Tất đắc giải thoát: Ắt được giải thoát khỏi luân hồi.
A-Nậu Ða-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Ðề: do phiên âm từ chữ Phạn: Anout tara Samyas Sambôdhi, nghĩa là: Anout (A-Nậu): Không, Vô. Tara (Ða-La): Thượng. Samyas (Tam-Diệu): Chánh đẳng, bực chơn chánh. Sambôdhi (Tam-Bồ-Ðề): Chánh giác, giác ngộ chơn chánh.

A-Nậu Ða-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Ðề: Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ðó là phẩm vị Phật tối cao.
Nhược hữu nhơn: Nếu như có người.
Thọ: Nhận lãnh.
Trì: Gìn giữ.
Thọ trì: Nhận lãnh và gìn giữ làm đúng theo lời Phật dạy.
Khủng kinh: Kinh khủng, rất sợ hãi.
Ma chướng: Sự ngăn cản của quỉ ma. Người tu hành luôn luôn bị bọn ma quỉ khuấy phá đủ cách để làm chướng ngại cho bước đường tu, nhưng chính đó cũng là những thử thách cần thiết để nâng cao trình độ tu tiến. Nếu vượt qua được các chướng ngại do quỉ ma gây ra thì mới chứng tỏ người tu có đủ hạnh đức và có thể đắc đạo.
Nhứt tâm thiện niệm: Một lòng một dạ tưởng nghĩ điều lành. Nhất tâm là một lòng một dạ, niệm là tưởng nghĩ.

Di-Lạc Vương Bồ Tát - Di-Lạc Vương Phật:

Vương là vua, người đứng đầu có quyền thống trị tất cả.
Gọi Ngài là Di-Lạc Vương Phật khi Ngài ngự trên ngôi vị, điều khiển chư Phật và cai trị toàn cả Càn Khôn Thế Giới.

Gọi ngài là Di-Lạc Vương Bồ Tát khi Ngài làm nhiệm vụ cứu độ và dẫn dắt chúng sanh tu hành.
Năng cứu: Có khả năng cứu giúp.
Khổ ách: Tai nạn khổ sở. Ách là tai nạn.
Tam tai: 3 thứ tai họa lớn: - Hỏa tai (tai họa do lửa cháy, như cháy nhà, cháy rừng); - Thủy tai (tai họa do nước, như lũ lụt, sóng thần); - Phong tai (tai họa do gió gây ra như bão tố, cuồng phong).
HƯ VÔ CAO THIÊN HỮU

Hư Vô Cao Thiên hữu:

- Tiếp Dẫn Phật,
- Phổ Tế Phật,
- Tây Qui Phật,
- Tuyển Kinh Phật,
- Tế Pháp Phật,
- Chiếu Duyên Phật,
- Phong Vị Phật,
- Hội Chơn Phật,

Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, tùng lịnh Nhiên Ðăng Cổ Phật, dẫn độ Chơn linh, đắc Pháp đắc Phật, đắc duyên đắc vị, đắc A-Nậu Ða-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Ðề, chứng quả nhập Cực Lạc Quốc, hiệp chúng đẳng chư Phật, tạo định Thiên Thi, tận độ chúng sanh đắc qui Phật vị.

Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, tu trì, thính Ngã dục đắc chơn truyền, niệm thử Nhiên Ðăng Cổ Phật, thường du Ta bà Thế giới, giáo hóa chơn truyền, phổ tế chúng sanh, giải thoát lục dục thất tình, thoát đọa luân hồi, tất đắc giải thoát.

DỊCH NGHĨA:

Từng Trời Hư Vô Thiên ở trên cao, có:

- Tiếp Dẫn Phật,
- Phổ Tế Phật,
- Tây Qui Phật,
- Tuyển Kinh Phật,
- Tế Pháp Phật,
- Chiếu Duyên Phật,
- Phong Vị Phật,
- Hội Chơn Phật,


Như vô số các vị Phật ở các cấp, tuân theo mệnh lệnh của Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật, dẫn dắt và cứu giúp các Chơn linh, đạt được Pháp, đạt được Phật vị, có được duyên, có được ngôi vị, đạt phẩm vị Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, chứng được quả vị, nhập vào cõi Cực Lạc Thế Giới, hiệp với chư Phật các cấp, sắp đặt làm ra Thiên thơ, cứu giúp toàn cả chúng sanh được trở về ngôi vị Phật.

Nếu như người Nam lành, người Nữ lành, gìn giữ việc tu hành, nghe theo Ta, muốn được chơn truyền, hãy niệm thế nầy: Nam mô Nhiên Ðăng Cổ Phật, thường đi du hành đến các cõi trần, giáo hóa giáo lý chơn thật, giúp đỡ chúng sanh khắp nơi, giải thoát khỏi Lục dục và Thất Tình, thoát khỏi sự đọa đày vào vòng luân hồi, ắt được giải thoát.


CHÚ THÍCH

Hư Vô Cao Thiên: Từng Trời Hư Vô Thiên ở trên cao. Ðây là từng Trời thứ 10, kế bên trên Cửu Trùng Thiên, dưới quyền chưởng quản của Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật.
Như thị: Như thế, như là.
Ðẳng: Cấp bực. Như thị đẳng chư Phật: Như các vị Phật ở trong các cấp.
Hằng hà: Sông Hằng (sông Gange) ở Ấn Ðộ.
Sa số: Số hột cát.
Hằng hà sa số: Số hột cát của sông Hằng, ý nói số lượng nhiều lắm, như cát sông Hằng, không thể đếm hết được.
Dẫn độ: Dẫn dắt và cứu giúp.
Ðắc Pháp: Ðạt được Pháp, tức là biết rõ Thể pháp và Bí pháp của Ðạo.
Ðắc Phật: Ðạt được phẩm vị Phật.
Ðắc duyên: Duyên là mối dây ràng buộc được định sẵn từ trước. Ðắc duyên là có được cái duyên với Phật.
Ðắc vị: Ðạt được ngôi vị.
Nhập: Ði vào.
Cực Lạc quốc: Nước Cực Lạc, ý nói cõi Cực Lạc Thế Giới, cõi Cực Lạc Niết Bàn hay cõi Tây phương Cực Lạc.
Hiệp chúng đẳng chư Phật: Hợp với nhiều cấp bực của các vị Phật, tức là hợp với nhiều vị Phật ở nhiều đẳng cấp cao thấp khác nhau. Tạo định: Sắp đặt làm ra. Ðịnh là sắp đặt.
Thiên Thi: Thi tức là Thơ, Thơ là sách. Thiên Thi là quyển sách của Trời, dùng để ghi chép Thiên điều, tức là ghi chép các luật pháp của Trời, điều hành sự vận chuyển Càn Khôn Vũ Trụ và sự tiến hóa của vạn vật. Thiên điều do chư Phật và chư Tiên họp Ðại Hội tại Ngọc Hư Cung bàn định lập ra. Ngọc Hư Cung ở trong từng Trời Hư Vô Thiên.
Thiện nam tử: Người Nam lành. Tử là người. Nam tử là chỉ đàn ông con trai.
Thiện nữ nhân: Người Nữ lành. Nhân là người. Nữ nhân là chỉ đàn bà con gái.
Tu trì: Trì là gìn giữ. Tu trì là gìn giữ sự tu hành.
Dục đắc: Muốn được. Dục là muốn, đắc là được.
Chơn truyền: Giáo lý chơn thật được truyền lại của một nền tôn giáo, mà nếu ai tu đúng theo đó thì chắc chắn đắc đạo.
Niệm: Ðọc nho nhỏ vừa đủ nghe.
Thử: Thế ấy, thế nầy. Niệm thử là niệm như thế nầy.
Nhiên Ðăng Cổ Phật: là vị Phật đầu tiên trong Càn Khôn Vũ Trụ, được sanh ra vào thời Hỗn Ðộn, là Giáo chủ Phật giáo thời Nhứt Kỳ Phổ Ðộ, hiện chưởng quản từng Trời Hư Vô Thiên.
Thường du Ta bà Thế giới: Luôn luôn du hành đến các cõi trần.
Giáo hóa: Dạy cho biến đổi từ dốt ra biết chữ, từ xấu biến đổi thành tốt.
Phổ tế: Phổ là bày rộng ra khắp nơi, tế là giúp đỡ. Phổ tế là giúp đỡ chúng sanh khắp nơi.
Lục dục: 6 điều ham muốn của con người nơi cõi trần: - Sắc dục (Ham muốn sắc đẹp), - Thinh dục (Ham muốn âm thanh êm tai), - Hương dục (Ham thích mùi thơm), - Vị dục (Ham thích ăn ngon), - Xúc dục (Ham muốn xác thân mát mẻ sung sướng), - Ý dục (Ham muốn ý nghĩ được thỏa mãn).
Thất Tình: 7 thứ tình cảm của con người: - Hỷ (mừng), - Nộ (giận), - Ái (thương), - (ghét), - Ai (buồn), - Lạc (vui), - Dục (muốn).
Thoát đọa luân hồi: Thoát khỏi sự đày đọa vào vòng luân hồi sanh tử, nghĩa là đắc đạo thành Tiên Phật.

TẠO HÓA HUYỀN THIÊN HỮU

- Quảng Sanh Phật,
- Dưỡng Dục Phật,
- Chưởng Hậu Phật,
- Thủ Luân Phật,
- dữ Cửu Vị Nữ Phật,

Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, tùng lịnh Kim Bàn Phật Mẫu, năng tạo năng hóa vạn linh, năng du Ta bà Thế giới, dưỡng dục quần sanh, qui nguyên Phật vị.

Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, thính Ngã dục tu phát nguyện: Nam mô Kim Bàn Phật Mẫu dưỡng dục quần linh, nhược hữu sanh, nhược vị sanh, nhược hữu kiếp, nhược vô kiếp, nhược hữu tội, nhược vô tội, nhược hữu niệm, nhược vô niệm, huờn hư thi hình đắc A-Nậu Ða-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Ðề, xá lợi tử qui nguyên Phật vị, tất đắc giải thoát.

DỊCH NGHĨA:

Từng Trời Tạo Hóa Thiên huyền diệu có:

- Quảng Sanh Phật,
- Dưỡng Dục Phật,
- Chưởng Hậu Phật,
- Thủ Luân Phật,
- cùng với Cửu vị Nữ Phật,

Như vô số các vị Phật ở các cấp, tuân theo mệnh lệnh của Ðức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn DTC, có khả năng tạo hóa ra vạn linh, có khả năng du hành đến các cõi trần, để nuôi dưỡng chúng sanh, trở về nguồn cội là ngôi vị Phật.

Nếu như có người Nam lành, người Nữ lành, nghe lời Ta, muốn tu hành thì phát ra lời nguyện: Nam mô Kim Bàn Phật Mẫu, nuôi dưỡng vạn linh, nếu như có sanh ra, nếu như chưa sanh ra, nếu như có kiếp sống, nếu như không kiếp sống, nếu như có tội, nếu như không tội, nếu như có lòng tưởng niệm, nếu như không lòng tưởng niệm, trở lại cõi Hư Vô, thi hành đúng theo khuôn phép, được phẩm vị Vô Thượng Chánh đẳng Chánh giác, Chơn thần trở về nguồn cội là ngôi vị Phật, ắt được giải thoát.

CHÚ THÍCH

Tạo Hóa Huyền Thiên: Từng Trời Tạo Hóa Thiên huyền diệu. Ðây là từng thứ 9 cao nhất của Cửu Trùng Thiên, dưới quyền chưởng quản của Ðức Phật Mẫu.

Dữ (chữ Hán) Cùng với.

Cửu Vị Nữ Phật: Cửu Vị Tiên Nương nơi DTC, nhờ công quả phổ độ và giáo hóa các Chức sắc Ðại Thiên Phong trong buổi đầu khai Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ nên đã được thăng lên hàng Phật vị, gọi là Cửu Vị Nữ Phật. (Ðây là cách hiểu thông thường theo 5 nấc thang tiến hóa của Chơn linh, đạt được phẩm vị Tiên rồi mới tiến lên phẩm vị Phật).

Kim Bàn Phật Mẫu: Kim Bàn hay Kim Bồn là cái bồn bằng vàng đặt tại DTC chứa các nguyên chất để Ðức Phật Mẫu tạo Chơn thần cho toàn cả vạn linh. Ðức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn nên gọi là Kim Bàn Phật Mẫu.

Năng tạo năng hóa: Có đầy đủ khả năng tạo hóa ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật. Quần sanh: Ðồng nghĩa với chúng sanh. Quần là nhiều người tụ họp đông đảo.

Qui nguyên Phật vị: Trở về nguồn cội là ngôi vị Phật.

Dục tu phát nguyện: Dục tu là muốn tu hành, Phát nguyện là nói ra lời ước nguyện. Dục tu phát nguyện là muốn tu hành nên phát ra lời nguyện. Nếu làm tròn được lời nguyện nầy thì sẽ đạt được phẩm vị cao trọng nơi cõi thiêng liêng.

Quần linh: Quần là nhiều người tụ họp đông đảo, linh là Chơn linh. Quần linh đồng nghĩa với Vạn linh, tất cả các Chơn linh trong Càn Khôn Vũ Trụ. Vị sanh: Chưa sanh ra. Vị là chưa.

Huờn Hư: Huờn, do chữ Hoàn nói trại ra, Hoàn là trở lại, trả lại. Hư là trống không, chỉ cõi Hư Vô, là cõi xem như trống không nhưng rất mầu nhiệm vì từ cái Không nầy mà sản xuất ra cái Có. Huờn Hư là trở lại cõi Hư Vô, tức là đắc đạo.

Thi hình: Thi là bày đặt ra, thi hành; hình là cái khuôn bằng đất để đúc đồ vật, chỉ khuôn phép. Thi hình là thi hành khuôn phép tức là áp dụng đúng các giới luật tu hành.

Xá lợi tử: Tử là cái hột. Xá lợi tử là hột Xá lợi. Ðây là từ ngữ đặc biệt được dùng trong Phép Luyện đạo, để chỉ cái Chơn thần của người tu đắc đạo. Trong phép Luyện đạo, khi đã luyện được Tinh Khí Thần hiệp nhứt thì tạo được Chơn thần huyền diệu, đắc đạo thành Tiên, Phật. Cái Chơn thần nầy được các nhà tôn giáo gọi bằng nhiều danh từ khác nhau, như Tiên giáo thì gọi nó là Kim đơn, Thánh thai; Phật giáo thì gọi nó là Mâu Ni Châu, Xá lợi tử, Bổn lai diện mục.

PHI TƯỞNG DIỆU THIÊN HỮU

- Ða Pháp Phật,
- Tịnh Thiện Giáo Phật,
- Kiến Thăng Vị Phật,
- Hiển Hóa Sanh Phật,
- Trục Tà Tinh Phật,
- Luyện Ðắc Pháp Phật,
- Hộ Trì Niệm Phật,
- Khai Huyền Cơ Phật,
- Hoán Trược Tánh Phật,
- Ða Phúc Ðức Phật,

Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, tùng lịnh Từ Hàng Bồ Tát, năng du Ta bà Thế giới, thi pháp hộ trì vạn linh sanh chúng.

Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, tín Ngã ưng đương phát nguyện: Nam mô Từ Hàng Bồ Tát, năng cứu tật bịnh, năng cứu tam tai, năng độ tận chúng sanh thoát ư tứ khổ, năng trừ tà ma, năng trừ nghiệt chướng, tất đắc giải thoát.

DỊCH NGHĨA:

Từng Trời Phi Tưởng Thiên huyền diệu có:

- Ða Pháp Phật,
- Tịnh Thiện Giáo Phật,
- Kiến Thăng Vị Phật,
- Hiển Hóa Sanh Phật,
- Trục Tà Tinh Phật,
- Luyện Ðắc Pháp Phật,
- Hộ Trì Niệm Phật,
- Khai Huyền Cơ Phật,
- Hoán Trược Tánh Phật,
- Ða Phúc Ðức Phật,

Như vô số các vị Phật ở các cấp, tuân theo mạng lịnh của Ðức Từ Hàng Bồ Tát, có khả năng du hành đến các cõi trần, thi hành các pháp thuật huyền diệu để che chở, gìn giữ vạn linh và chúng sanh trong Càn Khôn Vũ Trụ.

Nếu như có người Nam lành, người Nữ lành, tin theo Ta, thì phải phát ra lời nguyện: Nam mô Từ Hàng Bồ Tát, có khả năng cứu được bịnh tật, có khả năng cứu được 3 tai họa lớn, có khả năng tận độ chúng sanh, thoát khỏi nơi Tứ khổ, có khả năng trừ diệt tà ma, có khả năng trừ diệt các nghiệt chướng, ắt được giải thoát.


CHÚ THÍCH

Phi Tưởng Diệu Thiên: Diệu là khéo léo, huyền diệu. Phi Tưởng Diệu Thiên là từng Trời Phi Tưởng Thiên huyền diệu. Ðây là từng Trời thứ 8 trong Cửu Trùng Thiên, dưới quyền chưởng quản của Ðức Từ Hàng Bồ Tát.

Ðức Từ Hàng Bồ Tát có đầy đủ công đức đắc thành vị Phật cao siêu, nhưng Ngài chưa muốn ngự lên ngôi vị Phật, mà muốn làm một vị Bồ Tát để cứu độ chúng sanh.

Thi pháp: Thi là sắp đặt bày ra, thi hành; Pháp là pháp thuật huyền diệu của Phật. Thi pháp là thi hành các pháp thuật huyền diệu để hộ trì người tu hành. Hộ trì: Hộ là che chở giúp đỡ, trì là gìn giữ. Hộ trì là che chở giúp đỡ và gìn giữ.

Vạn linh Sanh chúng: Vạn linh là toàn thể các Chơn linh trong Càn Khôn Vũ Trụ, gồm đủ Bát hồn. Sanh chúng hay Chúng sanh là toàn thể các loài sanh vật trong Càn Khôn Vũ Trụ, gồm: Thảo mộc, Côn trùng, Thú cầm và Nhơn loại. Vạn linh đầu kiếp xuống trần làm chúng sanh, nên trong Chúng sanh có đủ Bát hồn đầu kiếp vào để học hỏi và tiến hóa.

Ưng đương: Thì phải, nên phải.

Ðộ tận: Tận độ, cứu giúp toàn cả nhơn sanh, không chừa sót một người nào. Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ là cơ quan tận độ chúng sanh trong thời mạt kiếp nầy.

Thoát ư Tứ khổ: Thoát là ra khỏi, Ư là ở tại, Tứ khổ là 4 thứ đau khổ mà con người nơi cõi trần phải gánh chịu: Sanh, Lão, Bệnh, Tử. Ðức Phật Thích Ca giải rõ Tứ khổ trong Tứ Diệu Ðế, giáo pháp căn bản của Phật giáo. Thoát ư Tứ Khổ là thoát ra khỏi nơi có 4 cái khổ, tức là thoát khỏi cõi trần, thoát đọa luân hồi, tất được giải thoát, trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

HẠO NHIÊN PHÁP THIÊN HỮU

- Diệt Tướng Phật,
- Ðệ Pháp Phật.
- Diệt Oan Phật,
- Sát Quái Phật,
- Ðịnh Quả Phật,
- Thành Tâm Phật,
- Diệt Khổ Phật,
- Kiên Trì Phật,
- Cứu Khổ Phật,
- Xá Tội Phật,
- Giải Thể Phật,

Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, tùng lịnh Chuẩn Ðề Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, thường du Ta bà Thế giới, độ tận vạn linh.

Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, tín Ngã ưng đương phát nguyện: Nam mô Chuẩn Ðề Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, năng trừ ma chướng quỉ tai, năng cứu khổ ách nghiệt chướng, năng độ chúng sanh qui ư Cực Lạc, tất đắc giải thoát.

GHI CHÚ: Tụng đến đây thì niệm danh mỗi vị Phật, lạy xuống 1 lạy không gật. Tất cả có 53 lần niệm, lạy 53 lạy. Tiếp theo tụng Câu Chú của Thầy 3 lần, cầu nguyện, xong lạy xuống 3 lạy, mỗi lạy 4 gật, mỗi gật niệm Câu Chú của Thầy.

DỊCH NGHĨA:

Từng Trời Hạo Nhiên Thiên coi về Pháp luật, có:

- Diệt Tướng Phật,
- Ðệ Pháp Phật.
- Diệt Oan Phật,
- Sát Quái Phật,
- Ðịnh Quả Phật,
- Thành Tâm Phật,
- Diệt Khổ Phật,
- Kiên Trì Phật,
- Cứu Khổ Phật,
- Xá Tội Phật,
- Giải Thể Phật,

Như vô số các vị Phật ở các cấp, tuân theo mạng lịnh của Ðức Chuẩn Ðề Bồ Tát và Ðức Phổ Hiền Bồ Tát, thường đi du hành đến các cõi trần cứu giúp toàn cả vạn linh.

Nếu như có người Nam lành, người Nữ lành, tin theo Ta, thì phải phát ra lời nguyện: Nam mô Chuẩn Ðề Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, có khả năng trừ diệt sự ngăn trở của ma và các tai nạn do quỉ gây ra, có khả năng cứu giúp các tai nạn khổ sở và các nghiệt chướng, có khả năng cứu giúp chúng sanh trở về nơi Cực Lạc Thế Giới, ắt được giải thoát.


CHÚ THÍCH

Hạo Nhiên Pháp Thiên: Từng Trời Hạo Nhiên Thiên coi về Pháp luật, có "Cung Chưởng Pháp xây quyền Tạo Hóa". Ðây là từng Trời thứ 7 trong Cửu Trùng Thiên, dưới quyền chưởng quản của 2 vị Bồ Tát: Ðức Chuẩn Ðề Bồ Tát và Ðức Phổ Hiền Bồ Tát.

Hai vị Bồ Tát nầy, cũng như Ðức Từ Hàng Bồ Tát, là những Ðấng có đầy đủ công đức thành những vị Phật cao siêu, nhưng quí Ngài chưa muốn ngự lên ngôi vị Phật, mà muốn làm một vị Bồ Tát để đem lòng từ bi cứu giúp toàn cả chúng sanh nơi cõi trần.

Ma chướng: Chướng là sự ngăn trở che lấp. Ma chướng là sự ngăn trở che lấp của tà ma.

Quỉ tai: Tai nạn do loài quỉ gây ra.

Ma và Quỉ luôn luôn tìm cách phá hại người tu, làm cho người tu nãn lòng mà quay gót trở về thế tục. Người tu phải xem đó là những thử thách để đánh giá trình độ tu hành. Nếu thắng được ma chướng quỉ tai thì mới có thể đắc đạo, đạt được ngôi vị nơi cõi Thiêng liêng.

