Kinh Độ Tận Vong Linh - Kinh Thiên Đạo

Kinh Độ Tận Vong Linh - Kinh Thiên Đạo
A+ A-




Kinh Độ Tận Vong Linh

Kinh Thiên Đạo
Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối

kinh cầu hồn khi hấp hối

Rắp nhập cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống,
Chốn quê xưa giải mộng trần gian.
Dìu đường thoát tục nắm phan,
Trông Kinh Bạch Ngọc định thần giải căn.
Diêu Trì Cung sai nàng Tiên Nữ,
Phép Lục Nương gìn giữ Chơn hồn.
Tây phương Tiếp Dẫn Đạo Nhơn,
Phướn linh khai mở nẻo đường Lôi Âm.
(tên họ kẻ qui vị) thành tâm cầu nguyện,
Nguyện Chí Tôn linh hiển độ sanh.
Ăn năn sám hối tội tình,
Xét câu minh thệ gửi mình cõi thăng.
Dầu nghiệt chướng số căn quả báo,
Đừng hãi kinh, cầu đảo Chí Tôn.
Cửa Địa ngục, khá lánh chơn,
Ngọc Hư Cực Lạc, đon đường ruổi dong.
Dầu trọn kiếp sống không nên Đạo,
Dầu oan gia tội báo buộc ràng.
Chí Tôn xá tội giải oan,
Thánh, Thần, Tiên, Phật, cứu nàn độ vong.
Kìa chiếu diệu bóng hồng Bắc Đẩu,
Kìa im lìm phúc hậu Nam Tào.
Cảnh thăng trổi gót cho mau,
Xa vòng tục lự đặng chầu Chí Linh.
“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Khi Đã Chết Rồi

Kinh Khi Đã Chết Rồi

Ba mươi sáu cõi Thiên-Tào,
Nhập trong Bát Quái mới vào Ngọc-Hư.
Quê xưa trở cõi đọa từ,
Đoạt cơ thoát tục bấy chừ tuyệt luân.
Dưới chín lớp liên thần đưa rước,
Trên hồng quang phủ phước tiêu-diêu.
Linh-Tiêu-Điện, bảng danh nêu,
Nguyên-căn đẹp vẻ mỹ-miều cao thăng.
Kinh Bạch-Ngọc muôn lằn điễn chiếu,
Kêu chơn hồn vịn níu chơn-linh.
Năng lai năng khứ khinh khinh,
Mau như điễn chiếu nhẹ thành bóng mây.
Cửa Tây-Phương khá bay đến chốn,
Diệt trần tình vui hưởng tiêu-diêu.
Tiên-phong Phật-cốt mỹ-miều,
Vào kinh Bạch-Ngọc lễ triều CHÍ-LINH.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Tẫn Liệm

Kinh Tẫn Liệm

Dây oan nghiệt dứt rời trái chủ,
Nương huyền linh sạch giũ thất tình,
Càn khôn bước Thánh thượng trình,
Giải xong xác tục mượn hình Chí tôn.
Khối vật chất vô hồn viết tữ,
Đất biến hình tự thử qui căn,
Đừng gìn thân ái nghĩa nhân,
Xôn xao thoát khổ xa lần bến mê.
Hồn Trời hóa trở về Thiên cảnh,
Xác Đất sanh đến lịnh phục hồi,
Từ từ Cực Lạc an vui,
Lánh nơi trược khí hưởng mùi siêu thăng.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Cầu Siêu

Kinh Cầu Siêu

Đầu vọng bái Tây Phương Phật-Tổ,
A-Di-Đà Phật độ chúng dân.
Quan-Thế-Âm lân-mẫn ân-cần,
Vớt lê-thứ khổ trần đọa lạc.
Đại-Thánh Địa-Tạng-Vương Bồ-Tát,
Bố Từ-Bi tế-bạt vong hồn.
Cứu khổ nàn Thái-Ất Thiên-Tôn,
Miền âm-cảnh ngục-môn khai-giải.
Ơn Đông-Nhạc Đế-Quân quảng-đại,
Độ kẻ lành chế cải tai ương.
Chốn Dạ-đài Thập-Điện Từ-Vương,
Thấy hình khổ lòng thương thảm-thiết.
Giảm hình phạt bớt đường ly-tiết,
Xá linh-quang tiêu-diệt tiền-khiên,
Đặng nhẹ-nhàng thẳng đến cung Tiên,
Nơi Phước-địa ở yên tu-luyện.
Xin Trời Phật chứng lòng sở-nguyện,
Hộ thương-sanh u hiển khương-ninh.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Đưa Linh Cữu