Qui ư Cực Lạc: Qui là trở về, ư là ở tại, nơi; Cực Lạc là chỉ Cực Lạc Thế Giới. Qui ư Cực Lạc là trở về cõi Cực Lạc Thế Giới, tức là đắc đạo, đạt được ngôi vị nơi cõi Cực Lạc Thế Giới.
Kinh Sám Hối

Kinh Sám Hối

I. Nguồn gốc bài Kinh Sám Hối:

Kinh Sám Hối được các Ðấng Tiện, Phật giáng cơ ban cho Minh Lý Ðạo (Tam Tông Miếu), kể từ ngày 27-3-Ất Sửu (dl 19-4-1925) cho đến ngày mùng 6-10-Ất Sửu (dl 21-11-1925) mới dứt kinh. Thời gian giáng cơ cho Kinh kéo dài hơn 7 tháng. Các Ðấng giáng cơ cho Kinh là: Ðức Thái Thượng Lão Quân, Ðức Quan Âm Bồ Tát, Ðức Nam Cực Chưởng Giáo, Ðức Quan Thánh Ðế Quân, Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật, Ðức Tây Ba Ðế Quân, Ðức Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, Ðức Khổng Thánh Tiên Sư, Thập Ðiện Minh Vương, Ðức Lữ Tổ, Ðức Alfred Aya, Ðức Vân Trung Tử.

Mỗi vị giáng cơ ban cho một đoạn kinh, cứ nối tiếp theo hoài cho đến khi dứt kinh.

Ngay sau khi dứt Kinh Sám Hối, Ðức Ðông Phương Lão Tổ (biệt hiệu của Ðức Thái Thượng Ðạo Quân) giáng tiếp ban cho Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối. Ấy là trọn vẹn.

Ông Âu Minh Chánh, vị sáng lập Minh Lý Ðạo (Tam Tông Miếu) có viết thuật lại như sau (ngày viết 10-6-Ðinh Mão, dl 8-7-1925):

"Một khi kia, đến cầu kinh giùm một người bằng hữu thọ bịnh tại Thủ Thiêm, có Ðức Thái Thượng Lão Quân giáng xuống mà cho một khoản đầu KINH SÁM HỐI.

Sau lần lần, mỗi khi cúng, có Tam Giáo Ðạo Chủ hoặc là chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần, hoặc là Thập Ðiện Minh Vương giáng đàn cho tiếp Kinh Sám Hối.

Cũng tưởng rằng Thần Tiên cho kinh đó đặng làm phước giúp người mà thôi, không dè Ðức Văn Tuyên Vương giáng dạy chúng tôi phải kiếm một cảnh chùa đặng ngày sóc vọng đến đó dưng hương và Sám Hối."

Khi mới khai Ðạo Cao Ðài, Ðức Chí Tôn dạy Phật giáo và 5 Chi Minh Ðạo dâng Kinh cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Do đó, Hội Thánh cử phái đoàn gồm Ðức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung, Thượng Giáo Sư Vương quan Kỳ, Ðức Phạm Hộ Pháp và Ðức Cao Thượng Phẩm đến Minh Lý Ðạo thỉnh bài Kinh nầy về làm Kinh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Lúc đó Kinh Sám Hối được gọi là Kinh NHƠN QUẢ.

II. Nội dung Kinh Sám Hối.

Kinh Sám Hối gồm 444 câu thơ song thất lục bát, là một áng văn chương tuyệt tác siêu phàm, và đó cũng là một công trình tập thể của nhiều Ðấng Phật, Tiên, Thánh, trong Tam Giáo, nhất là có sự tham dự của Thập Ðiện Diêm Vương nơi cõi Ðịa Ngục.

Nhờ bài Kinh Sám Hối nầy, nhơn sanh biết được trong thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ, những người hung ác nơi cõi trần, khi chết, linh hồn và chơn thần bị Quỉ sứ bắt giam vào Ðịa ngục, chịu những hình phạt vô cùng thảm khốc để đền bù tội lỗi.

Nhưng khi Ðức Chí Tôn mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ vào năm Bính Dần (1926), là kỳ Phổ Ðộ chót để tận độ chúng sanh trước khi Tận Thế, mở Ðại Hội Long Hoa, chấm dứt một chu kỳ tiến hóa của nhơn loại, chuyển qua thời kỳ Thánh đức, Ðức Chí Tôn đại khai Ân xá cho các đẳng linh hồn, đóng cửa Ðịa Ngục, giải phóng các tội hồn, cho đi đầu thai trả quả.

Ðức Chí Tôn có hứa với Ðức Phạm Hộ Pháp là ngày giờ nào Ðức Phạm Hộ Pháp thoát xác, trước khi trở về cõi TL, Ðức Hộ Pháp sẽ đi qua cõi Ðịa ngục để giải phóng các chơn hồn oan khúc tội tình đặng cho họ, hoặc siêu thăng, hoặc đi đầu thai trả quả. (Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp, Con đường Thiêng Liêng Hằng Sống, trang 124).

Ðức Phạm Hộ Pháp thoát xác qui Thiên vào ngày 10-4-Kỷ Hợi [1959]. Như thế, cõi Ðịa ngục được hoàn toàn đóng cửa vào năm nầy. Từ đây trở về sau, các hồn tội lỗi được đưa đến cõi Âm Quang để học đạo và tịnh tâm xét mình, có Ðịa Tạng Vương Bồ Tát giáo hóa các Nam tội hồn và Thất Nương DTC giáo hóa các Nữ tội hồn.

III. Chú thích Kinh Sám Hối.

Trong phần chú thích các từ ngữ khó trong Kinh Sám Hối, soạn giả có đối chiếu bản Kinh Sám Hối in trong Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo do Hội Thánh ấn hành, với bản Kinh Nhơn Quả, in trong quyển Kinh Cúng Tứ Thời cũng do Hội Thánh ấn hành vào năm 1928, và bản Kinh Sám Hối của Minh Lý Ðạo in năm 1973, để điều chỉnh cho đúng chánh tả một vài từ ngữ cho hợp với nghĩa lý của câu Kinh, và soạn giả có ghi trong phần KHẢO DỊ.

Viết Tắt Trong KHẢO DỊ
  • Kinh TĐ-TĐ: Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo.
  • KSH. LMD: Kinh Sám Hối của Minh Lý 1973.
  • Kinh NQ: Kinh Nhơn Quả in năm 1928.

KINH SÁM HỐI

(Giọng Nam xuân)
CHÁNH VĂN

1. Cuộc danh lợi là phần thưởng quí,
Ðấng Hóa Công xét kỹ ban ơn.
Lòng đừng so thiệt tính hơn,
Ngày đêm than thở dạ hờn ích chi.
5. Người sang cả là vì duyên trước,
Kẻ không phần luống ước cầu may.
Sang giàu chẳng khác như mây,
Khi tan khi hiệp đổi xây không thường.

CHÚ THÍCH

SÁM HỐI: Sám là ăn năn những lỗi lầm đã qua và thật lòng muốn sửa đổi, quyết không tái phạm; Hối là tự giận mình đã làm điều sái quấy. Sám hối là ăn năn và tự giận mình về những lỗi lầm do mình gây ra, tự nguyện sửa đổi, quyết không tái phạm.

Sách Nho định nghĩa Sám Hối là: "Sám giả sám kỳ tiền khiên, Hối giả hối kỳ hậu quá." Nghĩa là: Sám là ăn năn lỗi trước, Hối là chừa bỏ lỗi sau.

Hội Thánh có dặn rằng: "Kinh Sám Hối nầy nên tụng ngày Sóc Vọng, còn ngày thường lỡ có lầm lỗi điều chi, phải tụng mà xin tội."
Danh lợi: Danh là tiếng tăm, lợi là lợi lộc. Danh lợi là tiếng tăm và lợi lộc. Ðó là 2 thứ mà người đời rất ham thích, muốn đoạt lấy về cho mình càng nhiều càng tốt.
Cuộc danh lợi: Việc danh và lợi trong cuộc sống.
Hóa công: Hóa là tạo hóa, Công là người thợ. Hoá công là ông Thợ Tạo Hóa, tạo ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật. Ðó là Ông Trời, là Ðấng Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế.
So thiệt tính hơn: So sánh hơn kém, tính toán lợi hại.
Sang cả: Sang là cao quí, cả là lớn, nhiều. Sang cả là sang trọng lắm, vẻ vang lắm.
Duyên trước: Chữ Hán là Tiền duyên, duyên là mối dây ràng buộc được định sẵn từ trước. Duyên trước là mối dây được dịnh sẵn từ kiếp trước. Nếu kiếp trước mình làm điều lương thiện đạo đức thì tạo được Duyên lành, khiến cho đời sống hiện tại được giàu sang vinh hiển hạnh phúc.
Không phần: Chữ Hán là Vô phần, Phần là cái số phận mà Trời định sẵn cho mình. Vô phần hay Không phần là số phận bạc bẽo, vất vả, đau đớn ê chề. Nói là Trời định, chớ thật ra cái Nghiệp của mình định cho mình. Trời lập ra Luật Nhơn Quả, và cầm Cây Cân Công Bình thiêng liêng giữ cho sự báo ứng được đúng phép công bình.
Luống: Nhiều lần.
Luống ước: Mong ước nhiều lần.
Cầu may: Mong cầu được may mắn.

Hai câu 7-8: Sự giàu sang không bền bỉ, nó chẳng khác gì một đám mây trên bầu Trời, khi tan khi tụ rất mau chóng, không chừng mực.

Muốn cho sự giàu sang được bền bĩ thì phải biết dùng tiền bạc bố thí, giúp đỡ người hoạn nạn nghèo khổ và làm những việc công đức khác như làm cầu, sửa đường, cất trường học, xây chùa, thì sẽ tạo được phước lành, hưởng được quả lành về sau.
CHÁNH VĂN

9. Việc sanh tử như đường chớp nhoáng,
Bóng quang âm ngày tháng dập dồn.
Giữ cho trong sạch linh hồn,
Rèn lòng sửa nết, đức tồn hậu lai.
13. Ðiều họa phước không hay tìm tới,
Tại mình vời nên mới theo mình.
Cũng như bóng nọ tùy hình,
Dữ lành hai lẽ công bình thưởng răn.

CHÚ THÍCH

Việc sanh tử: Việc sống chết, chỉ một đời sống của con người từ lúc sanh ra cho đến lúc chết.
Ðường chớp nhoáng: Ðường sáng răng cưa nhìn thấy trên bầu Trời do sấm sét gây ra, chỉ hiện ra trong giây lát rồi tắt.
Ý nói: Khoảng thời gian rất ngắn.
Bóng quang âm: Chỉ ngày và đêm. Bóng là ánh sáng, quang là sáng [ngày], âm là tối [đêm]. Dập dồn: Dồn dập.
Trong sạch linh hồn: Linh hồn trong sạch trong một Chơn thần trong sạch, Chơn thần trong sạch trong một thể xác trong sạch. Muốn thể xác trong sạch thì phải giữ cho thân, khẩu, ý trong sạch, và phải ăn chay trường.
Ðức tồn hậu lai: Cái đức tồn tại lâu dài về sau.
Bóng nọ tùy hình: Cái hình thế nào thì cái bóng hiện ra thế ấy, ý nói: Nhơn nào thì quả nấy, không hề sai chạy.

- Kinh Sám Hối của Minh Lý 1973:

  • Tại mình vời.
- Kinh Nhân Quả , Kinh Lễ, Kinh Thiên Đạo Và Thế Đạo 1936, 1968, 1974:
  • Tại mình dời.
Vời: Mời đến, triệu đến. Dời: Ðổi chỗ khác.

KHẢO DỊ-
CHÁNH VĂN

17. Khi vận thới lung lăng chẳng kể,
Lúc suy vi bày lễ khẩn cầu.
Sao bằng ở phải buổi đầu,
Thần minh chánh trực có đâu tư vì.
21. Người làm phước có khi mắc nạn,
Kẻ lăng loàn đặng mạng giàu sang.
Ấy là nợ trước còn mang,
Duyên kia chưa dứt còn đang thưởng đền.

CHÚ THÍCH

Vận thới: Vận là thời vận, thới hay thái là hanh thông thịnh vượng. Vận thới là thời vận hanh thông, thịnh vượng.
Suy vi: Suy là kém sút dần, vi là thấp hèn. Suy vi là sa sút đến độ nghèo nàn, thấp hèn.
Bày lễ khẩn cầu: Ðem lễ vật bày ra cúng để cầu khẩn Thần linh.
Ở phải: Ăn ở đúng theo lẽ phải, đạo đức.
Thần minh: Vị Thần sáng suốt.
Chánh trực: Ngay thẳng.
Tư vì: Tư vị, thiên lệch.
Lăng loàn: Có hành vi hỗn xược, không tùng phép tắc.

Câu 21-22: Người làm phước có khi mắc nạn là vì việc làm phước trong kiếp hiện tại chưa đủ để đền trả những oan nghiệt đã gây ra trong kiếp trước. Không phải vì làm phước mà mắc nạn. Nếu người đó không làm phước thì tai nạn còn dồn dập tới nhiều hơn nữa, nhờ làm phước như vậy nên tai nạn mới giảm bớt và còn như thế đó.

Kẻ lăng loàn đặng mạng giàu sang, là vì cái phước đức của nó ở kiếp trước còn, chừng nào phước đức ấy hết thì nó sẽ suy sụp thê thảm. Ðừng nghĩ rằng vì nó lăng loàn mà được giàu sang. Luật Nhơn quả không bao giờ sai chạy.
CHÁNH VĂN

25. Nếu vội trách người trên thì đọa,
Cũng có khi tai họa trả liền.
Ðó là báo ứng nhãn tiền,
Mau thì mình chịu, lâu truyền cháu con.
29. Lo danh vọng hao mòn thân thể,
Ham làm giàu của để bằng non.
Một mai nhắm mắt đâu còn.
Ðem vàng chuộc mạng đổi lòn đặng chăng.

CHÚ THÍCH

Người trên: Người ở bực cao hơn mình, ở đây chỉ các Ðấng Thiêng liêng.
Ðọa: Ðày xuống chỗ thấp kém khổ sở.
Báo ứng nhãn tiền: Báo ứng là báo đáp lại, nhãn tiền là trước mắt nghĩa là xảy ra liền, thấy trước mắt. Báo ứng nhãn tiền là báo đáp lại liền, xảy ra ngay trước mắt.

Câu 28: Sự báo ứng xảy ra nhanh thì mình chịu, còn xảy ra lâu, qua kiếp khác thì con cháu mình phải đền trả.

Danh vọng: Danh là tiếng tăm, vọng là ngưỡng mộ. Danh vọng là có tiếng tăm được nhiều người ngưỡng mộ.

Câu 29: Muốn có danh vọng thì phải tính toán trăm phương ngàn kế, làm việc mất ăn mất ngủ mới tạo được, thân thể phải hao mòn, sức khỏe phải suy giảm.

Của để bằng non: Của cải, tiền bạc kiếm được nhiều chất lại thành đống lớn như núi.
Nhắm mắt: Chết.
Chuộc mạng: Ðem vàng bạc đổi lấy mạng sống.
Ðổi lòn: Hạ mình luồn cúi để cầu xin trao đổi.

Câu 31-32: Mai kia nhắm mắt chết rồi thì có đem vàng bạc lòn cúi chuộc lại mạng sống của mình đặng chăng?
CHÁNH VĂN

33. Trên đầu có bủa giăng Thần Thánh,
Xét xem người tánh hạnh dữ hiền.
Làm lành đặng hưởng phước duyên,
Trong lòng nham hiểm, lộc quyền giảm thâu.
37. Ðừng tính kế độc sâu trong dạ,
Mà gổ ganh oán chạ thù vơ.
Trái oan nào khác mối tơ,
Rối rồi không gỡ, bao giờ cho ra.

CHÚ THÍCH

Bủa giăng: Bủa là phân rộng ra các phía, giăng là kéo ra theo bề dài. Bủa giăng là bao phủ khắp nơi.

Câu 33: Trên đầu của mỗi người lúc nào cũng có chư Thần Thánh hiện diện đầy đủ khắp nơi để xem xét.

Phước duyên: Phước là điều may mắn tốt lành, Duyên là cái sức bổ trợ cho cái Nhân thành cái Quả. Phước duyên là điều may mắn tốt lành do việc làm lành báo đáp lại.
Nham hiểm: Ðộc ác một cách kín đáo, khó phát hiện ra được.

Câu 36: Ðối với người nham hiểm sâu độc thì chư Thần Thánh sẽ thâu lợi lộc và quyền hành cho giảm bớt lại.

Gổ ganh: Gây gổ vì ganh tỵ.
Oán chạ thù vơ: Thù oán bậy bạ, không có lý do chánh đáng.
Trái oan: Trái là món nợ, oan là thù giận. Trái oan là món nợ về thù giận. Mình vô cớ làm thiệt hại người thì người ta thù giận mình, mình mắc một món nợ oan nghiệt.

Hai câu 39-40: Oán thù nên gỡ, không nên kết, vì nó như sợi tơ, càng kết càng rối, càng gây thêm đau khổ và phiền não, rồi cứ oan oan tương báo, biết chừng nào mới dứt được.
CHÁNH VĂN

41. Thấy hình khổ dạ ta đâu nỡ,
Khuyên làm lành trừ đỡ tội căn.
Quấy rồi phải biết ăn năn,
Ở cho nhân hậu, chế răn lòng tà.
45. Hãy có dạ kỉnh già thương khó,
Chớ đem lòng lấp ngõ tài hiền.
Xót thương đến kẻ tật nguyền,
Ðỡ nâng yếu thế, binh quyền mồ côi.

CHÚ THÍCH

Hình khổ: Hình phạt khổ sở.
Dạ ta: Lòng dạ của ta.
Ðâu nỡ: Không thể ép lòng mà chịu được.
Tội căn: Tội lỗi đã gây ra trong kiếp trước. Căn là gốc rễ, chỉ những việc làm trong kiếp sống trước.
Nhân hậu: Nhân là lòng thương người mến vật, Hậu là dày dặn. Nhân hậu là lòng nhân từ dày dặn.
Chế răn: Kềm chế và dạy bảo cho biết điều sái quấy.
Lòng tà: Lòng dạ gian xảo, ham muốn bậy bạ.
Kỉnh già thương khó: Kính trọng người già cả, thương xót người nghèo khó.
Lấp ngõ tài hiền: Lấp ngõ là bít đường. Tài hiền là hiền tài, người có tài đức hơn người. Lấp ngõ tài hiền là chận đường không cho người tài giỏi tiến thân, vì sợ người đó làm lu mờ danh vọng của mình. Tứ Ðại Ðiều Qui có ghi: Chớ che lấp người hiền, đừng cậy quyền mà yểm tài người.
Tật nguyền: Tàn tật với mức độ lớn, như què, câm,đui.
Binh quyền mồ côi: Binh vực quyền lợi của kẻ mồ côi.
CHÁNH VĂN

49. Làm con phải trau giồi hiếu đạo,
Trước là lo trả thảo mẹ cha.
Lòng thành thương tưởng ông bà,
Nước nguồn cây cội mới là tu mi.
53. Giá trong sạch nữ nhi trượng tiết,
Giữ cho tròn trinh liệt mới mầu.
Ở sao đáng phận đạo dâu,
Thờ chồng tiết hạnh mới hầu gái ngoan.

CHÚ THÍCH

Hiếu đạo: Hiếu là hết lòng kính yêu và chăm sóc cha mẹ, đạo là đường lối mà con người có bổn phận phải gìn giữ và tuân theo. Hiếu đạo là nói về bổn phận làm con đối với cha mẹ: Làm con phải có lòng hiếu thảo.
Ðạo dâu: Bổn phận làm con dâu trong nhà chồng.
Nước nguồn cây cội: Cây có cội, nước có nguồn, con người có cha mẹ. Ý nói phải nhớ đến nguồn gốc của mình.
Tu mi: Tu là râu, mi là lông mày. Tu mi là râu mày, chỉ đàn ông con trai.
Giá trong sạch: Con gái có chồng phải giữ lòng trong sạch với chồng. Giá là con gái lấy chồng.
Nữ nhi: chỉ chung đàn bà con gái. Nhi là con trẻ.
Trượng tiết: Trượng là trọng, kính trọng; tiết là khí tiết, lòng dạ cứng cỏi ngay thẳng. Trượng tiết là tôn trọng cái tiết hạnh của mình.
Trinh liệt: Trinh là lòng ngay thẳng của vợ đối với chồng, liệt là cứng cỏi không chịu khuất.
Mầu: Tài giỏi và có tính cách cao siêu.
Mới mầu: Mới tài giỏi cao siêu.
Mới hầu: Mới mong.
CHÁNH VĂN

57. Ðừng có cậy giàu sang chẳng nể,
Không kiêng chồng, khi dể công cô.
Ấy là những gái hung đồ,
Xúi chồng tranh cạnh hồ đồ sân si.
61. Tánh ngoan ngạnh không vì cô bác,
Thói lăng loàn bạn tác khinh khi.
Ngày sau đọa chốn Âm Ty,
Gông kềm khảo kẹp, ích gì rên la.

CHÚ THÍCH

Kiêng: Nể sợ.
Công cô: Cha mẹ chồng. Công là cha chồng, cô là mẹ chồng.
Hung đồ: Bọn hung dữ. Ðồ là bọn.
Hồ đồ: Không hiểu rõ sự việc phải quấy mà hấp tấp giải quyết khiến nhiều người bất bình phẩn nộ.
Sân si: Sân là giận, si là mê muội. Sân si là giận dữ mê muội, mất khôn.
Ngoan ngạnh: Chữ Hán, ngoan là làm càn bậy, ngạnh là ngăn trở. Ngoan ngạnh là bướng bỉnh, càn bậy, không nghe lời khuyên dạy đúng đắn.
Tác: Tuổi tác.
Bạn tác: Bạn cùng lứa tuổi.
Âm Ty: Cơ quan ở cõi Âm phủ. Ty là một cơ quan.
Gông kềm khảo kẹp: Dùng gông mang vào cổ, dùng kềm kẹp tay chân, khảo tra hành hình các tội hồn ở Âm phủ.

- Kinh Sám Hối của Minh Lý 1973:

  • khi dể ông cô.
- Kinh Nhân Quả, Kinh Thiên Đạo-Thế Đạo 1936, 1968, 1974, 1975:
  • khi dể công cô.
Ông cô đồng nghĩa Công cô.
- Kinh Sám Hối của Minh Lý 1973, Kinh Nhân Quả, Kinh Thiên Đạo-Thế Đạo 1936, Kinh Lễ:
  • mồ đồ sân si.
- Kinh Thiên Đạo-Thế Đạo 1968, 1974, 1975:
  • hồ đồ sân si.
Hồ đồ đồng nghĩa Mồ đồ. Mồ đồ là từ ngữ xưa.

KHẢO DỊ-
CHÁNH VĂN

65. Người tai mắt đạo nhà khá giữ,
Nghĩa anh em cư xử thuận hòa.
Vẹn tròn đạo cả giềng ba,
Kính anh mến chị thì là phận em.
69. Trên thương dưới xét xem kẻ nhỏ,
Lúc lâm nàn chớ bỏ tránh xa.
Cũng là một gốc sanh ra,
Gồm bao nâng đỡ, ruột rà thương nhau.

CHÚ THÍCH

Người tai mắt: Người hiểu biết nhiều và có danh vọng.
Ðạo nhà: Phép tắc cư xử giữa những người trong gia đình.
Nghĩa anh em: Nghĩa là cách cư xử đúng theo đạo lý. Nghĩa anh em là cách cư xử giữa anh em ruột đúng đạo lý, tức là phải thương yêu đùm bọc và thuận hòa cùng nhau.
Ðạo cả: Mối đạo lớn của con người. Ðó là Nhơn đạo, vì Nhơn đạo là căn bản. Có làm tròn Nhơn đạo thì mới tầm lên Tiên đạo được. (Nhơn đạo bất tu, Tiên đạo viễn hỹ.) Theo Nho giáo, Nhơn đạo của người Nam gồm: Tam cang và Ngũ thường (Ba giềng và Năm hằng), Nhơn đạo của người phụ nữ gồm: Tam tùng và Tứ đức.
Giềng ba: Ba giềng, dịch chữ Tam cang.
Tam cang gồm: Quân thần cang [Giềng mối vua tôi], Phụ tử cang [Giềng mối cha con], Phu thê cang [Giềng mối vợ chồng].
Lâm nàn: Lâm là tới, nàn là tai nạn. Lúc lâm nàn là lúc tai nạn tới.

Câu 72: Anh em ruột thịt thì phải bao gồm việc thương yêu và trợ giúp nâng đỡ nhau.
CHÁNH VĂN

73. Người trung trực lo âu việc nước,
Hưởng lộc vua tìm chước an bang.
Chớ làm con giặc tôi loàn,
Thuế sưu đóng đủ, đừng toan kế tà.
77. Phận làm tớ thật thà trung tín,
Với chủ nhà trọn kính trọn ngay.
Áo cơm no ấm hằng ngày,
Của người châu cấp ơn dày nghĩa sâu.

CHÚ THÍCH

Trung trực: Trung là trung thành, trực là ngay thẳng. Trung trực là trung thành và ngay thẳng.
Nợ nước: Nghĩa vụ đối với quốc gia.
Hưởng lộc vua: Vua là biểu tượng của một nước. Hưởng lộc vua là hưởng lộc nước, tức là thọ hưởng quyền tước và lương bổng của quốc gia.
Tìm chước: Tìm ra kế hoạch.
An bang: An là yên ổn, bang là nước. An bang là làm cho nước được yên ổn thái bình.
Con giặc: Người dân làm giặc, chống lại nhà nước.
Tôi loàn: Làm quan mà dấy loạn, phản lại nhà nước.
Thuế sưu: Thuế là tiền phải đóng góp cho nhà nước để dùng vào công ích. Sưu là phần đóng góp bằng sức lực vào các công trình ích nước lợi dân, như đắp đê, làm đường, bắc cầu, làm thủy lợi,...
Toan: Có ý định.
Kế tà: Mưu kế gian xảo để làm hại người lợi mình.
Trung tín: Trung thành và tín nhiệm.
Châu cấp: Cấp cho đầy đủ, bảo đảm được cuộc sống.
CHÁNH VĂN

81. Ðừng gặp việc câu mâu biếng nhác,
Mà quên lời phú thác dặn dò.
Trước người giả bộ siêng lo,
Sau lưng gian trá, so đo tấc lòng,
85. Phải chừa thói loài ong tay áo,
Bớt học đòi khỉ dạo dòm nhà,
Gìn lòng ngay thẳng thật thà,
Nói năng minh chánh, lời ra phải nhìn.

CHÚ THÍCH

Biếng nhác: Nhác là làm biếng. Biếng nhác là lười biếng.
Phú thác: Phú là giao cho, thác là gởi gấm. Phú thác là giao cho và gởi gấm với lòng tin cậy.
Giả bộ: Làm ra bộ tịch như vậy, chớ không thực lòng.
Gian trá: Gian xảo và tráo trở.
So đo tấc lòng: Lòng dạ hẹp hòi, so sánh đo lường hơn thiệt từng ly từng tí.
Loài ong tay áo: Do thành ngữ: Nuôi ong tay áo, nghĩa là: Hễ nuôi con ong trong tay áo thì thế nào cũng bị ong chích.
Ý nói: Kẻ phản bội, ăn cơm chủ trở lại hại chủ.
Khỉ dạo dòm nhà: Do thành ngữ: Nuôi khỉ dòm nhà. Loài khỉ có tánh hay bắt chước một cách vô ý thức, thấy chủ nhà nhúm lửa nấu cơm, khi vắng chủ nhà, nó bắt chước xuống bếp nhúm lửa, làm lửa cháy lên, lan qua thành cháy nhà.

Khỉ dạo là chỉ chung loài khỉ vượn. Khỉ dạo dòm nhà là có ý nói: Cái tánh hay bắt chước vô ý thức rất tai hại.

Minh chánh: Trong sáng và ngay thẳng.
Lời ra phải nhìn: Ý nói: Phải giữ lời hứa, phải nhìn nhận lời nói của mình, không được nuốt lời.
CHÁNH VĂN

89. Chớ quyệt ngữ mà khinh kẻ dại
Ðừng gian mưu hãm hại người hiền.
Anh em bằng hữu kết nguyền,
Một lòng tin cậy, phải kiêng phải vì.
93. Chẳng thấy khó mà khi mà thị,
Gặp người giàu mà vị mà nâng.
Dầu khi gặp lúc gian truân,
Cũng đồng giúp ích, chớ đừng mặt ngơ.

CHÚ THÍCH

Quyệt ngữ: Quyệt là xảo trá, ngữ là lời nói. Quyệt ngữ là lời nói xảo trá, gian dối.
Gian mưu: Mưu kế gian xảo.
Hãm hại: Làm hại người bằng thủ đoạn ám muội.
Người hiền: Người có tài đức hơn người.
Bằng hữu: Bằng là bạn, hữu là bạn, Bằng hữu là bè bạn.
Kết nguyền: Kết chặt mối dây thân ái bằng lời thề.
Kiêng: Nể sợ.
: Nể nang.
Khó: Nghèo khổ.
Mà khi mà thị: Khi thị là lừa dối, khinh thường.
Vị: Nể nang.
Nâng: Tâng bốc, nịnh hót.

Hai câu 93-94: Nói về thói đời ham chuộng bạc tiền vật chất: Hễ thấy ai nghèo khổ thì khinh rẻ, thấy ai giàu có thì theo nịnh bợ. Ðừng làm như thế, bởi vì giá trị con người không phải do tiền bạc hay nghèo giàu, mà là do phẩm chất đạo đức và tài năng chơn thực.

Gian truân: Gian là khó khăn vất vả, truân là cực khổ. Gian truân là vất vả cực khổ.
Mặt ngơ: Ngó lơ làm như không hay biết, vì sợ hao tốn tiền bạc hay công sức giúp đỡ.
CHÁNH VĂN

97. Làm người phải kỉnh thờ Thần Thánh,
Giữ lời nguyền, tâm tánh tưởng tin.
Hễ là niệm Phật tụng kinh,
Rèn lòng sửa nết, khá in như nguyền.
101. Chừa thói xấu đảo điên trong dạ,
Muôn việc chi chẳng khá sai lời.
Dối người nào khác dối Trời,
Trời đâu dám dối, ra đời ngỗ ngang.

CHÚ THÍCH

Lời nguyền: Lời thề.
Tưởng tin: Tin tưởng.
Niệm Phật: Miệng thì đọc nho nhỏ vừa đủ nghe danh hiệu của chư Phật, còn tâm thì tưởng nghĩ tới chư Phật.
Khá in như nguyền: Phải làm cho đúng y như lời thề.
Ðảo điên: Thay đổi lung tung, tráo trở bất thường.

Câu 103: Dối người nào khác dối Trời. Sách Nho có câu: Khi nhơn tức khi tâm, nghĩa là: Lừa dối người tức là lừa dối cái Tâm của mình, mà Tâm là điểm Linh quang do Trời ban cho mỗi người, nên lừa dối người tức là lừa dối Trời. Mà lừa dối Trời có đặng chăng?

Ngỗ ngang: Ngỗ là ngạo ngược, ngang là bướng bỉnh. Ngỗ ngang đồng nghĩa với Ngỗ nghịch, nghĩa là bướng bỉnh, bất chấp lời khuyên dạy của bề trên.

- Kinh Nhân Quả, Kinh Lễ, Kinh Thiên Đạo-Thế Đạo 1936, 1968, 1974, 1975:

  • ra đời ngỗ ngang.
- Kinh Sám Hối của Minh Lý 1973:
  • há đời ngỗ ngang.

KHẢO DỊ-
CHÁNH VĂN

105. Chớ lầm tưởng trong hang vắng tiếng,
Mà dể duôi sanh biến lăng loàn.
Con người có trí khôn ngoan,
Tánh linh hơn vật, biết đàng lễ nghi.
109. Phải cho biết kỉnh vì trên trước,
Ðừng buông lời lấn lướt hồ đồ.
Thuận cùng chú bác cậu cô,
Bà con chòm xóm, ra vô khiêm nhường.

CHÚ THÍCH

Trong hang vắng tiếng: Ý nói nơi kín đáo vắng vẻ, không ai dòm ngó.
Dể duôi: Khi dể, xem thường.
Sanh biến: Gây ra điều bất thường không tốt đẹp.
Lăng loàn: Hỗn xược, không tùng theo khuôn phép.
Tánh linh hơn vật: Con người có tánh linh hơn vạn vật là vì con người có đủ Tam hồn: Sanh hồn, Giác hồn, Linh hồn. Thảo mộc chỉ có Sanh hồn, tiến lên Thú cầm thì có thêm một phần hồn nữa là Giác hồn, Thú cầm tiến hóa lên phẩm Nhơn loại thì có thêm một phần hồn nữa là Linh hồn. Linh hồn là điểm Linh quang của Ðức Chí Tôn ban cho, nhờ đó con người linh hơn vạn vật và có thể tu hành thành Tiên, Phật.
Lễ nghi: Lễ là cách bày tỏ ra ngoài lòng kính trọng, Nghi là hình thức tốt đẹp để tượng trưng cái Lễ. Lễ nghi là cách sắp đặt bên ngoài để bày tỏ lòng kính trọng.
Kỉnh vì trên trước: Kính trọng, nể nang người có địa vị cao hay tuổi tác lớn hơn mình. Buông lời: Nói ra mà không suy nghĩ cẩn thận. Bà con chòm xóm: Những người quen thân ở gần gũi trong xóm của mình.
CHÁNH VĂN

113. Thấy già yếu hẹp đường nhượng tránh,
Ðừng chỗ đông buông tánh quá vui.
Cợt người ra dạ dể duôi,
Sanh điều xích mích, đâu nguôi dạ hờn.
117. Khi tế tự chớ lờn chớ dể,
Việc quan hôn thủ lễ nghiêm trang.
Gìn lòng chẳng khá lăng loàn,
Lễ nghi vẹn giữ vững vàng chớ quên.

CHÚ THÍCH

Buông tánh: Buông là thả lỏng ra, không kềm giữ chặt chẽ. Buông tánh là để cho cái Tánh buông lung, không kềm giữ nó chặt chẽ thì dễ sanh ra điều sái quấy.
Cợt: Trêu ghẹo.
Xích mích: Va chạm lặt vặt sanh ra phiền lòng.
Ðâu nguôi dạ hờn: Không làm giảm bớt lòng hờn giận.
Tế tự: Tế là dâng phẩm vật lên cúng với thể thức long trọng, Tự là thờ cúng.Tế tự là chỉ chung việc tế lễ và thờ cúng.
Chớ lờn chớ dể: Không được vô lễ, không được khinh thường.
Quan hôn: Quan là cái mũ. Lễ Gia Quan là lễ đội mũ cho con trai khi đến tuổi trưởng thành, đúng 20 tuổi. Lễ nầy được thực hiện trong các gia đình Nho giáo thuở xưa, nay đã bãi bỏ. Hôn là việc cưới vợ gả chồng. Quan hôn là chỉ chung việc Quan Hôn Tang Tế.
Thủ lễ: Giữ gìn phép tắc cư xử.

- Kinh Sám Hối của Minh Lý 1973, Kinh Nhân Quả, Kinh Lễ, Kinh Thiên Đạo-Thế Đạo 1936:

  • Sanh điều chích mích.
- Kinh Thiên Đạo-Thế Đạo 1968, 1974, 1975:
  • Sanh điều xích mích.

KHẢO DỊ-
CHÁNH VĂN

121. Giàu sang ấy Ơn Trên giúp sức,
Phước ấm no túc thực túc y.
Thấy người gặp lúc tai nguy,
Ra tay tế độ, ấy thì lòng nhơn.
125. Thương đồng loại cũng hơn thí bạc,
Thấy trên đường miểng bát miểng chai.
Hoặc là đinh nhọn, chông gai,
Mau tay lượm lấy, đoái hoài kẻ sau.

CHÚ THÍCH

Ơn Trên: chỉ Ðức Chí Tôn hoặc các Ðấng Thiêng Liêng.
Phước ấm no: Ðiều may mắn tốt lành là được no ấm.
Túc thực túc y: Túc là đủ, Thực là ăn, Y là áo mặc. Túc thực túc y là đủ ăn đủ mặc, ý nói đời sống được no ấm.
Tai nguy: Tai nạn nguy hiểm.
Tế độ: Tế là giúp đỡ, đem tiền bạc vật thực đến cho; Ðộ là cứu giúp. Tế độ là cứu giúp, đem tiền bạc vật thực đến giúp đỡ.
Thí bạc: Bố thí tiền bạc giúp đỡ người nghèo.
Miểng bát miểng chai: Mảnh vở của chén dĩa hay ly tách, cạnh của nó rất bén, đạp nhằm thì bị đứt chân chảy máu.
Ðoái hoài: Ðoái là nghĩ tới, hoài là tưởng nhớ tới. Ðoái hoài là tưởng nhớ mà quan tâm đến.

Ba câu 126-127-128: Miểng chén, miểng chai, đinh nhọn, chông gai nằm trên đường đi, mình đi trước nhìn thấy thì mau mau lượm lấy, đem bỏ vào một chỗ ít người lui tới, để tránh cho người đi sau khỏi đạp nhằm các thứ bén nhọn đó mà bị đứt chân đau đớn. Ấy là làm phước mà chẳng tốn tiền.
CHÁNH VĂN

129. Ấy làm phước khỏi hao khỏi tốn,
Chẳng có đâu mòn vốn thâm tiền.
Bắc cầu, đắp sửa đường liền,
Kẻ qua người lại bước yên gọn gàng.
133. Thi ân hậu bạc ngàn khó sánh,
Ráng tập thành sửa tánh từ hòa.
Việc lành chẳng khá bỏ qua,
Tuy là nhỏ nhít cũng là công phu.

CHÚ THÍCH

Mòn vốn thâm tiền: Thâm lạm vào tiền vốn, làm cho tiền vốn hao mòn dần, đến lúc nào đó thì hết vốn.
Thi ân hậu: Hậu là dày dặn. Thi ân hậu là làm ơn dày dặn cho người.
Tập thành: Tập làm nhiều lần để trở nên giỏi.
Từ hòa: Từ là lòng thương người và muốn giúp người; Hòa là êm thuận với nhau. Từ hòa là nhơn từ và thuận hòa.
Công phu: Công sức và thì giờ bỏ ra để làm một việc.

Hai câu 135-136: Dù gặp việc lành nhỏ nhặt cũng không nên bỏ qua, vì nó cũng là công phu để tạo phước đức.

Sách Minh Tâm Bửu Giám có chép rằng:

Hớn Chiêu Liệt sắc Hậu chủ viết: Vật dĩ ác tiểu nhi vi chi, vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi. Nghĩa là: Vua Hớn Chiêu Liệt dặn Hậu Chủ rằng: Ðừng vì việc ác nhỏ mà làm, đừng vì việc lành nhỏ mà không làm.

Việc ác nhỏ, tuy là nhỏ nhưng cũng không nên làm, vì nó là ác. Còn việc thiện, dù là nhỏ cũng nên làm vì nó là thiện. Làm dần dần thì sẽ tích tiểu thành đa, chớ nên bỏ qua.
CHÁNH VĂN

137. Năng làm phải nhựt nhu ngoạt nhiễm,
Lâu ngày dồn tính đếm có dư.
Phước nhiều, tội quá tiêu trừ,
Phép Trời thưởng phạt, không tư chẳng vì.
141. Thấy lỗi mọn chớ nghi chẳng hại,
Thường dạn làm, tội lại hằng hà.
Vì chưng tụ thiểu thành đa,
Họa tai báo ứng chẳng qua mảy hào.

CHÚ THÍCH

Nhựt nhu ngoạt nhiễm: Nhựt là ngày, ngoạt là tháng, nhu là thấm ướt, nhiễm là thấm vào. Nhựt nhu ngoạt nhiễm là ngày ngày thấm ướt thì cả tháng nhiễm sâu vào.

Câu 137: Thường làm phải làm lành thì dần dần nhiễm vào chơn tánh trở thành thói quen tốt.

Tội quá: Quá, chữ Hán, nghĩa là lỗi lầm. Tội quá là tội lỗi và lầm lỗi.
Lỗi mọn: Lỗi nhỏ.
Hằng hà: nói tắt thành ngữ: Hằng hà sa số, nghĩa là nhiều như cát sông Hằng.
Vì chưng: Vì bởi.
Tụ thiểu thành đa: Nhóm họp nhiều cái ít thành ra nhiều. Tụ là gom nhóm lại.
Báo ứng: Báo đáp lại theo Luật Nhân quả. Mảy hào: Mảy là một chút nhỏ, hào là một phần của ly. Mảy hào là chỉ một phần rất nhỏ.

- Kinh Nhân Quả, Kinh Lễ, Kinh Thiên Đạo-Thế Đạo 1936, 1968, 1974, 1975:

  • tựu thiểu thành đa.
- Kinh Sám Hối của Minh Lý 1973:
  • tụ thiểu thành đa.
Tựu là đến, như Tựu chức; Tựu là nên, như Thành tựu.

KHẢO DỊ-
CHÁNH VĂN

145. Giữa bụi thế giữ sao khỏi vấy,
Biết ăn năn xét lấy sửa lòng.
Làm người nhơn nghĩa xử xong,
Rủi cho gặp lúc long đong chẳng sờn.
149. Hễ biết nghĩa thọ ơn chẳng bội,
Giúp cho người chớ vội khoe ra.
Việc chi cũng có chánh tà,
Làm điều phải nghĩa, lánh xa vạy vò.

CHÚ THÍCH

Câu 145: Ở giữa cõi trần đầy bụi bặm, làm sao giữ mình cho khỏi dính bụi trần. Cư trần tất nhiễm trần. Ý nói: Ðã mang xác phàm sống nơi cõi trần thì tránh sao khỏi lầm lỗi. Vấy là dính chất bẩn.

Xử xong: Cư xử cho vẹn toàn.
Long đong: Lưu lạc vất vả, cuộc sống không ổn định.
Chẳng sờn: Chẳng nao núng, ý chí chẳng lung lay.
Thọ ơn chẳng bội: Nhận lãnh ơn huệ của ai thì chẳng nên phản bội người đó, mà phải lo báo đáp.
Chánh tà: Chánh là ngay thẳng đúng đắn, Tà là cong quẹo sai trái. Chánh Tà luôn luôn đối chọi nhau, tranh giành ảnh hưởng lên nhau, nhưng cuối cùng thì Chánh luôn luôn thắng Tà. Nhờ có Tà mà cái Chánh mới lộ rõ ra, và cũng nhờ cái Tà mà trau giồi cái Chánh. Chánh là theo Tiên Phật, Tà là theo Quỉ Vương.
Ðiều phải nghĩa: Ðiều đúng theo lẽ phải và đạo đức.
Vạy vò: Không ngay thẳng chơn chánh.
CHÁNH VĂN

153. Khi gặp chuyện khá dò xét cạn,
Liệu sức mình cho hẳn sẽ làm.
Chớ đừng thấy của dấy tham.
Giục người làm quấy ắt cam đồng hình.
157. Ở ngay thẳng Thần minh bảo hộ,
Nết xéo xiên gặp chỗ rạc tù.
Trong đời rất hiếm võ phu,
Lường cân tráo đấu, dối tu cúng chùa.

CHÚ THÍCH

Khá dò xét cạn: Nên dò xét cho rõ rệt đến tận cùng các khía cạnh.
Cho hẳn: Cho chắc chắn rõ rệt.
Thấy của: Thấy tiền bạc của cải.
Dấy tham: Nổi lên lòng tham lam.
Ắt cam đồng hình: Ắt cam đành chịu chung hình phạt.
Thần minh: Vị Thần sáng suốt.
Bảo hộ: Gìn giữ và che chở.
Nết xéo xiên: Tánh không ngay thẳng, gian trá.
Rạc tù: Rạc là chỗ giam cầm, tù là nhà giam. Rạc tù là chỉ chung nhà tù để giam giữ người có tội.
Rất hiếm: Rất nhiều. Chữ Hiếm có 2 nghĩa: Hiếm là ít có như Của hiếm; Hiếm là nhiều như Hiếm tiền, Hiếm chi.
Võ phu: Võ là loại đá giống như ngọc, phu là đá rất đẹp giống như ngọc. Võ phu là ngọc giả, chỉ người giả dối, xảo trá, chuyên đi lừa gạt người.
Lường cân tráo đấu: Cân non để ăn lường, tráo cái đấu khác nhỏ hơn để đong ăn gian.
Dối tu cúng chùa: Ði cúng chùa để giả danh là kẻ tu hành mà dễ bề gạt người nhẹ dạ.
CHÁNH VĂN

161. Còn hoi hóp tranh đua bay nhảy,
Nhắm mắt rồi phủi thảy lợi danh.
Lương tâm thường xét cho rành,
Của không phải nghĩa, chớ sanh lòng tà.
165. Người quân tử chẳng thà chịu khổ,
Ðâu làm điều nhục tổ hổ tông.
Ðứa ngu thấy của thì mong,
Không gìn tội lỗi, phép công nước nhà.

CHÚ THÍCH

Hoi hóp: Thở rất yếu, tình trạng hấp hối sắp chết.
Tranh đua bay nhảy: Tranh đấu, hết làm việc nọ tới việc kia để mưu cầu danh lợi, không chịu ngồi yên.
Nhắm mắt rồi: Lúc chết rồi.
Phủi thảy: Gạt bỏ tất cả.
Của không phải nghĩa: Tiền của phi nghĩa.
Quân tử: Mẫu người lý tưởng của Nho giáo nêu ra để mọi người học tập noi theo. Người quân tử là người có tài năng và phẩm hạnh hơn người. Người quân tử lúc nào cũng ung dung thơ thới, ưa làm điều hay việc phải, sẵn sàng giúp ích mọi người, thuận tùng Thiên lý, thường đem Ðạo lý khuyên đời cải ác tùng lương, tấm lòng không bao giờ phóng túng bôn chôn theo vật dục để phải bước vào nẻo quấy. Dù gặp bất kỳ cảnh ngộ khó khăn nào, người quân tử cũng tỏ ra bình thản, giữ vững tư cách cao thượng, không để Thất tình loạn động, Lục dục khiến sai, làm điều sái quấy.
Nhục tổ hổ tông: Nhục tổ là làm nhơ nhuốc tổ tiên, hổ tông là làm xấu hổ dòng họ mình.
Ðứa ngu: Kẻ tiểu nhân.
Phép công nước nhà: Pháp luật của quốc gia.
CHÁNH VĂN

169. Bày chước độc, xúi ra việc quấy,
Tổn cho người mà lấy lợi riêng.
Hễ nghe khua động đồng tiền,
Sửa ngay làm vạy, không kiêng chút nào.
173. Người nghèo khổ biết sao than kể,
Kẻ lễ nhiều cậy thế ỷ quyền.
Làm quan tính kế đảo điên,
Gạt thâu gia sản, đất điền của dân.