Kinh Đưa Linh Cữu

Cầu các Trấn Thần linh trợ lịnh,
Giữ chơn-hồn xa lánh xác trần.
Nam-Mô Địa-Tạng thi ân,
Đưa đường Thiên-cảnh, lánh gần Phong-Đô.
Nam-Mô Tam-Trấn hư-vô,
Oai-nghiêm độ rỗi Cao-Đồ qui-nguyên.
Nam-Mô Tam-Giáo diệu-huyền,
Tuyệt luân Bát-Nhã đưa thuyền độ vong.
Nam-Mô Bạch-Ngọc công cồng,
Thần, Tiên, Thánh, Phật mở vòng trái oan.
Nam-Mô Thượng-Đế Ngọc-Hoàng,
Mở cơ tận độ nhẹ-nhàng chơn-linh.
Cửa Cực-Lạc thinh thinh rộng mở,
Rước vong hồn lui trở ngôi xưa.
Tòa sen báu vật xin đưa,
Chơn-linh an ngự cho vừa quả duyên.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Hạ Huyệt

Kinh Hạ Huyệt

Thức giấc mộng huỳnh-lương vừa mãn,
Tiếng phồn-ba hết thoáng bên tai.
Giải thi lánh chốn đọa-đày,
Chơn linh trong sạch ra ngoài Càn-Khôn.
Phép giải-oan độ hồn khỏi tội,
Phướn tiêu-diêu nắm mối trường-sanh.
Ơn nhờ hồng-phước Chí-Linh,
Lôi-Âm tự-toại, Bồng-Dinh hưởng nhàn.
Nhờ Hậu-Thổ xương tàn gìn-giữ,
Nghĩa CHÍ-TÔN tha thứ tiền-khiên.
Đưa tay vịn phép diệu-huyền,
Ngọc-Hư lập vị cửu tuyền lánh chơn.
Ngó Cực Lạc theo huờn Xá-lợi,
Cửu-Trùng-Thiên mở lối qui-nguyên.
Rõ-ràng Phật cốt tiền duyên,
Nước Cam-Lồ rửa sạch thuyền độ nhân.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Vãng Sanh Thần Chú

Vãng Sanh Thần Chú

Nam-mô
A-Di-Ðà Bà-Dạ, Ða-Tha-Già-Ða-Dạ,
Ða-Ðiệt-Dạ-Tha: A-Di-Rị-Ðô-Bà-Tì,
A-Di-Rị-Ða, Tất-Ðam-Bà-Tì,
A-Di-Rị-Ða, Tì-Ca-Lan-Ðế,
A-Di-Rị-Ða, Tì-Ca-Lan-Ða,
Già-Di-Nị, Già-Già-Na,
Chỉ-Ca-Ða-Lệ, Ta-Bà-Ha.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Khai Cửu Đại Tường Và Tiểu Tường

Kinh Khai Cửu Đại Tường Và Tiểu Tường

Đã quá chín từng Trời đến vị,
Thần đặng an, Tinh, Khí cũng an.
Tầng Trời gắng bước lên thang,
Trông mây nhìn lại cảnh nhàn buổi xưa.
Cõi thảm khổ đã vừa qua khỏi,
Quên trần ai mong mỏi Động Đào.
Ngó chi khổ hải sóng xao,
Đoạn tình yểm dục đặng vào cõi Thiên.
Giọt lụy của Cửu huyền dầu đổ,
Chớ đau lòng thuận nợ trầm luân.
Nắm cây huệ kiếm gươm thần,
Dứt tan sự thế nợ trần từ đây.
THƯỜNG CƯ NAM HẢI QUAN ÂM NHƯ LAI

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Đệ Nhứt Cửu

Kinh Đệ Nhứt Cửu

Vườn Ngạn Uyển sanh hoa đã héo,
Khối hình hài đã chịu rã tan.
Bảy dây oan nghiệt hết ràng,
Bợn trần rửa sạch muôn ngàn đau thương.
Kìa Thiên cảnh con đường vọi vọi,
Ánh Hồng Quân đương chói Ngọc Lầu,
Cung Thiềm gắng bước cho mau,
Thoát ba Thần phẩm đứng đầu Tam Thiên,
Khá tỉnh thức tiền duyên nhớ lại,
Đoạn cho rồi oan trái buổi sanh,
Đem mình nương bóng Chí Linh,
Định tâm chí Thánh mới gìn ngôi xưa.
Hồn định tỉnh đã vừa định tỉnh,
Phách anh linh ắt phải anh linh.
Quản bao thập ác lục hình,
Giải thi thoát khổ diệt hình đoạt căn.
NHỨT NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Đệ Nhị Cửu

Kinh Đệ Nhị Cửu

Tây Vương Mẫu vườn Đào ướm chín,
Chén trường sanh có lịnh ngự ban,
Tiệc hồng đã dọn sẵn sàng,
Chơn Thần khá đến hội hàng chư linh.
Đã thấy đủ Thiên đình huyền pháp,
Cổi giác thân lên đạp Ngân Kiều.
Đẩu tinh chiếu thấu Nguyên Tiêu,
Kim quang kiệu đỡ đến triều Ngọc Hư.
Khí trong trẻo dường như băng tuyết,
Thần im đìm dường nét thiều quang.
Xa chừng thế giái Địa Hoàn,
Cõi Thiên đẹp thấy nhẹ nhàng cao thăng.
NHỊ NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Đệ Tam Cửu