CHÚ THÍCH

Chước độc: Mưu kế sâu độc để hại người.
Xúi ra việc quấy: Xúi giục làm việc sái quấy.
Tổn cho người: Làm hao tốn tiền bạc của người.

Hai câu 171-172: Hễ nghe nhà nào có nhiều tiền bạc, thì bày vẽ mưu kế ác độc, sửa điều ngay thẳng thành việc sái quấy, để người ta lo sợ mà đem tiền bạc lo lót cho mình. Họ không nể sợ Thần Thánh một chút nào hết.

Lễ nhiều: Ðem tiền bạc hay đồ quí giá dâng cho kẻ quyền thế để cầu xin quyền lợi mà đúng ra pháp luật không cho phép hưởng. Cậy thế ỷ quyền: Cậy vào thế lực của phe đảng mình, lạm dụng quyền hành mình làm điều bất chánh.

Câu 174: Kẻ đem nhiều lễ vật quí giá lo lót cho cấp trên để cậy thế lực của cấp trên che chở, rồi lạm dụng quyền hành của mình làm điều phi pháp, thâu tóm lợi riêng.

Tính kế đảo điên: Tính toán mưu kế lung tung, tráo trở bất thường, để thâu tóm lợi lộc về mình.
Gia sản: Tài sản của một gia đình.
Gạt thâu gia sản: Lường gạt người để chiếm đoạt gia sản của người.
CHÁNH VĂN

177. Thả tôi tớ thôn lân húng hiếp,
Bức gái lành, ép thiếp đòi hầu.
Trong lòng mưu chước rất sâu,
Mai sau suy sụp, đáo đầu ra chi.
181. Gái xướng kỵ, trai thì du đãng,
Phá tan hoang gia sản suy vi.
Làm người phải khá xét suy,
Của rơi chớ lượm, tham thì phải thâm.

CHÚ THÍCH

Tôi tớ: Người giúp việc trong nhà để chủ nhà sai phái công việc.
Thôn lân: Thôn là một ấp, lân là một xóm. Thôn lân là thôn xóm trong làng.
Húng hiếp: Húng là hống hách, hiếp là bắt ép. Húng hiếp là hống hách hiếp đáp người.

Câu 178: Áp bức con gái nhà lành, ép buộc đòi hỏi phải làm hầu thiếp cho mình, tức là buộc làm vợ bé cho mình.

Ðáo đầu: Ðáo là tới, đầu là chỗ cuối cùng. Ðáo đầu là đến lúc cuối cùng.
Xướng kỵ: Xướng là ca hát, kỵ tức là kỹ nữ, gái buôn hương bán phấn. Gái xướng kỵ là con gái làm ả đào, ca hát cho khách nghe, lại bán thân cho khách.
Du đãng: Du là trôi nổi lông bông, đãng là rong chơi lêu lỏng. Trai du đãng là những đứa con trai rong chơi phóng túng, thường tụ tập để phá phách, nhậu nhẹt, gây gổ đánh lộn.
Suy vi: Sút kém dần đến độ nghèo hèn.
Tham thì phải thâm: Tham lấy món tiền nhỏ, mà bị lạm vào một món tiền khác lớn hơn. Thành ngữ nầy có ý chê cười và răn đe những người có tánh tham lam.
CHÁNH VĂN

185. Còn một nỗi gian dâm đại tội,
Lấy vợ người làm lỗi tiết trinh.
Tuy là Trời Ðất rộng thinh,
Mắt dường sao nháy chiếu minh lòng người.
189. Lương tâm biết hổ ngươi chừa lỗi,
Mới biệt phân sừng đội lông mang.
Việc lành việc dữ đồn vang,
Tuy là bóng khuất xương tan tiếng còn.

CHÚ THÍCH

Gian dâm: Việc quan hệ xác thịt nam nữ một cách bất chánh, như lấy vợ người hay lấy chồng người. Ðại tội: Tội lớn, tội nặng.
Tiết trinh: Tiết là cứng cỏi ngay thẳng, trinh là lòng trong sạch của vợ đối với chồng. Tiết trinh là lòng cứng cỏi ngay thẳng quyết giữ lòng trong sạch đối với chồng.
Mắt dường sao nháy: Mắt đây là mắt Trời. Mắt Trời sáng như ánh sao, soi rọi khắp nơi, thấy rõ tất cả.
Chiếu minh: Chiếu sáng.
Hổ ngươi: Cảm thấy xấu hổ. Hổ là tủi thẹn, xấu hổ; ngươi là người.
Biệt phân: Phân biệt.
Sừng đội lông mang: Chỉ loài thú vật có sừng ở trên đầu (trâu, bò, dê,..), có lông ở thân (mèo, chó,. ).
Bóng khuất xương tan: Bóng khuất là hình dạng không còn nhìn thấy nữa, ý nói chết; xương tan là người chết đã lâu, xương đã mục, tan biến thành đất.

- Kinh Sám Hối của Minh Lý 1973, Kinh Nhân Quả, Kinh Lễ, Kinh Thiên Đạo-Thế Đạo 1936:

  • bóng khuất.
- Kinh Thiên Đạo-Thế Đạo 1968, 1974, 1975:
  • khuất bóng.

KHẢO DỊ-
CHÁNH VĂN

193. Gái tiết hạnh giữ tròn danh giá,
Chớ học đòi mèo mả gà đồng.
Làm điều nhục nhã tổ tông,
Tiếng nhơ giặt rửa biển sông đặng nào.
197. Trai trung hiếu sửa trau ba mối,
Ðừng buông lung lầm lỗi năm hằng.
Hung hoang tội báo nghiệt căn,
Kẻ chê người thị không bằng cỏ cây.

CHÚ THÍCH

Tiết hạnh: Tánh nết cứng cỏi ngay thẳng.
Danh giá: Tiếng tăm và giá trị.
Học đòi: Bắt chước những việc không tốt.
Mèo mả gà đồng: Con mèo hoang ngoài mả, con gà hoang ngoài đồng, chỉ đám thanh niên nam nữ không đứng đắn, lén lút hẹn hò tình tự, chung chạ nhau nơi đồng hoang mả vắng. Ðó là hạng người ngoài vòng lễ giáo, đáng khinh bỉ.
Tổ tông: Tổ tiên của dòng họ.
Tiếng nhơ: Tiếng tăm nhơ nhuốc, nhục nhã.
Ba mối: dịch chữ Tam cang. Cang là giềng mối.
Tam Cang gồm: Quân thần cang, Phụ tử cang, Phu thê cang.
Năm hằng: dịch chữ Ngũ thường. Thường là hằng có. Ngũ thường gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
Buông lung: Thả lỏng ra cho hoàn toàn tự do để nó trở nên hung dữ.
Hung hoang: Hung dữ không ai kềm chế nổi.
Tội báo: Báo đáp lại những tội lỗi đã gây ra lúc trước.
Nghiệt căn: Những việc ác độc (Nghiệt) trong kiếp trước là gốc rễ (Căn) của các tai họa xảy đến trong kiếp nầy.
CHÁNH VĂN

201. Khá tiết kiệm hằng ngày no đủ,
Tánh siêng năng lam lụ làm ăn.
Lòng chừa biếng nhác kiêu căng,
Của tiền lãng phí không ngằn phải tiêu.
205. Lòng Trời Ðất thương đều muôn vật,
Ðức háo sanh Tiên Phật một màu.
Thượng cầm hạ thú lao xao,
Côn trùng thảo mộc loài nào chẳng linh.

CHÚ THÍCH

Lam lụ: hay Lam lũ, nghĩa là: Cố chịu đựng vất vả nghèo khổ để làm việc.
Biếng nhác: Lười biếng.
Kiêu căng: Tự đắc cho mình là hơn người nên tỏ ra khinh người.
Không ngằn: Không tới mức cần thiết.
Háo sanh: Ưa thích sự sống. Háo sanh là bản chất của Thượng Ðế. "Chi chi hữu sanh cũng bởi Chơn linh Thầy mà ra, hễ có sự sống ắt có Thầy. Thầy là Cha của sự sống. Vì vậy là lòng háo sanh của Thầy không cùng tận." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. II. 62)
Một màu: Ý nói giống hệt nhau.
Thượng cầm hạ thú: Ở trên thì có loài chim, ở dưới có loài thú vật.
Lao xao: Rộn lên xen lẫn vào nhau.

- Kinh Sám Hối của Minh Lý 1973, Kinh Nhân Quả:

  • Khá tiết kiệm.
- Kinh Thiên Đạo- Thế Đạo 1936, 1968, 1974, 1975, Kinh Lễ:
  • Thà tiết kiệm.
Khá là nên, phải. Thà là đành, cam đành.
Chữ KHÁ có ý tác động, chữ THÀ có ý thụ động.

KHẢO DỊ-
CHÁNH VĂN

209. Nó cũng muốn như mình đặng sống,
Nỡ lòng nào tuyệt giống dứt nòi.
Bền công kinh sách xem coi,
Vô can sát mạng, thiệt thòi rất oan.
213. Chớ kiếm thế gọi ngoan xảo trá.
Lưới rập chim, thuốc cá, đốt rừng.
Thương thay phá noãn lẫy lừng,
Tội căn báo ứng, biết chừng nào an.

CHÚ THÍCH

Tuyệt giống dứt nòi: Làm cho tiêu mất nòi giống.
Bền công: Làm công việc bền bỉ lâu dài.
Vô can: Không dính dáng tới.
Sát mạng: Giết chết mạng sống.
Rất oan: Rất oan uổng vì không cố ý làm.

Câu 212: Nó không làm hại chi đến mình, mà mình giết chết nó thì trái hẳn với đức Háo sanh của Thượng Ðế, nên mình phải bị tội tình, thiệt thòi rất oan uổng.

Kiếm thế: Tìm cách nầy cách nọ.
Ngoan: Khôn ngoan.

Câu 213: Chớ tìm cách xảo trá mà làm để gọi là khôn ngoan.

Lưới rập chim: Cái lưới giăng ra, bỏ mồi cho chim vào ăn rồi giựt lưới cho sập xuống, chim mắc vào lưới đặng bắt. Rập là làm bẫy để bắt. Thuốc cá: Bỏ thuốc độc vào nước để cá nhảy ra ngoài mà bắt. Ðốt rừng: Ðốt cháy rừng cho các loài thú chạy ra mà bắt. Phá noãn: Phá tổ chim để lấy trứng.
Tội căn báo ứng: Tội lỗi gây ra là cái gốc rễ cho việc báo ứng sau nầy, tức là sẽ có tai họa báo đáp lại.
CHÁNH VĂN

217. Lại có kẻ hung hoang ác nghiệt,
Cướp giựt rồi chém giết mạng người,
Ðoàn năm, lũ bảy dạo chơi,
Hiếp người lương thiện, phá đời hại dân.
221. Tua khá tưởng thương lần nòi giống,
Hãy xét vì mạng sống khó cầu.
Cũng đừng bài bạc lận nhau,
Rủ ren rù quến, lấy xâu ăn đầu.

CHÚ THÍCH

Hung hoang: Hung là dữ tợn, hoang là không được kềm chế. Hung hoang là hung dữ không ai kềm chế nổi.
Ác nghiệt: Ðộc ác và khắc nghiệt.

Hai câu 219-220: Kết bè thành nhóm năm bảy đứa du đãng rong chơi đàng điếm, hiếp đáp người lương thiện, phá hại dân chúng, làm mất an ninh trật tự trong vùng.

Tua: Nên, hãy.
Tua khá: Hãy nên.

Câu 221: Hãy nên tưởng nghĩ đến mà thương mến nòi giống dân tộc mình.
Câu 222: Hãy suy xét để biết rằng mạng sống con người rất quí báu, một khi mạng sống mất thì không thể cầu xin lấy lại được.

Bài bạc lận nhau: Ðánh bài đánh bạc, ăn gian ăn lận nhau.
Thường nói: Cờ gian bạc lận.
Lấy xâu: Tổ chức và chứa đám đánh bài để lấy tiền chỗ, gọi là lấy tiền xâu.
Ăn đầu: Ăn tiền đầu, tức ăn tiền cò.
CHÁNH VĂN

225. Phải hiểu biết máy sâu họa kín,
Thánh Thần đâu tư lịnh bỏ qua.
Thường ngày tuần khắp xét tra,
Phạt người hung ác, đọa sa A Tỳ.
229. Sống dương thế, hành thì căn bịnh,
Xui tai nàn dấp dính theo mình.
Ăn năn khử ám hồi minh,
Từ bi Trời Phật rộng tình xét cho.

CHÚ THÍCH

Máy sâu: Máy Trời sâu xa huyền diệu.

Họa kín: Tai họa không để lộ ra, chừng tai họa đến thì mới biết.
Tư lịnh: Tư là có lòng riêng. Tư lịnh là ra lịnh riêng theo ý mình để mưu lợi cho mình.
Ðọa sa: Ðọa là phạt xuống cõi thấp kém khổ sở, sa là rơi xuống. Ðọa sa là phạt rơi xuống cõi Ðịa ngục.
A Tỳ: Ðịa ngục đau khổ nhứt trong 10 cửa ngục nơi cõi Âm phủ, do Cửu Ðiện Ðô Thị Vương cai quản.
Dương thế: Cõi dương gian, cõi của người sống.
Căn bịnh: Căn là gốc rễ, chỉ cái nghiệp ác được tạo nên bởi những việc làm ác độc trong kiếp sống trước. Căn bịnh là sự bịnh hoạn do nghiệp ác tạo ra, nên còn gọi là Nghiệp bịnh. Bịnh nầy làm cho người bịnh đau khổ triền miên, không có thuốc nào trị được, nhưng không chết, sống để chịu đau khổ mà trả nghiệp. Nếu biết lo làm âm chất thì mới giải trừ được ác nghiệp, lúc đó mới hết bịnh.
Khử ám hồi minh: Từ bỏ chỗ tối tăm để trở lại chỗ sáng.
Ý nói: Từ bỏ đường tà, trở lại đường chánh.
CHÁNH VĂN

233. Ðừng cố oán thầm lo gây họa,
Ðem lòng thù hăm dọa rấp đường.
Ðốt nhà, phá cống, tháo mương,
Nước tràn lụt ngập, ruộng vườn tan hoang.
237. Thêm liều mạng đặng toan đổ tội,
Cho người hiền chịu lỗi vương mang.
Khi hồn lìa khỏi trần gian,
Hóa ra ngạ quỉ cơ hàn khổ thân.

CHÚ THÍCH

Cố oán: Cố tâm thù giận. Oán là thù giận.

Câu 233: Ðừng cố tâm oán thù người mà âm thầm tìm cách gây ra tai họa cho người.

Rấp đường: Rào bít đường không cho người qua lại.
Tháo cống: Tháo cái cống để cho nước tràn ra ngoài.
Phá mương: Phá cái mương để nước chảy ra ngoài.
Tan hoang: Tan nát hoang tàn, không còn gì.
Liều mạng: Dù biết việc nầy nguy hiểm đến tánh mạng nhưng cũng cố làm để thỏa lòng thù hận.
Ðổ tội: Ðem tội lỗi của mình trút lên đầu người khác.
Người hiền: Người hiền lành, người vô tội.
Vương mang: Vướng mắc vào.
Ngạ quỉ: Quỉ đói. Người sống trên cõi trần có tánh độc ác, bỏn xẻn, gian xảo, khi chết, Chơn hồn bị phạt làm Ngạ quỉ, thân hình xấu xí đầy lông lá, cái bụng lớn như cái trống mà cái miệng thì nhỏ như lỗ kim, ăn không được, chịu đói khát vô cùng.
Trần gian: Cõi trần, cõi đời.
Cơ hàn: Ðói lạnh. Cơ là đói, Hàn là lạnh.

CHÁNH VĂN

241. Ðời nhiều kẻ khi Thần thị Thánh,
Ám muội lòng, tánh hạnh gổ ganh.
Thấy ai làm phải làm lành,
Xiểm gièm cho đặng khoe danh của mình.
245. Lại còn có tánh tình hiểm độc,
Xúi phân chia thân tộc ruột rà.
Làm cho chồng vợ lìa xa,
Cả đời nghiệt báo, oan gia chẳng rời.

CHÚ THÍCH

Khi Thần thị Thánh: Khi thị Thần Thánh. Khi thị là khinh rẻ, coi thường. 
Ám muội: Ám là không rõ ràng, muội là tối tăm. Ám muội lòng là lòng dạ đen tối.
Gổ ganh: Gây gổ vì ganh tỵ ghen ghét.
Xiểm gièm: Xiểm là dua nịnh, gièm là nói xấu người khác để làm cho người ta mất uy tín. Xiểm gièm hay Gièm siểm là nịnh hót và nói xấu kẻ khác để lợi mình hại người.
Hiểm độc: Nham hiểm độc ác, sâu độc.

Câu 246: Xúi giục làm cho anh em ruột hay bà con ruột thịt gây gổ đánh nhau, thưa kiện nhau, khiến cho tình ruột thịt phải chia lìa.

Nghiệt báo: Nghiệt là nghiệp ác, báo là đáp lại. Nghiệt báo là cái nghiệp ác báo đáp lại, bằng những tai họa, bệnh tật, đau khổ triền miên.
Oan gia: Oan là thù giận, gia là người. Oan gia là người có mối thù giận với mình.

Câu 248: Suốt đời bị nghiệp ác báo đáp lại, và bị những người thù giận theo phá hại chẳng dứt.
CHÁNH VĂN

249. Muốn tránh đặng khỏi nơi tội quá,
Lánh kẻ tà, chẳng khá nên gần.
Thí tiền thí bạc, chẩn bần,
Người đau thí thuốc, Thánh Thần phước ban.
253. Ðêm thanh vắng chớ toan mưu dối,
Xúi trẻ thơ lầm lỗi ngỗ ngang.
Âm đài gông tróng sẵn sàng,
Chờ khi thác xuống, cổ mang hành hình.

CHÚ THÍCH

Tội quá: Quá là lỗi lầm. Tội quá là tội lỗi.
Thí: Ðem cho để giúp đỡ. 
Thường nói: Bố thí.
Thí tiền thí bạc: Ðem tiền bạc đến cho để giúp đỡ.
Chẩn bần: Chẩn là cứu giúp, bần là nghèo. Chẩn bần là cứu giúp người nghèo bằng cách đem tiền bạc, vật thực, thuốc men, quần áo, mùng mền đến cho.
Ngỗ ngang: Ngỗ là ngạo ngược, ngang là bướng bỉnh. Ngỗ ngang là bướng bỉnh, làm điều ngược ngạo, sái quấy.
Âm đài: Lầu đài nơi Âm phủ, nơi làm việc của Thập Ðiện Diêm Vương. Âm đài đồng nghĩa Âm cung, Âm Ty.
Gông tróng: Gông là cái khung gỗ nặng để tròng vào cổ tội nhân. Tróng là cái cùm để khóa chân tội nhân.
Cổ mang hành hình: Cho mang gông vào cổ để hành hình tội nhân.

- Kinh Sám Hối của Minh Lý 1973, Kinh Nhân Quả, Kinh Thiên Đạo-Thế Đạo 1974, 1975:
cổ mang hành hình.
- Kinh Lễ, Kinh Thiên Đạo-Thế Đạo 1936, 1968:
hổ mang hành hình.

KHẢO DỊ-
CHÁNH VĂN

257. Các thơ truyện huê tình xé hủy,
Kẻo để đời làm lụy luân thường.
Nói lời tục tĩu không nhường,
Tội hành cắt lưỡi, trăm đường ghê thay!
261. Lại có kẻ miệng ngay lòng vạy,
Tởi làm chùa, dối cậy in kinh.
Ăn gian xới bớt cho mình,
Dầu qua dương pháp, luật hình Diêm Vương.

CHÚ THÍCH

Truyện huê tình: Sách truyện nói về việc nam nữ tình tự lãng mạn, đồi trụy, ngoài vòng lễ giáo, làm hại nề nếp gia đình. 
Kẻo: Chớ bị mắc phải. 
Làm lụy: Làm hại.
Luân thường: Phép tắc cư xử phải tuân theo thì mới hợp lẽ phải và đạo đức. 
Tội hành: Có tội nên bị hành hình.
Tởi làm chùa: Ði khuyên người ta đóng góp tiền bạc hay vật liệu để cất chùa, lên cốt Phật, hay ấn tống kinh sách.
Dối cậy in kinh: Cậy vào việc in kinh sách mà làm điều gian dối, như tiền in có một mà nói lên hai để ăn lời.
Dương pháp: Pháp luật của cõi dương gian.
Luật hình Diêm Vương: Luật pháp về hình phạt của Thập Ðiện Diêm Vương nơi cõi Âm phủ.

Câu 264: Dù cho có qua mặt được luật pháp nơi thế gian, chớ làm sao qua được luật pháp của Diêm Vương.

- Kinh Sám Hối của Minh Lý 1973:

  • Ðâu qua dương pháp, luật hình Diêm Vương.
- Kinh Nhân Quả, Kinh Lễ, Kinh Thiên Đạo-Thế Đạo 1936, 1968, 1974, 1975:
  • Dầu qua dương pháp, luật hành Diêm Vương.

KHẢO DỊ-
CHÁNH VĂN

265. Thêm những sãi giả nương cửa Phật,
Của thập phương châu cấp thê nhi.
Ngày sau đọa lạc Âm Ty,
Thường thường khảo kẹp chẳng khi nào rời.
269. Thấy giấy chữ rớt rơi lượm lấy,
Ðốt ra tro bỏ chảy dòng sông.
Thủy triều vận tải biển đông,
Lòng hằng dường ấy, phước đồng ăn chay.

CHÚ THÍCH

Sãi: Thầy chùa, người đàn ông xuất gia tu ở chùa.
Của thập phương: Tiền bạc của bổn đạo khắp nơi (mười phương) dâng cúng cho chùa.
Châu cấp: Giúp cho đầy đủ để bảo đảm cuộc sống.
Thê nhi: Vợ con. Thê là vợ, nhi là con.
Ðọa lạc: Ðọa là phạt xuống cõi thấp kém khổ sở, lạc là rơi rụng. Ðọa lạc là phạt rơi xuống cõi thấp kém khổ sở.
Âm Ty: Ty là cơ quan làm việc. Âm Ty là cơ quan làm việc nơi cõi Âm phủ, chỉ cõi Âm phủ.

Hai câu 269-270: Người xưa quan niệm rằng chữ viết trên giấy là chữ của Thánh Hiền, không được chà đạp hay để rơi rớt vào chỗ dơ dáy. Cần phải lượm gom lại rồi đốt ra tro, đổ tro ấy xuống sông, như vậy mới đặng phước.

Thủy triều: Hiện tượng nước sông hay nước biển lên xuống hai lần trong 1 ngày đêm. Thủy triều có được là do sức hút của mặt trăng và mặt Trời lên nước biển.
Phước đồng ăn chay: Làm được việc ấy thì có phước đức bằng với việc ăn chay.
CHÁNH VĂN

273. Chịu cực khổ đắng cay biết mấy,
Cuốc, cày, bừa, gieo, cấy, gặt, đong,
Làm ra lúa gạo dày công,
Dầm mưa dan nắng kẻ nông nhọc nhằn.
277. Nhờ Viêm Ðế đức cao ân nặng,
Tìm lúa khoai, người đặng no lòng.
Ngày ngày vọng niệm chớ vong,
Chẳng nên hủy hoại mới phòng khỏi hoang.

CHÚ THÍCH

Viêm Ðế: Hiệu của vua Thần Nông thời cổ nước Tàu. Vua Thần Nông (2737-2697 trước Tây lịch), con của Thiếu Ðiền và Bà An Ðăng. Bà nằm mộng thấy rồng đoanh rồi sanh ra Ngài tại thạch thất trong núi Liệt sơn. Vua Thần Nông có khổ người to lớn, được tôn lên làm vua, lấy Hỏa đức cai trị dân chúng, được thiên hạ phục tùng, long chầu hổ bái.

Vua Thần Nông thấy dân giết hại thú vật để ăn thịt quá nhiều, lòng chẳng nỡ, liền tìm kiếm các giống ngũ cốc, dạy dân cày cấy gieo trồng để dùng làm lương thực.

Vua Thần Nông thấy dân bịnh hoạn, nên ra công tìm kiếm các thảo mộc có vị thuốc trị bịnh cho dân.

Cho nên, vua Thần Nông là tổ sư của nghề nông và cũng là tổ sư của nghề chế tạo thuốc trị bịnh.

Ngài băng tại Trường Sa, thọ 140 tuổi, làm vua 40 năm.

Vọng niệm: Vọng là trông mong, niệm là tưởng nghĩ tới. Vọng niệm là trông mong và tưởng nghĩ tới. Vong: Quên.
Mới phòng khỏi hoang: Mới đề phòng khỏi bị lãng phí.
CHÁNH VĂN

281. Chớ hiểm độc, dạ lang lần lựa,
Nhơn thất mùa, bế vựa gắt gao.
Chờ khi lúa phát giá cao,
Khai ra bán mắc, Trời nào dung cho.
285. Ơn trợ giúp khá lo đền báo,
Giữ vẹn tròn nghĩa đạo với đời.
Túng cùng vay mượn của người,
Vui lòng tính trả vốn lời cho kham.

CHÚ THÍCH

Hiểm độc: Nham hiểm độc ác.
Dạ lang: Lòng dạ hiểm độc như lang sói. Dạ là lòng dạ, lang là con chó sói.
Lần lựa: Kéo dài thời gian để chờ lúc thuận tiện.
Thất mùa: Mất mùa lúa vì bị thiên tai.
Bế vựa gắt gao: Ðóng cửa vựa lúa một cách khắt khe nghiêm nhặt để tích trữ và đầu cơ lúa gạo.

Bốn câu từ 281 đến 284: Nói về người đầu cơ tích trữ lúa gạo. Ðó là người có lòng dạ hiểm độc như lang sói, lần lừa chờ đợi cơ hội, nhân khi dân bị mất mùa, thì đi mua gom lúa gạo giấu vào kho thật kỹ, chờ khi lúa phát giá cao, mở kho bán mắc, thu lãi thật nhiều, ai chết mặc ai, tiền thầy bỏ túi. Người độc ác như vậy, Trời nào dung cho!

Ðền báo: Ðền đáp trở lại.
Nghĩa đạo: Ðạo nghĩa, đường lối cư xử hợp đạo đức và lẽ phải.
Kham: Chịu đựng nổi.
CHÁNH VĂN

289. Chớ oán chạ, tham lam ngược ngạo,
Bội nghĩa ân, trở tráo chước sâu.
Luân hồi thưởng phạt rất mầu,
Chuyển thân tái thế, ngựa trâu công đền.
293. Người phú túc vun nền âm đức,
Lấy lòng nhơn giúp sức trợ nghèo.
Chớ sanh chước hiểm hẹp eo,
Lời tăng quá vốn, kẻ nghèo xiết than.

CHÚ THÍCH

Oán chạ: Thù oán bậy bạ, không lý do chánh đáng.
Bội: Phản bội.
Trở tráo: Thay đổi đen trắng dễ dàng.
Luân hồi: (Xem C. 6 Kinh Giải Oan).
Rất mầu: Rất mầu nhiệm, rất huyền diệu.
Tái thế: Ðầu kiếp xuống trần một lần nữa. Tái là làm lại một lần nữa. Thế là đời, cõi trần.
Chuyển thân tái thế: Chuyển qua một xác thân mới để đầu kiếp xuống trần một lần nữa. 
Ngựa trâu công đền: Làm thân trâu ngựa để lấy công đền tội.
Phú túc: Phú là giàu, túc là đủ. Người phú túc là người giàu có đầy đủ. 
Vun: Bồi đắp thêm.
Âm đức: Việc làm lương thiện tạo ra phước đức mà không khoe khoang, chỉ có Thần Thánh chứng biết.
Lòng nhơn: Lòng nhơn từ thương người mến vật.
Chước hiểm: Mưu kế sâu độc nguy hiểm.

Câu 296: Cho vay tiền với mức lãi quá cao, tiền lời nhiều hơn tiền vốn, kẻ nghèo kêu than không kể hết.
CHÁNH VĂN

297. Làm mặt phải bạc ngàn cúng Phật,
Ép kẻ nghèo cố đất cầm vườn.
Phật Trời nhơn vật đồng thương,
Có đâu hưởng của bất lương mà mời.
301. Phận làm chủ lấy lời nhỏ nhẹ,
Mà nghiêm trừng mấy kẻ tôi đòi.
Ðừng lòng nham hiểm hẹp hòi,
Buông lời chửi rủa, đòn roi không từ.

CHÚ THÍCH

Làm mặt phải: Làm ra vẻ bề ngoài như là người biết lo làm điều phải, biết mến chuộng đạo đức tu hành.
Cố đất cầm vườn: Ðem giấy tờ chủ quyền vườn đất giao cho người giàu cầm giữ để xin vay tiền. Nếu quá kỳ hạn không đem tiền đến trả cả vốn lẫn lời thì vườn đất bị mất luôn vào tay chủ nợ.

Câu 298: Ép buộc người nghèo lúc thắt ngặt cần tiền thì đem vườn đất cầm cố cho mình. Nhơn vật: Người và vật.

Câu 299: Trời và Phật đều thương yêu người và loài vật một cách đồng đều như nhau.

Câu 300: Ðem của bất lương cúng Phật, Phật đâu có chứng mà mời.

Nghiêm trừng: Trừng trị một cách nghiêm khắc.
Tôi đòi: Ðầy tớ trong nhà, tức là những người được chủ nhà mướn để chủ nhà sai phái làm công việc trong nhà.
Nham hiểm: Ðộc ác một cách sâu kín, được che đậy khéo léo, rất khó biết được. 
Không từ: Không chừa ra.
CHÁNH VĂN

305. Tánh ác độc, tội dư tích trữ,
Chốn Âm Cung luật xử nặng nề.
Ðánh đòn khảo kẹp gớm ghê,
Hành hình khổ não chẳng hề nới tay.
309. Miền Âm cảnh nhiều thay hình lạ,
Cõi dương trần tội quá dẫy đầy.
Thánh Hiền kinh sách dạy bày,
Lòng người ám muội, lỗi gây ra hoài.

CHÚ THÍCH

Tội dư: Tội lỗi nhiều quá đến độ dư thừa.
Âm Cung: Cung điện ở cõi Âm phủ, nơi làm việc của Thập Ðiện Diêm Vương cai quản 10 cửa Ðịa ngục.
Luật xử: Chiếu theo luật pháp mà xét xử và định án.
Hành hình: Thi hành các hình phạt trừng trị tội nhân.
Nới tay: Nới lỏng tay ra, ý nói giảm bớt khắt khe.

Câu 308: Ý nói: Nơi Ðịa ngục Vô gián, tội nhân bị hành hình chẳng hề gián đoạn, hết sống rồi chết, hết chết rồi sống, bị hành khổ não luôn luôn.

Âm cảnh: Cõi Âm phủ. 
Hình lạ: Hình phạt lạ lùng.
Dương trần: Cõi thế gian, cõi của nhơn loại đang sống
Tội quá: Tội lỗi nói chung. Quá là lầm lỗi.
Thánh Hiền: Bực Thánh, bực Hiền. Thánh thì có trí tuệ sáng suốt, Hiền là người có tài đức vượt hẳn mọi người. Ðạo Cao Ðài có Tam thập lục Thánh (36 vị Phối Sư), Thất thập nhị Hiền (72 vị Giáo Sư).
Ám muội: Ám là tối mờ, không rõ ràng, muội là tối tăm. Ám muội là tối tăm. Lòng ám muội là lòng dạ tối tăm.
CHÁNH VĂN

313. Kẻ lỗ mãng chê bai khinh dể,
Rằng thác rồi còn kể ra chi.
Nhãn tiền trả quả tức thì,
Tội dư con cháu một khi đền bồi.
317. Chớ quấy tưởng luân hồi phi lý,
Mà hung hăng chẳng nghĩ chẳng suy.
Thi hài như gỗ biết gì,
Linh hồn là chủ thông tri việc đời.

CHÚ THÍCH

Hai câu 313-314: Kẻ lỗ mãng, không tin có linh hồn, chê bai khinh rẻ tôn giáo, cho rằng con người chết rồi là hết, không còn gì tồn tại để nói nữa.

Ðấng Thượng Ðế dùng hiện tượng Cơ Bút mở Ðạo Cao Ðài kỳ nầy là để chứng minh cho nhơn loại thấy rằng:

Có sự hiện hữu của Thượng Ðế, Ðấng sáng tạo ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.

Con người có linh hồn. Linh hồn đích thực là chủ nhân của thể xác. Thể xác chết nhưng linh hồn vẫn tồn tại, xuất ra khỏi thể xác, đi lên cõi thiêng liêng.

Có thế giới vô hình, đó là cõi sống của linh hồn và của các Ðấng Thần Thánh Tiên Phật.

Nhãn tiền: Ngay trước mắt. 
Trả quả: Ðền trả cái kết quả báo đáp lại do các việc làm ác độc thuở trước. 
Phi lý: Không có lý. 
Thi hài: Thể xác con người. 
Thông tri: Biết rõ.

Câu 316: Ðã trả quả rồi mà chưa trừ hết tội, số tội còn dư lại đó thì con cháu phải đền trả đến hết mới thôi.
CHÁNH VĂN

321. Lúc chung mạng, dứt hơi hồn xuất,
Quỉ Vô thường sẵn chực đem đi.
Dắt hồn đến chốn Âm Ty,
Xét xem công quả chẳng ly mảy hào.
325. Người lương thiện ra vào thong thả,
Kẻ tội nhiều đày đọa rất minh,
Phật Trời phép lạ hiển linh,
Hành cho tan xác, huờn hình như xưa.

CHÚ THÍCH

Chung mạng: Mạng sống chấm dứt, tức là chết.
Dứt hơi hồn xuất: Thể xác chết thì linh hồn xuất ra.
Quỉ Vô thường: Loài quỉ luôn luôn biến đổi hình dạng, có nhiệm vụ dẫn linh hồn người chết xuống cõi Ðịa ngục cho Diêm Vương tra xét công và tội để xử đoán.
Chẳng ly mảy hào: Chẳng lìa ra một chút thật nhỏ, ý nói chẳng sơ sót một chút nào.
Công quả: Những việc làm thiện, giúp người giúp đời, giúp đạo, sẽ hưởng được kết quả tốt đẹp về sau.
Tan xác: Tan là tan nát, xác là xác thân. Tan xác là xác thân tan nát. Hành cho tan xác: Hành hình cho đến khi xác thân tan nát mới thôi. (Xem Chú thích Câu 348)
Huờn hình: Cho trở lại hình hài (xác thân Thiêng Liêng) như xưa.

- Kinh Sám Hối của Minh Lý 1973:

  • Hành cho tán giác.
- Kinh Nhân Quả, Kinh Lễ, Kinh Thiên Đạo-Thế Đạo 1936:
  • Hành cho tan giác.
- Kinh Thiên Đạo-Thế Đạo 1968, 1974, 1975:
  • Hành cho tan xác.
Tán giác đồng nghĩa Tan giác. Tán hay Tan là tiêu tan, giác là sự hiểu biết..

KHẢO DỊ-
CHÁNH VĂN

329. Con bất hiếu, xay, cưa, đốt, giã,
Mổ bụng ra phanh rã tim gan.
Chuyển thân trở lại trần gian,
Sanh làm trâu chó đội mang lông sừng.
333. Kìa những gái lẫy lừng hạnh xấu,
Bỏ vạc đồng đốt nấu thảm kinh.
Vì chưng trinh tiết chẳng gìn,
Có chồng còn lại ngoại tình với trai.

CHÚ THÍCH

Giã: Bỏ vào cối rồi dùng chày đập cho nát.
Phanh rã: Dùng dao xẻ cho rã ra nhiều miếng nhỏ.

Hai câu 331 -332: Cho luân hồi chuyển kiếp trở lại cõi trần, đầu thai làm thân trâu chó đội sừng mang lông để đền bồi tội lỗi.

Lẫy lừng: Tiếng tăm vang dội.
Vạc đồng: Cái chảo lớn làm bằng đồng thau.
Thảm kinh: Thảm khốc, kinh khủng, rất ghê sợ.
Vì chưng: Vì bởi, tại vì.
Trinh tiết: Tiết là lòng cứng cỏi không chiụ khuất, trinh là lòng trong sạch của vợ đối với chồng. Trinh tiết là lòng chung thủy của vợ đối với chồng.
Ngoại tình: Có quan hệ yêu đương bất chánh với người ngoài khi đã có vợ hoặc có chồng.
CHÁNH VĂN

337. Kẻ tham lợi cột mai cột mối,
Chuốt trau lời giả dối ngọt ngon.
Dỗ dành rù quến gái non,
Làm hư hoại tiết cháu con nhà người.
341. Lòng lang độc vui cười hớn hở,
Chốn Diêm đình phạt quở trừng răn.
Gông kềm khảo kẹp lăng xăng,
Hành cho đáng kiếp tội căn đã làm.

CHÚ THÍCH

Cột mai cột mối: Kẻ làm mai làm mối cột buộc vào. Nhà có con gái đẹp mà nghèo thường bị những bà chuyên làm mai mối đến gạ gẫm, nói lời giả dối ngon ngọt, dụ dỗ gả bán cho nhà giàu làm hầu thiếp, để họ được hưởng tiền môi giới.
Rù quến: Dụ dỗ quyến rũ. 
Gái non: Con gái mới lớn lên chưa đủ khôn ngoan kinh nghiệm.
Làm hư hoại tiết: Làm cho hư hỏng cái khí tiết của con người hay cái tiết trinh của con gái. Hoại là hư hỏng.
Lòng lang độc: Lòng độc ác như lang sói. Lang là chó sói, thường nói là Lang sói.
Diêm đình: Triều đình của Diêm Vương ở cõi Âm phủ.
Phạt quở trừng răn: Quở phạt, trừng trị và răn cấm.
Hành: Trừng phạt làm cho đau đớn khổ sở.
Ðáng kiếp: Xứng đáng với cái tội đã làm trong kiếp sống nơi cõi trần, không có gì là oan ức hay quá đáng cả.
Tội căn: Tội lỗi đã gây ra trong kiếp sống trước. Căn là gốc rễ, chỉ những việc làm trong kiếp sống trước.
CHÁNH VĂN

345. Ngục đao kiếm cầm giam phạm ác,
Tánh gian dâm hành phạt gớm ghê.
Giáo gươm bén nhọn tư bề,
Chém đâm máu chảy tràn trề ngục môn.
349. Hành đến chết huờn hồn sống lại,
Cho đầu thai ở tại thanh lâu.
Ngày đêm đưa rước chực chầu,
Công bình Thiên đạo, phép mầu Chí Linh.

CHÚ THÍCH

Gian dâm: Quan hệ thể xác một cách bất chánh với người không phải là vợ mình hay chồng mình. 
Tư bề: 4 bên.

Câu 348: Người tội lỗi chết đã bỏ xác phàm nơi cõi trần rồi, chỉ có Chơn thần và linh hồn bị giam vào Ðịa ngục, sao lại có chém đâm máu chảy tràn trề ngục môn? Giống như còn xác phàm nơi cõi trần? Ðây là phép huyền diệu ở Ðịa ngục, làm cho Chơn thần tội nhơn tưởng như có thân thể, ruột gan tim phổi, miệng lưỡi y như nơi cõi trần, biết đói khát, biết đau đớn vì bị đâm chém máu chảy. Sau khi bị hành hình cho đến chết rồi, thì nhờ thứ nước huyền diệu nơi Ðịa ngục, rưới lên chơn thần thì chơn thần sống trở lại y như lúc trước.

Thanh lâu: Lầu xanh, nơi chứa gái mãi dâm. 
Phép mầu Chí Linh: Phép thuật mầu nhiệm của Thượng Ðế.

- Kinh Sám Hối của Minh Lý 1973:

  • chực hầu.
- Kinh Nhân Quả, Kinh Lễ, Kinh Thế Đạo-Thiên Đạo 1936, 1968, 1974, 1975:
  • chực chầu.
Chực hầu: Chờ sẵn một bên để hầu hạ. Chực chầu: Chầu chực.

KHẢO DỊ-
CHÁNH VĂN

353. Móc nhọn vắt treo mình nhỏng nhảnh,
Cối đạp đồng rất mạnh giã dần.
Ấy là phạt kẻ lường cân,
Ðo gian đong thiếu, Thánh Thần chẳng kiêng.
357. Bầy chó dữ mang xiềng chạy đại,
Thấy tội nhân xúm lại phân thây.
Hình nầy phạt kẻ dại ngây,
Khinh khi Tam giáo, đọa đày thế ni.

CHÚ THÍCH

Nhọn vắt: Bén nhọn lắm đến độ gây cảm giác ghê rợn.
Treo nhỏng nhảnh: Treo tòn teng đưa qua đưa lại.
Cối đạp đồng: Cái cối có chày đạp bằng đồng. Mỗi lần đạp lên cán chày thì chày dở lên cao rồi rớt xuống, đập mạnh xuống cối.
Giã: Dùng chày đập xuống cho nát ra. 
Dần: Dùng vật cứng đập nhiều lần cho mềm ra.
Lường cân: Cân thiếu để ăn lường (ăn gian).
Ðo gian đong thiếu: Ðo thiếu, đong không đủ để ăn gian. 
Kiêng: Nể sợ. 
Xiềng: Dây xích.
Chạy đại: Xông thẳng tới không có trật tự chi cả.
Phân thây: Cắn xé thi thể ra làm nhiều mảnh.
Tam giáo: Ba nền tôn giáo lớn ở cõi Á Ðông gồm: Phật giáo (Thích giáo), Tiên giáo (Lão giáo), Nho giáo (Khổng giáo).
Thế ni: Thế nầy. Ni là nầy, tiếng thông dụng ở miền Trung Việt Nam.

CHÁNH VĂN

361. Ao nước nóng sôi thì sục sục,
Dầm cho người rã rục thịt xương.
Cũng vì lòng dạ vô lương,
Ðệ huynh bất mục, chẳng thương đồng bào.
365. Nhiều gộp núi như đao chơm chởm,
Thấy dùn mình táng đởm rất ghê,
Thây người máu chảy dầm dề,
Tiếng la than khóc tư bề rùm tai.

CHÚ THÍCH

Dầm: Ngâm lâu vào nước. 
Rã rục: Mềm nhừ tơi ra.
Vô lương: Không tốt, không lương thiện.
Ðệ huynh bất mục: Anh em không hòa thuận nhau. Ðệ là em, huynh là anh, bất là không, mục là hòa thuận.
Ðồng bào: Cùng một bào thai, ý nói anh em ruột cùng một cha mẹ sanh ra. 
Nghĩa rộng: Ðồng bào là chỉ dân tộc Việt Nam, do sự tích về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam do Bà Âu Cơ lấy Lạc Long Quân, sanh ra một bào thai trong đó có 100 trứng, nở ra 100 người con. Bà Âu Cơ là Tiên, dẫn 50 đứa con lên núi ở, còn Lac Long Quân là Rồng dẫn 50 đứa con đi về phía biển Nam Hải. Số 50 người con đi về biển Nam Hải là thủy tổ của dân tộc Việt Nam, nên dân Việt Nam mới gọi nhau là đồng bào, và xưng mình là dòng giống Tiên Rồng.
Gộp núi: Mỏm núi nhô ra.
Táng đởm: Mất mật, chỉ sự sợ hãi dữ dội. Táng là mất, đởm hay đảm là mật. 
Thường nói: Táng đởm kinh hồn.
Tư bề rùm tai: Bốn phía ồn ào ầm ĩ làm khó chịu lỗ tai.
CHÁNH VĂN

369. Phạt những kẻ sửa ngay ra vạy,
Tớ phản thầy, quan lại bất trung.
Hành rồi giam lại Âm cung,
Ngày đêm đánh khảo, trăng cùm xiềng gông.
373. Hình bào lạc cột đồng vòi vọi,
Ðốt lửa hồng ánh giọi chói lòa.
Trói người vào đó xát chà,
Vì chưng hung bạo đốt nhà, bắn săn.

CHÚ THÍCH

Quan lại: Quan là người thay mặt triều đình cai trị dân, Lại là viên chức làm việc dưới quyền các quan.
Hành: Làm cho đau đớn khổ sở bằng những hình phạt.
Ðánh khảo: Ðánh đập, tra khảo.
Trăng cùm xiềng gông: Trăng còn gọi là cái Tróng, cái Cùm, dùng để giam chân tội nhân vào một chỗ nhứt định. Xiềng là sợi dây xích có 2 vòng sắt 2 đầu để khóa vào 2 tay hay 2 chân của tội nhân. Gông là cái khung gỗ nặng có khóa gài để tròng vào cổ tội nhân.
Bào lạc: Một dụng cụ hành hình rất ghê gớm, gồm một cái ống lớn bằng đồng, dựng đứng, bên trong đốt than cho cháy đỏ rực. Tội nhân bị cột vào ống đồng cho chết cháy.

- Kinh Sám Hối của Minh Lý 1973, Kinh Nhân Quả, Kinh Lễ, Kinh Thiên Đạo-Thế Đạo 1936:

  • quan lại.
- Kinh Thiên Đạo-Thế Đạo 1968, 1974, 1975:
  • tôi lại.
Tôi là bề tôi của vua, tức là các quan của triều đình.

KHẢO DỊ-
CHÁNH VĂN

377. Có cọp dữ nhăn răng đưa vấu,
Gặp tội nhân quào quấu xé thây.
Ấy vì lòng dạ chẳng ngay,
Giết người lấy của bị nay hình nầy.
381. Ao rộng lớn chứa đầy huyết phẩn,
Xô người vào lội lặn nhờm thay.
Tanh hôi mình mẩy vấy đầy,
Trồi lên hụp xuống, gậy cây đánh đầu.

CHÚ THÍCH

Ðưa vấu: Vấu là móng vuốt. Ðưa vấu là giương móng vuốt ra để chuẩn bị vồ mồi.
Tội nhân: Người có tội.
Quào quấu: Vừa quào vừa bấu vào.
Xé thây: Xé xác, xé thể xác ra nhiều mảnh.
Huyết phẩn: Máu và phân người.
Nhờm thay: Rất ghê tởm.
Vấy đầy: Dính đầy chất dơ bẩn.

Câu 384: Khi hụp xuống, đầu lút mặt nước thì thôi, hễ ngoi đầu lên đặng thở thì bị Quỉ sứ cầm cây gậy hờm sẵn đập vào đầu. Ðây là hình phạt rất khổ sở để trừng trị kẻ gian ác như 4 câu kế bên dưới.
CHÁNH VĂN

385. Ðể hành kẻ chứa xâu lường của,
Trù ếm người, chửi rủa Tổ tông.
Ðồ dơ giặt đổ rạch sông,
Ðương khi uế trược thẳng xông chỗ thờ.
389. Vào bếp núc lúc nhơ không kể,
Phơi áo quần chẳng nể Tam quang.
Buông lời tục tĩu dâm loàn,
Lâu mau nặng nhẹ, chịu mang tội nầy.

CHÚ THÍCH

Chứa xâu lường của: Lập sòng bài để người ta vào đánh bài đặng lấy tiền xâu; lừa gạt người để lấy tiền lấy của.
Ðồ dơ: Chỉ quần áo của phụ nữ lúc có kinh nguyệt bị dính dơ. Người xưa cho rằng, máu kinh nguyệt của phụ nữ là dơ bẩn nhứt. 
Uế trược: Dơ bẩn hôi hám. Uế là hôi hám.
Bếp núc: Nơi đặt bếp để nấu ăn.
Lúc nhơ: Lúc người phụ nữ bị dơ mình vì kinh nguyệt.
Tam quang: Ba vật sáng trên bầu trời gồm: Nhựt, Nguyệt, Tinh (mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao).

Câu 390: Phơi áo quần chẳng nể Tam quang: Người phụ nữ lúc có kinh nguyệt, không nên đem áo quần phơi ở chỗ trống có ánh sáng của Nhựt, Nguyệt, Tinh rọi tới; mà phải phơi ở chỗ nào khuất ánh sáng; nếu không nể Tam quang thì phải mang tội.

- Kinh Sám Hối của Minh Lý 1973:

  • Vào bếp núc lúc nhơ không kể.
- Kinh Nhân Quả, Kinh Lễ, Kinh Thiên Đạo-Thế Đạo 1936:
  • Vào bếp núp chỗ nhơ không kể.
- Kinh Thiên Đạo-Thế Đạo 1968, 1974, 1975:
  • Vào bếp núc chỗ nhơ không kể.

KHẢO DỊ-
CHÁNH VĂN

393. Ao rộng sâu chứa đầy giòi tửa,
Hơi tanh hôi thường bữa lẫy lừng.
Gạo cơm hủy hoại quen chừng,
Phạt ăn dơ dáy mới ưng tội hình.
397. Cột trói ngược quá kinh rất lạ,
Quỉ Dạ Xoa đánh, vả, kẹp, cưa.
Vì chưng chửi gió mắng mưa,
Kêu tên Thần Thánh chẳng chừa chẳng kiêng.

CHÚ THÍCH

Giòi tửa: Ruồi đẻ trứng tạo thành dề, gọi là tửa. Trứng ruồi nở ra con giòi, sống lúc nhúc trong chỗ dơ bẩn hôi thúi. Giòi tửa là chỉ chung trứng ruồi và giòi nhỏ giòi lớn.
Lẫy lừng: (Mùi hôi tanh) xông lên dữ dội.

Câu 395-396: Quen tánh hủy hoại cơm gạo, không quí trọng cơm gạo, loại lương thực căn bản nuôi sống con người, thì mắc tội, bị phạt ăn dơ dáy nơi cõi Âm phủ.

Mới ưng tội hình: Hình phạt nặng nề như thế mới xứng với tội lỗi đã gây ra.
Quá kinh: Quá sợ sệt. Kinh là sợ sệt.
Quỉ Dạ Xoa: Loài quỉ có hình dạng kỳ dị ở cõi Ðịa ngục, tánh rất ác, cầm các thứ khí giới để hành hình tội nhân.

Quỉ Dạ Xoa có răng nhọn như gươm, mắt sáng như điện nháng, móng tay như đồng, thường cầm kích đâm vào mắt, miệng hay bụng tội nhân nơi cõi Ðịa ngục.

Vì chưng: Vì bởi. 
Kiêng: Nể sợ.
Chẳng chừa chẳng kiêng: Không chừa ra, cũng không nể sợ.
CHÁNH VĂN

401. Bàn chông nhọn liền liền đánh khảo,
Tra tội nhơn gian giảo ngược ngang.
Hành người bế địch trợ hoang,
Thừa năm hạn đói mưu toan bức nghèo.

CHÚ THÍCH

Tra tội nhơn: Tra tấn người có tội, đánh đập nặng nề để truy tìm sự thật. 
Gian giảo: Gian dối xảo trá.
Bế địch trợ hoang: Bế là đóng lại, Ðịch là nhập cảng lúa gạo, Trợ là giúp, Hoang là mất mùa lúa vì bị Thiên tai. Bế địch trợ hoang là làm bế tắc việc nhập cảng lúa gạo trợ giúp nạn mất mùa. Dân chúng bị Thiên tai mất mùa, thiếu gạo ăn, cần phải nhập cảng lúa gạo để cứu giúp nạn mất mùa, mà có người cố ý làm cho việc nhập cảng ấy bị bế tắc, mục đích để đầu cơ tích trữ lúa gạo, bán ra thật mắc, thâu lợi thật nhiều.

Thừa năm hạn đói: Thừa là nhân cơ hội, hạn là nắng hoài không mưa làm lúa chết. Thừa năm hạn đói là thừa cơ hội những năm có nạn hạn hán kéo dài, lúa chết hết, dân chúng đói khổ. Mưu toan bức nghèo: Tính toán sắp đặt mưu kế để áp bức dân nghèo.

Hai câu 403-404: có ý nghĩa giống 4 câu số: 281-282-283-284. Cả 2 đoạn kinh trên đều nói về người đầu cơ tích trữ lúa gạo, có tánh tham lam hiểm độc, chờ lúc thất mùa, dân chúng đói khổ, giá lúa tăng cao, mở kho lúa gạo bán ra rất mắc, thâu lợi thật nhiều. Trời nào dung tha.

- Kinh Sám Hối của Minh Lý 1973, Kinh Lễ, Kinh Thiên Đạo-Thế Đạo 1936:

  • bế địch trợ hoang.
- Kinh Thiên Đạo-Thế Đạo 1968, 1974, 1975:
  • bế dịch trợ hoang.

KHẢO DỊ-
CHÁNH VĂN

405. Thành Uổng Tử cheo leo gớm ghiếc,
Cầm hồn oan rên siết khóc than.
Dương gian ngỗ nghịch lăng loàn,
Liều mình tự vận, không màng thảo ngay.
409. Xuống Ðịa ngục, đọa đày hành mãi,
Ðúng số rồi, còn phải luân hồi.
Hóa công xem xét đền bồi,
Lành siêu, dữ đọa, thêm nhồi tội căn.

CHÚ THÍCH

Thành Uổng Tử: Uổng tử là chết oan, chết mà chưa đúng số. Thành Uổng Tử là cái thành dùng làm nơi giam giữ các linh hồn của người chết oan do tự tử. 
Cầm: Giam cầm.
Tự vận: Tự là chính mình, vận hay vẫn là đâm vào cổ mà chết. Tự vận hay Tự vẫn là tự tử, tự giết mình.
Ðọa đày hành mãi: Bị đày đọa và hành hình mãi mãi.

Câu 410: Ðúng số rồi còn phải luân hồi, nghĩa là: Người tự vận chết oan vì chưa đúng số chết, thí dụ như đúng số chết là 31 tuổi, mà mới 21 tuổi đã liều mình tự tử. Linh hồn bị bắt xuống Thành Uổng Tử, bị đày đọa và hành hình mãi trong suốt 10 năm vì tội ngỗ nghịch lăng loàn, cho tới năm đúng số 31 tuổi, thì mới được xét cho đi đầu thai.

- Kinh Sám Hối của Minh Lý 1973:

  • Quá công.
- Kinh Nhân Quả, Kinh Lễ, Kinh Thiên Đạo-Thế Đạo 1936, 1968, 1974, 1975:
  • Hóa công.
Quá công: Quá là tội lỗi, công là công đức.
Hóa công: Ông thợ tạo hóa, đó là Ðức Chí Tôn Thượng Ðế.

KHẢO DỊ-
CHÁNH VĂN

413. Cầu Nại Hà bắc giăng sông lớn,
Tội nhơn qua óc rởn dùn mình.
Hụt chơn ván lại gập ghình,
Nhào đầu xuống đó, cua kình rỉa thây.
417. Nhiều thứ rắn mặt mày dữ tợn,
Ngóng cổ trông mắt trợn dòm người.
Gắp thây nuốt sống ăn tươi,
Vì bày thưa kiện, móc bươi xúi lời.

CHÚ THÍCH

Cầu Nại Hà: Nại hà có nghĩa là: Làm sao? Theo Phật giáo, ở cõi Ðịa ngục có con sông lớn, trong nước có: Cua, kình, rắn, rít, rất lớn và dữ tợn. Tội nhân đi đến đó, không có cách nào lội qua sông cho được an toàn, hoặc dùng thuyền bè qua sông cho được, nên mới nói Nại hà? Làm sao? Phép mầu ở cõi Ðịa ngục tạo ra một cây cầu mỏng mảnh, ván lót gập ghình, tội nhân buộc phải đi lên cầu để qua sông. Ai phước đức nhiều thì đi qua dễ dàng, ai thiếu phước đức, khi đến giữa cầu, bị lọt xuống sông, làm mồi cho cua rắn.
Rỉa thây: Cắn xé từng miếng nhỏ thân thể tội nhân.
Gắp thây: Dùng 2 hàm răng nhọn của cái mỏ dài cắn chặt vào thân thể tội nhân đem đi ăn thịt.
Móc bươi xúi lời: Bươi móc chuyện xấu của người, dùng lời nói xúi giục người làm điều sái quấy.

- Kinh Lễ năm 1952:

  • Gặp thây.
- Kinh Sám Hối của Minh Lý 1973, Kinh Nhân Quả, Kinh Thiên Đạo-Thế Đạo 1936, 1968, 1974, 1975:
  • Gắp thây.

KHẢO DỊ-
CHÁNH VĂN

421. Trong núi lửa bay hơi tanh khét,
Linh hồn người đầy nghẹt trong ngoài.
Phạt răn quến gái dụ trai,
Bày ra thuốc độc phá thai tuyệt loài.
* * *
425. Người ở thế mấy ai khỏi lỗi,
Biết lạc lầm sám hối tội căn.
Tu tâm sửa tánh ăn năn,
Ba giềng nắm chặt, năm hằng chớ lơi.

CHÚ THÍCH

Quến gái dụ trai: Quyến rũ gái non, dụ dỗ trai tơ.
Tuyệt loài: Mất hẳn nòi giống. Tuyệt là dứt.

Câu 424: Bày ra thuốc độc để phá thai, làm mất đi sự sanh sản lưu truyền nòi giống.

Ðạo Cao Ðài quan niệm việc phá thai là một trọng tội, bởi vì nó phạm tội sát sanh, giết chết một mạng sống đang hình thành và nẩy nở trong bụng mẹ; nhưng không chống lại việc ngừa thai, bởi vì ngừa thai là ngăn ngừa sự thành hình một mạng sống, nên chưa phạm tội sát sanh.

Tội căn: Căn là gốc rễ, chỉ những việc làm trong kiếp trước. Tội căn là tội lỗi đã gây ra trong kiếp trước.
Ba giềng: dịch chữ Tam cang. Tam cang gồm: Quân thần cang [Giềng mối vua tôi], Phu tử cang [Giềng mối cha con], Phu thê cang [Giềng mối vợ chồng]. 
Năm hằng: dịch chữ Ngũ thường. Ngũ thường gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
CHÁNH VĂN

429. Ngặt có kẻ tưởng Trời tin Phật,
Mà trong lòng chẳng thật kính thành.
Lâm nguy miệng vái làm lành,
Tai qua rồi lại dạ đành phụ vong.
433. Chớ thái quá, đừng lòng bất cập,
Phép tu hành luyện tập nhiều ngày.
Làm lành, xem phải, nói ngay,
Giữ ba điều ấy thiệt rày phước duyên.

CHÚ THÍCH

Lâm nguy: Ðến lúc gặp nguy hiểm. Lâm là tới, đến.
Phụ vong: Phụ là ăn ở bạc bẽo, vong là quên. Phụ vong là ăn ở bạc bẽo và quên hết ơn nghĩa đã thọ lãnh.

Hai câu 431-432: có ý nghĩa giống 2 câu 17-18:

Khi vận thới lung lăng chẳng kể,
Lúc suy vi bày lễ khẩn cầu.


Thái quá: Thái là rất, lắm; Quá là qua. Thái quá là vượt khỏi mức bình thường.
Bất cập: Cập là tới kịp. Bất cập là không tới kịp, tức là chưa đúng mức.

Thái quá và bất cập là 2 trạng thái đối chọi nhau: Một là làm việc quá mức, hai là làm việc lè phè. Cả hai đều có hại và khó đạt đến thành công. Phải giữ lấy Trung Dung làm căn bản, làm việc đều hòa, siêng năng, vừa phải, thì chắc chắn đạt được kết quả tốt đẹp.

Rày: Nay, từ nay về sau.
Phước duyên: Ðiều may mắn tốt lành có được do cái duyên lành tạo ra từ kiếp trước.
CHÁNH VĂN

437. Lời kệ sám duy truyền khuyến thiện,
Câu văn từ luận biện thật thà.
Chẳng dùng những tiếng sâu xa,
E không hiểu thấu, diễn ra ích gì!
441. Chớ buông tiếng thị phi khinh dể,
Rán làm lành phước để cháu con.
Làm người nhơn nghĩa giữ tròn,
Muôn năm bóng khuất, tiếng còn bay xa.

CHÚ THÍCH

Kệ sám: Kệ là bài văn để ngâm, có nội dung giải thích một bài kinh, Sám là ăn năn những lầm lỗi đã qua và thật lòng muốn sửa đổi. Lời kệ sám là chỉ bài Kinh Sám Hối.
Duy truyền: Duy là chỉ có, truyền là trao lại. Duy truyền là chỉ truyền lại với mục đích nhứt định.
Văn từ: Văn chương chữ nghĩa.
Luận biện: Biện luận, đưa ra lý lẽ bàn bạc đúng sai.
Buông tiếng: Nói ra thiếu suy nghĩ. 
Thị phi: Phải trái.

Câu 441: (Khi đọc bài Kinh Sám Hối nầy, thấy lời văn giản dị, dùng chữ bình dân), thì nói ra lời thị phi thiếu suy nghĩ, và tỏ ý khinh rẻ câu văn mộc mạc thật thà.)

Bóng khuất: Ý nói đã chết, hình bóng khuất rồi.

- Kinh Sám Hối của Minh Lý 1973, Kinh Nhân Quả:

  • duy truyền.
- Kinh Lễ, Kinh Thiên Đạo-Thế Đạo 1936, 1968, 1974, 1975:
  • di truyền.
Di truyền: Di là sót lại, để lại; truyền là trao lại. Di truyền là truyền lại cho thế hệ sau những điểm giống thế hệ trước.

KHẢO DỊ-
Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối

Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối


(Giọng Nam Xuân)

BÀI KINH

  1. Nghe lời khuyến thiện rất may,
  2. Nguyện lòng niệm Phật, ăn chay làm lành.
  3. Ngày ngày tập sửa tánh thành,
  4. Ðêm đêm tự tỉnh tu hành ăn năn.
  5. Một là hối ngộ tội căn,
  6. Hai là cầu đặng siêu thăng Cửu huyền.
  7. Ðương sanh hạnh hưởng phước duyên,
  8. Trong nhà già trẻ miên miên thái bình.
  9. Sau dầu đến chốn Diêm đình,
  10. Linh hồn trong sạch nhẹ mình thảnh thơi.
  11. Luân hồi trở lại trên đời,
  12. Tiền công thì cũng Phật Trời thưởng ban.
  13. Cầu xin trăm họ bình an,
  14. Nước giàu dân mạnh thanh nhàn muôn năm.

CHÚ THÍCH


Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối do Ðức Ðông Phương Lão Tổ (một biệt hiệu của Ðức Thái Thượng Ðạo Quân) giáng cơ ban cho, tiếp nối ngay sau Bài Kinh Sám Hối.

Khuyến thiện: Khuyên người ta làm lành.
Nguyện lòng: Tự hứa chắc với lòng mình.
Niệm Phật: Tụng kinh và niệm danh hiệu các vị Phật.
Ăn chay: Ăn các loại thực phẩm là thảo mộc hay xuất phát từ thảo mộc, hoặc được chế biến từ thảo mộc.
Còn Ăn mặn là ăn các thực phẩm là thịt động vật, hay xuất phát từ động vật, hoặc được chế biến từ động vật. Ăn tôm, cua, sò, ốc, khô mực, trứng gà, ... đều là Ăn mặn.
Tánh thành: Tánh nết ngay thẳng thành thật.
Tự tỉnh: Tự mình thức tỉnh để biết điều sái quấy mà sửa chữa.
Tu hành: Tu là sửa, hành là làm. Tu hành là ăn ở, cư xử, làm đúng theo giới luật của tôn giáo.
Hối ngộ: Hối hận và giác ngộ.
Tội căn: Tội lỗi đã gây ra trong kiếp sống trước.
Siêu thăng: Bay vượt lên cao lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Cửu Huyền: (Xem chi tiết: C.20 Kinh Cầu Tổ Phụ Ðã Qui Liễu).
Ðương sanh: Ðang sống nơi cõi trần .
Hạnh hưởng: May mắn được hưởng.
Phước duyên: Hưởng được điều may mắn tốt đẹp do cái duyên lành trong kiếp trước tạo ra.
Miên miên: Lâu dài mãi. Miên là lâu dài.
Diêm đình: Triều đình của Diêm Vương cõi Âm phủ.
Linh hồn trong sạch: (Xem: C.4 Kinh Hạ Huyệt).
Luân hồi: (Xem: C.6 Kinh Giải Oan).
Tiền công: Tiền là trước, công là công đức, công quả. Tiền công là công đức hay công quả đã làm được trong kiếp sống trước.
Trăm họ: dịch chữ Bá tánh, chỉ dân chúng.
Bài Xưng Tụng Công Ðức Phật, Tiên, Thánh, Thần

Bài Xưng Tụng Công Ðức Phật, Tiên, Thánh, Thần


(Giọng Nam Xuân)

BÀI KINH

  1. Hào quang chiếu chín từng mây bạc,
  2. Thần Thánh Tiên thừa hạc cỡi rồng.
  3. Phép linh thiệt rất chí công,
  4. Hóa sanh muôn vật, ngưỡng trông phước đời.
  5. Trên điện ngọc, Vua Trời ngự giáng,
  6. Trước đền vàng phán đoán phân minh.
  7. Cõi trần, Trung giới thinh thinh,
  8. Phàm gian lao khổ đao binh tai nàn.
  9. Lòng Trời cảm cứu an lê thứ,
  10. Ðộ chúng sanh muôn xứ gội ơn.
  11. Ðạo Nho truyền dạy nghĩa nhơn,
  12. Văn Tuyên Khổng Thánh khuyến dân răn đời.
  13. Ghi các sách ngàn lời để lại,
  14. Chép vào thơ vạn đại truyền ra.
  15. Tây phương cõi Phật chói lòa,
  16. Từ bi Phật Tổ hải hà độ dân.
  17. Lòng cảm xót dương trần lận đận,
  18. Ra oai linh tiếp dẫn nhơn cầm.
  19. Phổ Ðà có Phật Quan Âm.
  20. Ra công cứu thế, ân thâm đức dày.
  21. Nhiều kiếp đã đầu thai biết mấy,
  22. Xuống hồng trần khuyến dạy thương sanh.
  23. Lão Quân ứng hóa Tam Thanh,
  24. Khuyên răn nhơn vật lòng lành chớ xao.
  25. Cơ huyền diệu Ðạo Cao minh chánh,
  26. Hiển phép mầu ma lánh quỉ kiêng.
  27. Trừ yêu có Thánh Tề Thiên.
  28. Qui y Phật pháp ở miền Tây phương.
  29. Oai bốn hướng,Thần nhường quỉ sợ,
  30. Ðức ba giềng tế trợ thương sanh.
  31. Hớn Trào Quan Thánh bia danh,
  32. Trung can nghĩa khí háo sanh giúp đời.
  33. Tuần ba cửa cõi Trời đều dụng,
  34. Xét bốn phương dân chúng dữ lành.
  35. Linh Tiêu Thái Bạch Trường Canh,
  36. Truyền tâu Ðế Khuyết dữ lành nhơn gian.
  37. Chí từ huệ giúp an lê thứ,
  38. Thông rõ đời nhơn sự kiết hung.
  39. Ðại Tiên ở chốn Thiên cung,
  40. Lòng lành thi phú thung dung độ người.
  41. Ánh Xá lợi sáng ngời Cực Lạc.
  42. Hiện kim thân Bồ Tát hóa duyên.
  43. Thiên cung Tinh Tú, Thánh, Tiên,
  44. Ðịa Kỳ, Thần Tướng đàn tiền giáng lâm.
  45. Lòng sở vọng lâm dâm tụng niệm,
  46. Xin giải nàn Nam Thiệm Bộ Châu.
  47. Chúng sanh cảm đức cao sâu,
  48. Rèn lòng sửa nết lo âu làm lành.

GIẢI NGHĨA



Bài Xưng Tụng Công Ðức Phật Tiên Thánh Thần gồm 48 câu thơ song thất lục bát, do Ðức Thái Thượng Lão Quân giáng cơ ban cho 40 câu thơ đầu, Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật giáng tiếp cho thêm 8 câu chót là trọn bài, tại đàn cơ Minh Lý Ðạo vào đầu năm Ất Sửu (1925).

Thuở Khai Ðạo, Ðức Chí Tôn dạy Phật giáo và Ngũ Chi Minh Ðạo dâng kinh cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ , nên Hội Thánh đến Minh Lý thỉnh bài Kinh nầy về làm Kinh Ðạo Cao Ðài.

Câu 1-2:
Hào quang chiếu chín từng mây bạc,
Thần Thánh Tiên thừa hạc cỡi rồng.

Hào quang: Ánh sáng tỏa ra chung quanh, thấy giống như những cái lông nhọn túa ra. Ánh sáng nầy mát dịu chớ không nóng bức như ánh sáng mặt Trời.
Chín từng mây bạc: 9 từng Trời có mây màu trắng bạc.
Thừa hạc: Cỡi lên chim hạc.

C.1-2: Ánh hào quang chiếu sáng Chín từng Trời có mây màu trắng bạc. Chư Thần, Thánh, Tiên, Ðấng thì cỡi hạc, Ðấng thì cỡi rồng.

Câu 3-4:
Phép linh thiệt rất chí công,
Hóa sanh muôn vật, ngưỡng trông phước đời.

Phép linh: Cái Pháp thiêng liêng của Ðức Chí Tôn.

"Thầy khai Bát Quái mà tác thành Càn Khôn Thế Giới nên mới gọi là Pháp, Pháp có mới sanh ra Càn Khôn Vạn Vật rồi mới có người nên gọi là Tăng. Thầy là Phật, chủ cả Pháp và Tăng, lập thành các Ðạo mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. I. 52).

C.3-4: Cái Pháp Thiêng Liêng của Ðức Chí Tôn rất công bình, hóa sanh ra vạn vật, trông ngóng điều tốt lành cho cõi đời.

Câu 5-6:
Trên điện ngọc, Vua Trời ngự giáng,
Trước đền vàng phán đoán phân minh.

Ðiện ngọc: Cung điện bằng ngọc, đó là Linh Tiêu Ðiện trong Ngọc Hư Cung, nơi Ðức Chí Tôn họp Thiên triều.
Vua Trời: Ðức Chí Tôn.
Ngự giáng: Ðức Chí Tôn đi xuống.
Ðền vàng: Ðền của vua làm bằng vàng ròng, đó là Huỳnh Kim Khuyết. (Xem: C.5 Kinh Ngọc Hoàng Thượng Ðế).

C.5-6: Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế từ trên Linh Tiêu Ðiện đi xuống, đến trước Huỳnh Kim Khuyết xem xét công việc và quyết đoán một cách rõ ràng.

Câu 7-8:
Cõi trần, Trung giới thinh thinh,
Phàm gian lao khổ đao binh tai nàn.

Trung giới: Trung giái, là cõi trung gian giữa Hạ giới và Thượng giới. Hạ giới là cõi trần, Thượng giới là cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Ấy là sự phân chia Càn Khôn Vũ Trụ làm 3 cõi giới một cách tổng quát của các Thánh Hiền xưa. Ðao binh: chỉ cảnh chiến tranh. Ðao là cây đao, vũ khí đánh giặc thời xưa; binh là lính.

C.7-8: Cõi trần và cõi Trung giới rộng lớn mênh mông, nhơn loại nơi cõi trần mệt nhọc khổ sở vì chiến tranh và tai nạn.

Câu 9-10:
Lòng Trời cảm cứu an lê thứ,
Ðộ chúng sanh muôn xứ gội ơn.

Cảm: Mối rung động trong lòng.
Lê thứ: Dân chúng.

C.9-10: Tấm lòng của Ðức Thượng Ðế cảm động, giúp đỡ dân chúng được an ổn, cứu giúp chúng sanh ở khắp nơi và ban cho nhiều ơn huệ.

Câu 11-12:
Ðạo Nho truyền dạy nghĩa nhơn,
Văn Tuyên Khổng Thánh khuyến dân răn đời.

Nghĩa Nhân: 2 điều căn bản trong giáo lý Nho giáo. Nhân là tình thương yêu rộng lớn, nghiêng về tình cảm; Nghĩa là việc làm chánh đáng theo lẽ phải, nghiêng về lý trí. Hai mặt Nhân và Nghĩa cần đi liền nhau, bổ sung cho nhau. Nhân là nơi yên ổn của con người, Nghĩa là con đường chánh của con người: Ở thì theo đạo Nhân, làm thì noi theo đường Nghĩa.
Văn Tuyên: Văn Tuyên Vương, tên thụy của Ðức Khổng Tử.

C.11-12: Ðức Khổng Thánh, Giáo chủ Ðạo Nho, truyền dạy về Nhân và Nghĩa, khuyên răn dân chúng.

Câu 13-14:
Ghi các sách ngàn lời để lại,
Chép vào thơ vạn đại truyền ra.

Thơ: tức là Thư: sách.
Vạn đại: Muôn đời. Ðại là đời.

C.13-14: Các kinh sách xưa để lại, trong đó ghi chép biết bao lời hay ý đẹp của Thánh Hiền, truyền lại muôn đời.

Câu 15-16:
Tây phương cõi Phật chói lòa,
Từ bi Phật Tổ hải hà độ dân.

Tây phương cõi Phật: Cõi Cục Lạc Thế Giới là cõi của chư Phật. Phật Tổ: Ðức Phật Thích Ca. Hải hà: Hải là biển, hà là sông. Hải hà là sông biển, ý nói lòng dạ rộng rãi như sông biển.

C.15-16: Cõi Cục Lạc Thế Giới ở hướng Tây là cõi Phật, ánh hào quang chiếu sáng rực rỡ. Ðức Phật Thích Ca, Tổ Sư Phật giáo, có lòng từ bi rộng lớn như sông như biển, cứu giúp dân chúng.

Câu 17-18:
Lòng cảm xót dương trần lận đận,
Ra oai linh tiếp dẫn nhơn cầm.

Cảm xót: Cảm động thương xót.
Dương trần: Cõi trần, cõi của nhơn loại đang sống.
Nhơn cầm: Loài người và loài chim, ý nói Chúng sanh nơi cõi trần.

C.17-18: Lòng của Phật cảm động thương xót chúng sanh nơi cõi trần chịu nhiều nỗi khó khăn vất vả, nên Phật dùng oai quyền thiêng liêng để tiếp dẫn chúng sanh.

Câu 19-20:
Phổ Ðà có Phật Quan Âm.
Ra công cứu thế, ân thâm đức dày.

Phổ Ðà: Phổ Ðà Sơn ở biển Nam Hải, là nơi Công Chúa Diệu Thiện tu hành đắc quả, hiệu là Quan Thế Âm Bồ Tát.
Ân thâm đức dày: Ơn đức sâu dày.

C.19-20: Ở Phổ Ðà Sơn có Ðức Phật Quan Âm đắc đạo, Ngài ra công cứu giúp người đời, ơn đức sâu dày.

Câu 21-22:
Nhiều kiếp đã đầu thai biết mấy,
Xuống hồng trần khuyến dạy thương sanh.

Hồng trần: Bụi đỏ, chỉ cõi trần.
Thương sanh: Nhơn sanh.

C.21-22: Ðây là nói về Ðức Phật Quan Âm, đã đầu thai xuống cõi trần rất nhiều kiếp để khuyên dạy nhơn sanh.

Ðức Phật Quan Âm, Ngài còn muốn làm một vị Bồ Tát để cứu độ chúng sanh, nên Ngài xưng là Quan Thế Âm Bồ Tát, được Ðức Chí Tôn giao nhiệm vụ Nhị Trấn Oai Nghiêm của Ðạo Cao Ðài, cầm quyền Phật giáo thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ .

Câu 23-24:
Lão Quân ứng hóa Tam Thanh,
Khuyên răn nhơn vật lòng lành chớ xao.

Lão Quân: Ðức Lão Tử là một kiếp giáng trần của Ðức Thái Thượng Ðạo Tổ, mở Tiên giáo thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ, nên được gọi là Thái Thượng Lão Quân.
Ứng hóa: Ứng là hiện ra để đáp lại, hóa là biến hóa. Ứng hoá là biến hóa hiện ra để đáp lại.
Tam Thanh: Ba Thanh: Thái Thanh, Thượng Thanh và Ngọc Thanh.

C.23-24: Ðức Thái Thượng Lão Quân biến hóa và hiện ra Tam Thanh (ý nói pháp thuật rất cao siêu huyền diệu), thường khuyên răn chúng sanh, giữ được tấm lòng lành (Thiện tâm), chớ nên xao lãng.

Câu 25-26:
Cơ huyền diệu Ðạo Cao minh chánh,
Hiển phép mầu ma lánh quỉ kiêng.

Cơ huyền diệu: Cơ quan huyền diệu, đó là Thiên cơ, Máy Trời. Ðạo Cao: Cái Ðạo cao siêu. Ðạo Cao còn có thể hiểu là Ðạo Cao Ðài do Ðức Chí Tôn sáng lập.
Minh chánh: Sáng tỏ, ngay thẳng.
Hiển: Hiện ra.
Phép mầu: Pháp thuật huyền diệu.

C. 25-26: Ðạo là cơ quan huyền diệu, cao siêu, sáng tỏ, chơn chánh. Hiện rõ ra các pháp thuật huyền diệu làm cho ma quỉ nể sợ tránh xa.

Câu 27-28:
Trừ yêu có Thánh Tề Thiên.
Qui y Phật pháp ở miền Tây phương.

Thánh Tề Thiên: Tề Thiên Ðại Thánh.
Qui y Phật pháp: Qui y theo Ðạo Phật. Qui y là nguyện tin và làm đúng theo lời Phật dạy, quyết gởi trọn đời mình cho Ðạo pháp.

C.27-28: Trừ diệt yêu quái thì có Tề Thiên Ðại Thánh. Ngài đã qui y theo Ðạo Phật ở cõi Tây phương Cực Lạc.

Theo truyện Tây Du, Tề Thiên Ðại Thánh loạn Thiên Cung, bị Phật Tổ bắt, phạt đè dưới Ngũ Hành Sơn 500 năm.

Nhà sư Tam Tạng đi ngang, được Phật Tổ chấp thuận cho cứu Tề Thiên khỏi nạn núi đè, thâu làm đồ đệ. Tề Thiên bảo hộ Tam Tạng đi Tây phương thỉnh kinh. Nhờ công quả nầy, Tề Thiên đắc Phật vị, hiệu là Chiến Ðấu Thắng Phật.

Câu 29-30:
Oai bốn hướng,Thần nhường quỉ sợ,
Ðức ba giềng tế trợ thương sanh.

Bốn hướng: Bốn phương, ý nói khắp nơi.
Tế trợ: Tế là giúp đỡ, trợ là giúp cho.
Ba giềng: Tam cang.

C.29-30: Cái oai quyền của Ðức Quan Thánh trong khắp 4 phương, Thần phải nhường, quỉ phải sợ. Cái đức của Ngài là giữ vững Tam cang và cứu giúp nhơn sanh.

Câu 31-32:
Hớn Trào Quan Thánh bia danh,
Trung can nghĩa khí háo sanh giúp đời.

Hớn trào Quan Thánh: Ngài là Quan Vân Trường, được nhà Hán phong chức Hớn Thọ Ðình Hầu (thời Tam Quốc), khi chết thì hiển Thánh, hiệu là Quan Thánh Ðế Quân.
Bia danh: Cái danh tiếng để lại cho đời sau.
Trung can: Trung thành và can đảm.
Nghĩa khí: Lòng dạ cứng cỏi ưa chuộng điều phải, ghét điều sái quấy tà gian. Háo sanh: Ưa thích sự sống.

C.31-32: Ðức Quan Thánh hiển Thánh vào cuối thời nhà Hớn bên Tàu, để lại danh tiếng cho đời, gồm đủ Trung can Nghĩa khí, có đức Háo sanh giúp đời.

Ðức Quan Thánh, sau khi đắc vị Thánh, Ngài dùng oai đức cứu độ chúng sanh, diệt quỉ trừ ma giúp đời. Nhờ công đức nầy, về sau Ngài đắc quả Cái Thiên Cổ Phật. Trong thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ , Ngài được Ðức Chí Tôn giao cho nhiệm vụ Ðệ Tam Trấn Oai Nghiêm, cầm quyền Nho giáo.

Câu 33-34:
Tuần ba cửa cõi Trời đều dụng,
Xét bốn phương dân chúng dữ lành.

Hai câu nầy bắt đầu nói về Ðức Lý Thái Bạch:
Nơi cõi Trời, Ngài có nhiệm vụ tuần tra 3 cửa Trời.
Nơi cõi trần, Ngài xem xét việc lành việc dữ của dân chúng khắp bốn phương.

Câu 35-36:
Linh Tiêu Thái Bạch Trường Canh,
Truyền tâu Ðế Khuyết dữ lành nhơn gian.

Linh Tiêu: Linh Tiêu Ðiện trong Ngọc Hư Cung, nơi họp triều đình của Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế.

Thái Bạch Trường Canh: Sao Thái Bạch, còn được gọi là sao Trường Canh. Ðó là Sao Kim hay Kim Tinh, nhập chung lại gọi là Thái Bạch Kim Tinh. Vì sao Thái Bạch có một lần đầu kiếp xuống trần, vào nhà họ Lý, đời Ðường bên Tàu. Bà mẹ có thai, chiêm bao thấy sao Thái Bạch rơi vào lòng bà, liền sanh ra Ngài, nên đặt tên Lý Thái Bạch, gọi tắt Lý Bạch.

Hiện nay, thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ , Ðức Lý Thái Bạch là một vị Ðại Tiên Trưởng, lãnh nhiệm vụ Nhứt Trấn Oai Nghiêm, cầm quyền Tiên giáo, và lại được Ðức Chí Tôn giao cho kiêm nhiệm chức Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ . Như vậy, Ðạo Cao Ðài có một vị Giáo Tông đầu tiên là Ðức Lý Thái Bạch, ở cõi thiêng liêng, với Tịch Ðạo đầu tiên là Thanh Hương.

Ðế Khuyết: Ðấng Thượng Ðế nơi Huỳnh Kim Khuyết.

C.35-36: Ðức Lý Thái Bạch vào Linh Tiêu Ðiện, tâu bày với Ðức Chí Tôn các việc lành dữ của nhơn loại ở thế gian.

Câu 37-38:
Chí từ huệ giúp an lê thứ,
Thông rõ đời nhơn sự kiết hung.

Chí: Cái ý muốn mạnh mẽ.
Từ: Lòng thương yêu chúng sanh.
Huệ: Lòng nhân ái, thương người.
Lê thứ: Dân chúng.
Nhơn sự: Việc người.
Kiết: Lành.
Hung: Dữ.

C.37-38: Cái chí của Ngài là thương yêu và giúp nhơn sanh an ổn. Ngài biết rõ việc đời, việc người, việc lành việc dữ.

Câu 39-40:
Ðại Tiên ở chốn Thiên cung,
Lòng lành thi phú thung dung độ người.

Ðức Lý Thái Bạch là một vị Ðại Tiên ở Thiên Cung (cõi Trời), với tấm lòng lành, Ngài thảnh thơi dùng văn chương thi phú dạy dỗ và cứu giúp người đời.

- Kinh Sám Hối. MLÐ, Kinh Lễ, Kinh Thiên Đạo - Thế Đạo 1936:
  • Thiên cung.
- Kinh Thiên Đạo - Thế Đạo 1968, 1974, 1975:
  • Tiên cung.
KHẢO DỊ -
Câu 41-42:
Ánh Xá lợi sáng ngời Cực Lạc.
Hiện kim thân Bồ Tát hóa duyên.

Xá lợi: Chơn thần của Ðức Phật. (Xem giải nghĩa Xá lợi tử trong Di Lạc Chơn Kinh).
Ánh Xá lợi: Ánh hào quang phát ra từ Chơn thần Ðức Phật.
Kim thân: Mình vàng.
Hóa duyên: Hóa là cầu xin, duyên là mối dây ràng buộc. Hóa duyên là nhà sư đi quyên tiền làm việc công đức như xây chùa, đúc tượng, khiến người ta đóng góp tiền bạc, tức là giúp người ta kết duyên lành với Phật.

Hóa còn có nghĩa là Giáo hóa. Trong trường hợp nầy, Hóa duyên là nhân duyên giáo hóa. Phật hay Bồ Tát đến cõi đời nầy là vì có nhân duyên giáo hóa nhơn sanh. Khi nhân duyên ấy hết thì Phật liền trở về ngay.

C.41-42: Ánh hào quang phát ra từ Chơn thần Ðức Phật làm sáng ngời cõi Cục Lạc Thế Giới. Chư vị Bồ Tát hiện ra Kim thân đi giáo hóa những người có duyên lành với Phật.

Câu 43-44:
Thiên cung Tinh Tú, Thánh, Tiên,
Ðịa Kỳ, Thần Tướng đàn tiền giáng lâm.

Thiên cung: chỉ Cõi Trời. Tinh tú: Các vì sao, ý nói các vị Tinh Quân.
Ðịa Kỳ: Ðịa là đất, Kỳ là Ông Thần đất. Ðịa Kỳ là các vị Thần đất.
Thần Tướng: Các vị Thần làm tướng trấn nhậm ở các địa phương.
Ðàn tiền: Trước đàn cúng tế.
Giáng lâm: Ði xuống tới. Giáng là đi xuống, lâm là tới.

C.43-44: Nơi Thiên cung, các vị Tinh Quân, các vị Thánh và Tiên, các vị Thần Ðất, các vị Thần Tướng, xin giáng lâm trước đàn cúng tế.

Câu 45-46:
Lòng sở vọng lâm dâm tụng niệm,
Xin giải nàn Nam Thiệm Bộ Châu.

Sở vọng: Ðiều quan trọng mà mình hằng mong ước.
Nam Thiệm Bộ Châu: Một Châu lớn trong Tứ Ðại Bộ Châu nơi cõi thiêng liêng. Cõi trần, tức là Ðiạ cầu 68 của nhơn loại thuộc về Nam Thiệm Bộ Châu.

C.45-46: Lòng sở vọng mong cầu, lâm râm tụng kinh niệm Phật, cầu xin các Ðấng Thiêng liêng giải nạn cho nhơn loại nơi cõi trần thuộc Nam Thiệm Bộ Châu.

Câu 47-48:
Chúng sanh cảm đức cao sâu,
Rèn lòng sửa nết lo âu làm lành.

Chúng sanh cảm đội ơn đức cao sâu của Ðức Chí Tôn và các Ðấng Thiêng Liêng, lo tu tâm sửa tánh, và lo âu làm lành.
Giới Tâm Kinh

Giới Tâm Kinh


(Giọng Nam Xuân)

BÀI KINH


  1. Vọng Thượng Ðế chứng lòng thành tín,
  2. Chúng sanh đồng bái kỉnh khẩn nguyền.
  3. Nguyền cho trăm họ bình yên,
  4. Nhà nhà no ấm khỏi phiền khỏi than.
  5. Nguyền Khổng Thánh bảo toàn Nho giáo,
  6. Lấy nghĩa nhân Ðại Ðạo truyền ra.
  7. Tây phương Phật Tổ, Di-Ðà,
  8. Nam Hải Phổ Ðà có Phật Quan Âm.
  9. Lẽ báo ứng cao thâm huyền diệu,
  10. Cho chúng sanh đặng hiểu răn mình.
  11. Ðạo Quân đức hóa háo sinh,
  12. Rộng quyền máy nhiệm an linh cứu đời.
  13. Xin xót thương con người ngây dại,
  14. Phép huyền hư truyền dạy thế gian.
  15. Mong nhờ lịnh Ðức Thánh Quan,
  16. Ra oai tiêu diệt cho tàn ác ma.
  17. Trường Canh chói rạng lòa Kim Khuyết,
  18. Xin ban ơn giải nghiệt cho đời.
  19. Tề Thiên Ðại Thánh để lời,
  20. Thiện nam, Tín nữ nghe thời phải vưng.
  21. Chớ tự phụ, cũng đừng khi ngạo,
  22. Lẽ Trời hằng quả báo chẳng sai.
  23. Lời khuyên già trẻ gái trai,
  24. Khá tua sửa nết, ăn chay làm lành.
  25. Ðấng Tạo Hóa hóa sanh muôn vật,
  26. Phú cho người tánh rất linh thông.
  27. Ðặt ra có họ có dòng,
  28. Vua, Thầy, cha mẹ, vợ chồng, cháu con.
  29. Tình huynh đệ tày non tợ biển,
  30. Nghĩa hữu bằng phải kiếng phải tin.
  31. Cang tam Thường ngũ phải gìn,
  32. Chứa đức làm lành, làm phước, làm doan.
  33. Gặp người đói rách khốn nàn,
  34. Ra tay chẩn cứu cho toàn nghĩa nhân.
  35. Mựa chớ ham giọng đờn tiếng quyển,
  36. Thói dâm phong rù quến nguyệt hoa.
  37. Có ngày hư nát cửa nhà,
  38. Xa gần đồn tiếng thúi tha vô cùng.
  39. Trường đổ bác cũng đừng léo tới,
  40. Phường trăng hoa hát bội khá từ.
  41. Những điều nhơ nhuốc phải chừa,
  42. Hỗn hào mắng nhiếc, nói thừa nói thêm.
  43. Nơi Ðịa ngục gông kềm sẵn đủ,
  44. Ðể răn loài dâm phụ gian phu.
  45. Ai ai bền chí mà tu,
  46. Phước đem đổi tội cho phu dễ gì?

Có Thơ Rằng :


GIẢI NGHĨA



Bài Giới Tâm Kinh do các Ðấng Thiêng liêng giáng cơ ban cho chi Minh Tân, một trong Năm chi Minh Ðạo. Hội Thánh đến thỉnh bài kinh nầy về làm kinh Đại Đạo Tam Kỳ Khổ Độ.

Giới Tâm kinh: Giới là răn cấm, Tâm là lòng dạ. Giới Tâm Kinh là bài kinh có nội dung dạy người sửa tánh răn lòng.

Câu 1-2: Vọng Thượng Ðế chứng lòng thành tín,
Chúng sanh đồng bái kỉnh khẩn nguyền.

Vọng: Trông ngóng.
Bái kỉnh: Lạy với lòng kính trọng.
Khẩn nguyền: Tha thiết mong ước cầu xin.

C.1-2: Trông mong Ðức Chí Tôn chứng lòng thành thật tín ngưỡng. Chúng sanh đồng kính lạy và tha thiết cầu xin.

Câu 3-4: Nguyền cho trăm họ bình yên,
Nhà nhà no ấm khỏi phiền khỏi than.

Cầu xin cho dân chúng (Bá tánh) được bình yên, mọi nhà đều được no ấm, không còn phiền não, không còn than van.

Câu 5-6: Nguyền Khổng Thánh bảo toàn Nho giáo,
Lấy nghĩa nhân Ðại Ðạo truyền ra.

Nghĩa nhân
: Nhân là tình thương yêu rộng lớn, Nghĩa là việc làm chánh đáng theo lẽ phải. Nhân là nơi yên ổn của con người, Nghĩa là con đường chánh của con người. Ở thì theo đạo Nhân, làm thì noi theo đường Nghĩa.
Ðại Ðạo: Đại Đạo Tam Kỳ Khổ Độ tức Ðạo Cao Ðài, chủ trương Nho Tông Chuyển Thế, lấy tinh hoa giáo lý Nho giáo để khuyến dạy nhơn sanh, làm cho đời trở nên thuần lương đạo đức.

C.5-6: Cầu xin Ðức Khổng Thánh bảo toàn Nho giáo. Ðạo Cao Ðài với chủ trương Nho Tông Chuyển Thế, lấy 2 điều căn bản Nhân và Nghĩa của Nho giáo truyền rộng ra.

Câu 7-8: Tây phương Phật Tổ, Di-Ðà,
Nam Hải Phổ Ðà có Phật Quan Âm.

Phật Tổ: Ðức Phật Thích Ca là Tổ sư của Phật giáo.
Di-Ðà: Ðức Phật A-Di-Ðà.
Nam Hải Phổ Ðà: Núi Phổ Ðà ở biển Nam Hải cõi Thiêng Liêng, là nơi Công Chúa Diệu Thiện đắc đạo thành Phật hiệu là Quan Thế Âm.

C.7-8: Nơi Cực Lạc Thế Giới, có Ðức Phật Thích Ca và Ðức A-Di-Ðà Phật. Nơi Phổ Ðà Sơn biển Nam Hải có Ðức Phật Quan Âm.

Câu 9-10: Lẽ báo ứng cao thâm huyền diệu,
Cho chúng sanh đặng hiểu răn mình.

Báo ứng: Ứng hiện ra để báo đáp những điều đã làm thuở trước, đúng theo Luật Nhân quả.
Cao thâm: Cao sâu.

C.9-10: Lẽ báo ứng của Trời Ðất rất cao sâu huyền diệu, để cho chúng sanh hiểu rõ mà răn mình.

Câu 11-12: Ðạo Quân đức hóa háo sinh,
Rộng quyền máy nhiệm an linh cứu đời.

Ðạo Quân: Ðức Thái Thượng Ðạo Quân.
Ðức hóa: Dùng đức mà cảm hóa lòng người.
Háo sinh: Ưa thích sự sống.
Máy nhiệm: Máy Trời mầu nhiệm.
An linh: An ổn Thiêng Liêng.

C.11-12: Ðức Thái Thượng Ðạo Quân dùng đức cảm hóa nhơn sanh, hạp tánh háo sanh của Thượng Ðế, nắm giữ Máy Trời mầu nhiệm, an ổn Thiêng Liêng, rộng quyền cứu giúp nhơn sanh.


Câu 13-14: Xin xót thương con người ngây dại,
Phép huyền hư truyền dạy thế gian.

Huyền hư: Huyền là huyền diệu, Hư là trống không, hư vô.
Phép Huyền hư: Phương pháp luyện đạo huyền diệu, luyện cho đến chỗ huờn hư thì đắc đạo.

C.13-14: Xin xót thương con người còn khờ dại, xin truyền dạy Phép luyện đạo huyền diệu để luyện cho Chơn thần đến chỗ huờn hư đắc đạo.

Câu 15-16: Mong nhờ lịnh Ðức Thánh Quan,
Ra oai tiêu diệt cho tàn ác ma.

Cho tàn: Cho hết sạch. Tàn là hết.
Ác ma: Ma quỉ ác độc.

C.15-16: Mong nhờ Ðức Quan Thánh Ðế Quân ra oai tiêu diệt cho hết sạch lũ quỉ ma độc ác hại người.

Câu 17-18: Trường Canh chói rạng lòa Kim Khuyết,
Xin ban ơn giải nghiệt cho đời.

Trường Canh: Sao Trường Canh là sao Thái Bạch, thường gọi là Thái Bạch Kim Tinh. Ðấng ấy hiện nay là một vị Ðại Tiên Trưởng lãnh nhiệm vụ Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm nhiệm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Khổ Độ.
Kim Khuyết: Huỳnh Kim Khuyết, là nơi họp Triều đình của Ðức Chí Tôn.
Giải nghiệt: Giải là cởi bỏ ra, Nghiệt là nghiệp ác. Giải nghiệt là cởi bỏ nghiệp ác.

C.17-18: Sao Thái Bạch chiếu sáng Huỳnh Kim Khuyết, ý nói: Ðức Lý Thái Bạch vào Huỳnh Kim Khuyết chầu Ðức Chí Tôn, xin Ðức Chí Tôn ban ơn cởi bỏ hết các ác nghiệp cho đời.

Câu 19-20: Tề Thiên Ðại Thánh để lời,
Thiện nam, Tín nữ nghe thời phải vưng.

Tề Thiên Ðại Thánh để lời bảo các tín đồ Nam Nữ, hãy nghe lời dạy bảo và phải vâng theo.

Câu 21-22: Chớ tự phụ, cũng đừng khi ngạo,
Lẽ Trời hằng quả báo chẳng sai.

Khi ngạo: Khinh rẻ, ngạo mạn, đồng nghĩa Khinh ngạo.
Quả báo: Cái kết quả báo đáp lại. Những việc làm trong kiếp trước là Nhân, tạo ra Nghiệp, để báo đáp lại bằng sự hạnh phúc hay đau khổ trong kiếp nầy gọi là Quả. Ðây là Luật Nhân Quả thể hiện sự công bình của Trời Ðất.

C.21-22: Chớ nên tự phụ, cũng đừng khinh rẻ ngược ngạo. Luật Trời hằng sắp đặt việc quả báo chẳng hề sai chạy.
- Kinh Thiên Đạo - Thế Đạo 1936, 1968:
  • khi ngạo.
- Kinh Lễ, Kinh Thiên Đạo - Thế Đạo 1974, 1975:
  • khinh ngạo.
KHẢO DỊ-
Câu 23-24: Lời khuyên già trẻ gái trai,
Khá tua sửa nết, ăn chay làm lành.

Khá: Nên.
Tua: Phải. Khá tua là phải nên.

C.23-24: Lời khuyên cho tất cả Nam, Nữ, già, trẻ, phải nên sửa đổi tánh nết cho tốt đẹp, phải ăn chay và làm lành.

Câu 25-26: Ðấng Tạo Hóa hóa sanh muôn vật,
Phú cho người tánh rất linh thông.

Phú cho: Ban cho.
Linh: Thiêng Liêng.
Thông: Hiểu biết rõ.

C.25-26: Ðấng Thượng Ðế sanh ra vạn vật, ban cho con người một cái tánh rất thiêng liêng và hiểu biết rõ.

Ðó là nhờ điểm Linh quang của Ðức Chí Tôn ban cho, nên con người linh thông hơn vạn vật, đứng vào bực trên chúng sanh, nên gọi là Thượng đẳng chúng sanh.

Câu 27-28: Ðặt ra có họ có dòng,
Vua, Thầy, cha mẹ, vợ chồng, cháu con.

Ðặt ra cho mỗi người có dòng họ tổ tiên, có Vua, có Thầy, có Cha mẹ, có vợ chồng, có con cháu.

Câu 29-30: Tình huynh đệ tày non tợ biển,
Nghĩa hữu bằng phải kiếng phải tin.

Tày: Bằng, sánh bằng.
Tợ: Giống như. Nghĩa: Cách cư xử đúng lẽ phải.
Hữu bằng: Bè bạn.
Kiếng: Kính trọng.

C.29-30: Tình thương yêu giữa anh em ruột thịt nặng như núi, sâu như biển. Cái nghĩa giữa bạn bè là phải kính trọng nhau, tin cậy nhau.

Câu 31-32: Cang tam Thường ngũ phải gìn,
Chứa đức làm lành, làm phước, làm doan.

Cang tam: Tam cang, dịch là Ba giềng. Tam cang gồm: Quân thần cang, Phụ tử cang, Phu thê cang. Thường ngũ: Ngũ thường, dịch là Năm hằng. Ngũ thường gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
Làm doan: Làm duyên, là làm những việc thiện để tạo duyên lành, hưởng phước về sau.

C.31-32: Phải gìn giữ Tam cang và Ngũ thường. Muốn chứa đức thì phải làm lành, làm phước, làm duyên.

Câu 33-34: Gặp người đói rách khốn nàn,
Ra tay chẩn cứu cho toàn nghĩa nhân.

Chẩn cứu: Chẩn là giúp đỡ bằng cách đem vật thực đến cho. Chẩn cứu là cứu giúp, đem tiền bạc, thực phẩm, thuốc men, quần áo đến phát cho người đang bị hoạn nạn.

C.33-34: Khi gặp người đói rách đang hoạn nạn khổ sở, phải ra tay chẩn cứu, mới trọn vẹn 2 chữ nhân nghĩa.

Câu 35-36: Mựa chớ ham giọng đờn tiếng quyển,
Thói dâm phong rù quến nguyệt hoa.

Mựa: Chớ, tiếng dùng với ý cản ngăn.
Tiếng quyển: Tiếng sáo. Giọng đờn tiếng quyển: Tiếng đàn tiếng sáo du dương khiến người ta mê theo. Ý nói: Lời nói ngon ngọt của phụ nữ đẹp dụ dỗ vào đường tình ái bất chánh.
Dâm phong: Thói quen ham mê thú vui xác thịt nam nữ. Phong là thói quen lâu đời.
Nguyệt hoa: Trăng hoa. Do câu: Nguyệt hạ hoa tiền: Dưới trăng trước hoa, ý nói: việc lén lút tình tự lãng mạn giữa trai gái hẹn hò ngắm trăng xem hoa. Ðó là tình yêu lãng mạn vượt ra ngoài lễ giáo, bị người xưa ngăn cấm.

C.35-36: Chớ có ham mê theo lời ngon ngọt, quyến rũ vào thói ăn chơi dâm đảng, đi vào các cuộc tình ái lãng mạn.

Câu 37-38: Có ngày hư nát cửa nhà,
Xa gần đồn tiếng thúi tha vô cùng.

Có ngày phải bị hư nhà nát cửa, tiếng xấu đồn vang, xa gần đều biết, thật là thúi tha hổ thẹn vô cùng.

Câu 39-40: Trường đổ bác cũng đừng léo tới,
Phường trăng hoa hát bội khá từ.

Trường: Nơi tụ tập nhiều người.
Ðổ bác: Ðánh bài bạc ăn tiền.
Trường đổ bác: Sòng bài, nơi tổ chức cờ bạc.
Léo: Bén mảng tới gần.
Phường: Ðám, bọn.
Hát bội: Hát diễn các truyện xưa tích cũ, chỉ việc đờn ca xướng hát. Thời xưa cho rằng, người theo đờn ca xướng hát đều lãng mạn phóng túng, không giữ được nền nếp Nho phong.
Khá từ: Nên từ bỏ.

C.39-40: Ðừng bén mảng tới những nơi cờ bạc. Nên từ bỏ đám trai gái trăng hoa lãng mạn và bọn đờn ca xướng hát.

Câu 41-42: Những điều nhơ nhuốc phải chừa,
Hỗn hào mắng nhiếc, nói thừa nói thêm.

Nhơ nhuốc: Xấu xa nhục nhã.
Hỗn hào: Có lời nói hay cử chỉ vô lễ, láo xược, khi dể người trên.

C.41-42: Phải chừa những điều xấu xa nhục nhã, không được hỗn hào mắng nhiếc người trên, không được nói thêm nói bớt cho sai sự thật.

Câu 43-44: Nơi Ðịa ngục gông kềm sẵn đủ,
Ðể răn loài dâm phụ gian phu.

Dâm phụ: Người đàn bà dâm đảng lấy chồng người.
Gian phu: Người đàn ông tà dâm lấy vợ người.

C.43-44: Nơi Ðịa ngục, có sẵn hai hình cụ là: Gông và Kềm, để trừng trị những kẻ dâm phụ, gian phu.

Câu 45-46: Ai ai bền chí mà tu,
Phước đem đổi tội cho phu dễ gì?

Phước: Phước đức.
Phu: Ðủ, thỏa.
Cho phu: Cho đủ.

C.45-46: Mọi người nên bền chí tu hành. Ðem phước đức mà đổi lấy tội tình cho vừa đủ cũng không phải là chuyện dễ dàng gì!

Câu 47-48: Dễ gì lộn kiếp đặng làm người,
May đặng làm người chớ dể duôi.

Lộn kiếp: Quay trở lại cõi trần để đầu thai lên một kiếp sống khác.
Dể duôi: Khinh rẻ, coi thường.

C.47-48: Trở lại đầu thai làm một con người nơi cõi trần, không phải là điều dễ dàng. Ðó là một điều may mắn, chớ nên coi thường.

Bởi vì theo Luật Tiến hóa, từ loài Thú cầm, tiến hóa lên phẩm Người phải trải qua muôn ngàn kiếp, kéo dài không biết bao nhiêu năm mà kể. Cho nên làm được một con Người thì thật là quí báu. Người là loài Thượng đẳng chúng sanh, có tánh linh hơn vạn vật nên mới có thể tu thành Tiên, Phật.

Câu 49-50: Lành dữ hai đường vừa ý chọn,
Lành như tòng, dữ tợ hoa tươi.

Tòng: Cây tùng, cây thông. Ðây là loại cây sống rất lâu năm, chịu được sương tuyết, lá vẫn xanh tươi, thân mọc thẳng đứng, nên được ví với người quân tử.

C.49-50: Con người có lý trí suy nghĩ, nên có 2 con đường: lành và dữ, mà tùy ý chọn lựa. Con đường lành thì bền bỉ như cây tòng; con đường dữ chóng tàn như cái hoa tươi.

Câu 51-52: Hoa tươi, tòng bá khác nhau xa,
Tòng bá xơ rơ kém sắc hoa.

Tòng bá: Cây tùng và cây bá. Cây bá, cũng còn gọi là cây trắc, giống như cây tùng, sống rất lâu năm và chịu được sương tuyết, lá vẫn xanh tươi, trong lúc các cây khác thì bị rụng lá trơ trụi.
Xơ rơ: Lơ thơ, cành lá thưa thớt.

C.51-52: Ðoá hoa tươi và cây tòng cây bá khác nhau xa: tòng bá thì xơ rơ, hoa tươi thì màu sắc rực rỡ.

Câu 53-54: Gặp tiết đông Thiên sương tuyết bủa,
Chỉ còn tòng bá, chẳng còn hoa.

Tiết đông Thiên: Tiết trời mùa đông, có tuyết rơi rất lạnh lẽo. Tiết là thời gian tương ứng với một đặc trưng về khí hậu. Bủa: Giăng, bao phủ khắp bầu Trời.

C.53-54: Gặp tiết trời mùa đông, có sương và tuyết bao phủ, cây tòng cây bá thì đứng trơ trơ vững vàng, còn hoa kia thì rơi rụng vì chịu không nổi sương tuyết.

Câu 55-56: Còn hoa mà lại ích chi đâu,
Ðẹp dáng tươi màu đặng mấy lâu?

Nếu đóa hoa còn thì có ích lợi gì đâu?
Hình dáng và màu hoa tươi đẹp, nhưng kéo dài được bao lâu?
Người hung ác thì như cánh hoa kia vậy. Lúc đắc thời thì như hoa tươi thắm, nhưng tồn tại được bao lâu?.


Câu 57-58: Thử sánh ngọn đèn cùng bóng nguyệt,
Gió day đèn tắt, nguyệt làu làu.

Gió day: Gió thổi trở qua hướng khác.
Nguyệt làu làu: Trăng sáng vằng vặc.

C.57-58: Thử so sánh ngọn đèn với ánh sáng của mặt trăng, khi gió thổi qua hướng khác thì đèn tắt, còn ánh trăng vẫn sáng vằng vặc.
- Kinh Thiên Đạo - Thế Đạo 1936, Kinh Lễ:
  • Gió day.
- Kinh Thiên Đạo - Thế Đạo 1968, 1974, 1975:
  • Gió lay.

Gió lay: Gió lay động. Lay động là chuyển động nhẹ nhàng qua lại ở một vị trí nhứt định.
KHẢO DỊ-
Câu 59-60: Làu làu một tấm tợ đài gương,
Trung hiếu, tiết trinh vẹn mọi đường.

Ðài gương: Cái giá gỗ trên đó có đặt một tấm kiếng để làm gương soi.
Gương làu làu: Cái gương được lau thật sạch, không một tí bụi bám vào.

C.59-60: Như một tấm gương soi thật trong sáng, Nam thì trung hiếu, Nữ thì tiết trinh, giữ cho được vẹn toàn mọi bề.

Câu 61-62: Sang cả mặc người đừng bợ đỡ,
Hoạnh tài, trơ mắt khỏi tai ương.

Sang cả: Sang là quí phái, cả là lớn. Sang cả là sang trọng lắm.
Bợ đỡ: Nịnh hót để cầu lợi.
Hoạnh tài: Hoạnh là không hợp lý, tài là tiền bạc. Hoạnh tài là có được nhiều tiền bạc một cách không hợp lý, không phải do sức lực của mình làm ra.
Thí dụ: Lượm được một gói vàng, .
Trơ mắt: Ðứng yên, lấy mắt nhìn mà không làm gì cả.

C.61-62: Người ta giàu có sang trọng thì mặc người ta, đừng theo nịnh hót bợ đỡ, mình nên giữ lấy phận mình.

Ðồng tiền không do công sức mình làm ra một cách chánh đáng, chỉ nên lấy mắt ngó mà thôi, đừng chạm đến, thì khỏi rước lấy tai họa vào thân.

Câu 63-64: Tai ương hoạn họa luống ưu sầu,
Vì bởi hay bày chước hiểm sâu.

Tai ương: Tai là việc hao tổn, ương là họa hại.
Hoạn họa: Hoạn là mối hại lớn, họa là tai vạ. Tai ương hoạn họa: Tai nạn làm tổn hại lớn.
Luống: Nhiều lần.
Ưu sầu: Lo lắng buồn rầu.
Chước: Mưu kế.
Hiểm sâu: Nham hiểm và sâu độc.

C.63-64: Tai ương hoạn nạn gây ra lắm nỗi lo buồn, là bởi vì hay bày đặt mưu kế nham hiểm sâu độc hại người.

Câu 65-66: Lập kế đồ mưu âm hại chúng,
Kiếp sau mang lấy lốt heo trâu.

Lập kế đồ mưu: Sắp đặt lập ra mưu kế. Ðồ là sắp đặt.
Âm hại: Hại người một cách ngấm ngầm, không để lộ ra.
Chúng: Nhiều người.
Lốt: Hình thức bề ngoài.

C.65-66: Sắp đặt mưu kế để âm thầm hãm hại người thì phải mang tội nặng, khi chết rồi, linh hồn phải đầu kiếp trở lại cõi trần làm thân heo hay trâu mà đền tội.

Câu 67-68: Heo trâu thân thể mạt hèn thay,
Mãn kiếp lại còn bị xẻ thây.

Mãn kiếp: Hết kiếp sống, tức là chết.
Xẻ thây: Thân thể bị làm thịt, chặt ra nhiều mảnh.

C.67-68: Mang kiếp làm heo trâu thật là thấp hèn, khi chết rồi thì thân thể còn bị xẻ ra làm thịt.

Câu 69-70: Lộng lộng lưới Trời tuy sếu sáo,
Thưa mà chẳng lọt mảy lông mày.

Lộng lộng: Cao rộng mênh mông.
Sếu sáo: Lung lay yếu ớt như sắp hư nát.
Mảy lông mày: Ý nói một vật rất nhỏ như một chút lông mày.

C.69-70: Lưới Trời cao rộng mênh mông, tuy coi lung lay yếu ớt nhưng một chút nhỏ cũng không qua lọt.

Hai câu kinh nầy có ý nghĩa tương tợ như câu Hán văn: "Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu." Nghĩa là: Lưới Trời lồng lộng, thưa mà không lọt.

Câu 71-72: Mày râu đứng giữa cõi trần gian,
Gắng sức chống cho vững miếu đàng.

Mày râu: Dịch chữ Tu mi, chỉ giới đàn ông con trai.
Miếu đàng: Miếu đường, nơi thờ phượng tổ tiên dòng họ của nhà vua. Miếu đường thường được xây dựng kế bên triều đình, nên từ ngữ Miếu đường dùng để chỉ Triều đình của vua, tức là cơ quan tối cao lãnh đạo quốc gia.

C.71-72: Phận làm trai đứng giữa cõi trần gian, phải cố gắng ra sức chống chỏi cho bền vững nước nhà.

Câu 73-74: Phận gái Tam Tùng cùng Tứ Ðức,
Tề gia, nội trợ vẹn là ngoan.

Tam Tùng: Ba điều phải theo của người phụ nữ, gồm:
Tại gia tùng phụ: Ở tại nhà thì phải tùng theo cha.
Xuất giá tùng phu: Có chồng thì phải tùng theo chồng.
Phu tử tùng tử: Chồng chết thì theo con, tức là ở vậy nuôi con cho khôn lớn và tạo lập sự nghiệp cho con.
Tứ đức: Bốn đức tốt của người phụ nữ, gồm:
  1. Công: Chăm làm việc nhà: May vá, nấu ăn, nuôi dạy con.
  2. Dung: Chăm sóc dung nhan cho tốt đẹp.
  3. Ngôn: Lời nói dịu dàng, mực thước, ngay thẳng.
  4. Hạnh: Tánh nết hiền hòa, cử chỉ đoan trang.
Tề gia nội trợ: Sắp đặt mọi việc trong gia đình cho được an ổn, giúp đỡ bên trong gia đình.

C.73-74: Phận làm đàn bà con gái thì phải giữ Tam Tùng và Tứ Ðức. Phải lo việc tề gia nội trợ cho hoàn toàn mới phải là gái ngoan.

Câu 75-76: Ngoan ngùy chơn chánh Phật Thần thương,
Chơn chánh liên hòa với thiện lương.

Ngoan ngùy: Ngoan ngoãn thùy mị, nết na dễ dạy.
Chơn chánh: Chơn thật ngay thẳng.
Liên hòa: Liên kết và hòa hợp.
Thiện lương: Lành tốt.

C.75-76: Phật và Thần, nói chung là các Ðấng Thiêng liêng đều thương mến những người ngoan ngùy, chơn chánh.

Sự chơn chánh phải liên kết hòa hợp với sự lương thiện.

Câu 77-78: Thần Thánh thành do người chánh thiện,
Thiện lương chơn chánh đức không lường.

Chánh thiện: Chơn chánh và lương thiện.
Không lường: Không đo lường được, ý nói số lượng rất lớn, rất nhiều.

C.77-78: Người thiện lương chơn chánh mới có thể đắc thành Thần Thánh. Có thiện lương chơn chánh mới tạo được nhiều phước đức không lường hết được.

Câu 79-80: Không lường kẻ thiện với người hung,
Bợ đỡ giàu sang, phụ khốn cùng.

Bợ đỡ: Nịnh hót để cầu lợi.
Phụ: Ðối xử tệ bạc.
Khốn cùng: Nghèo túng khổ sở.

C.79-80: Không thể biết rõ được kẻ nào lành, kẻ nào dữ. Thói thường thì nịnh hót người giàu, phụ bạc kẻ nghèo khổ.

Câu 81-82: Ngoài mặt giả tuồng người trượng nghĩa,
Trong lòng dối kết chút tình chung.

Giả tuồng: Giả bộ, giả đò, không thật lòng.
Trượng nghĩa: Trọng nghĩa, xem nặng việc cư xử theo lẽ phải, hợp đạo đức.
Dối kết: Liên kết với nhau một cách dối trá.
Tình chung: Tình cảm chung thủy, không thay đổi.

C.81-82: Bề ngoài thì giả bộ là người trọng nghĩa, nhưng trong lòng thì dối trá làm như là có tình cảm chung thủy.

Câu 83-84: Tình chung đặng cậy thế người sang,
Mượn tiếng khua môi với xóm làng.

Cậy thế: Dựa vào thế lực.
Người sang: Kẻ giàu sang.
Khua môi: Nói khoác lác khoe khoang.

C.83-84: Giả bộ có tình cảm chung thủy đặng dựa vào thế lực của kẻ sang giàu, mượn đó đặng khoác lác khoe khoang với những người trong làng trong xóm.

Câu 85-86: Lời dạy Thần Tiên không kể đến,
Ðạo mầu chẳng cứ, cứ khoe khoang.

Lời dạy bảo của các Ðấng Thần, Tiên thì không kể đến, con đường Ðạo đức mầu nhiệm thì chẳng theo, mà cứ khoe khoang luôn miệng.

Đánh giá bài viết

4.98/32 rates

Đăng nhận xét

Cảm ơn Đạo Hữu đã đóng góp. Chúc Đạo Hữu một ngày an lạc! A Di Đà Phật