Kinh Đệ Tam Cửu

Cõi Thanh Thiên lên miền Bồng Đảo,
Động Thiên Thai bảy Lão đón đường,
Cam Lồ rưới giọt nhành dương,
Thất tình lục dục như dường tiêu tan.
Cung Đẩu Tốt nhặt khoan tiếng nhạc,
Đệ lịnh bài cánh hạc đưa linh.
Tiêu thiều lấp tiếng dục tình,
Bờ dương bóng phụng đưa mình nâng thân.
Cung Như Ý Lão Quân tiếp khách,
Hội Thánh minh giao sách Trường xuân.
Thanh quang rỡ rỡ đòi ngàn,
Chơn hồn khoái lạc lên đàng vọng Thiên.
TAM NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Đệ Tứ Cửu

Kinh Đệ Tứ Cửu

Sắc huỳnh chiếu roi vàng đường hạc,
Cõi Huỳnh Thiên nhẹ thoát chơn Tiên,
Năm Rồng đỡ nổi đầu thuyền,
Vào cung Tuyệt Khổ kiến Huyền Thiên Quân.
Trừ quái khí roi thần chớp nhoáng,
Bộ Lôi Công giải tán trược quang.
Cửa lầu Bát Quái chun ngang,
Hỏa Tinh Tam Muội thiêu tàn oan gia.
Đạp Thái Sơn nhảy qua Đẩu Suất,
Vịn Kim Câu đến chực Thiên Môn.
Chơn thần đã nhập Càn khôn,
Thâu quyền độ thế bảo tồn chúng sanh.
TỨ NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Đệ Ngũ Cửu

Kinh Đệ Ngũ Cửu

Ánh hồng chiếu đường mây rỡ rỡ,
Cõi Xích-Thiên vội mở ải-quan.
Thiên-Quân diêu động linh-phan,
Cả miền Thánh-vức nhộn-nhàng tiếp nghinh.
Đài Chiếu-giám cảnh minh nhẹ bước,
Xem rõ-ràng tội phước căn sinh.
Lần vào cung Ngọc diệt hình,
Khai kinh Vô-Tự đặng nhìn quả duyên.
Đắc văn-sách thông Thiên định Địa,
Phép huyền-công trụ nghĩa hóa thân.
Kỵ kim-quang kiến Lão-Quân,
Dựa xe Như-Ý oai thần tiễn thăng.
NGŨ NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Đệ Lục Cửu

Kinh Đệ Lục Cửu

Bạch Y Quan mở đàng rước khách,
Cõi Kim Thiên nhẹ tách Tiên xa.
Vào cung Vạn Pháp xem qua,
Cho tường cựu nghiệp mấy tòa Thiên nhiên,
Cung Lập Khuyết tìm duyên định ngự,
Lãnh Kim sa đặng dự Như Lai.
Minh Vương Khổng Tước cao bay.
Đem Chơn thần đến tận đài Huệ Hương.
Mùi ngào ngạt thơm luôn Thánh thể,
Trừ tiêu tàn ô uế sinh quang.
Thiên thiều trổi tiếng nhặt khoan,
Đưa linh thẳng đến Niết Bàn mới thôi.
LỤC NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Đệ Thất Cửu

Kinh Đệ Thất Cửu

Nhẹ phơ phới dồi dào không khí,
Hạo Nhiên Thiên đã chí môn quan.
Đẹp xinh cảnh vật đòi ngàn,
Hào quang chiếu diệu khai đàng thăng Thiên.
Cung Chưởng Pháp xây quyền Tạo hóa,
Kiến Chuẩn Đề thạch xá giải thi.
Dà Lam dẫn nẻo Tây Qui,
Kim chung mở lối kịp kỳ kỵ sen.
Động Phổ Hiền Thần Tiên hội hiệp,
Dở Kim Cô đưa tiếp linh quang.
Im lìm kìa cõi Niết Bàn,
Lôi Âm trống thúc lên đàng Thượng Tiêu.
THẤT NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Đệ Bát Cửu

Kinh Đệ Bát Cửu

Hơi Tiên tửu nực nồng thơm ngọt,
Phi Tưởng Thiên để gót tới nơi.
Mùi trần khi đã xa khơi,
Say sưa bầu khí bồi hồi chung phong.
Cung Tận Thức thần thông biến hóa,
Phổ Đà Sơn giải quả Từ Hàng.
Cỡi Kim Hẩu đến Tịch San,
Đẩu vân nương phép Niết Bàn đến xem.
Cung Diệt Bửu ngọc rèm đã xủ,
Nghiệp hữu hình tượng đủ vô vi.
Hồ Tiên vội rót tức thì,
Nước Cam Lồ rửa ai bi kiếp người.
BÁT NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Đệ Cửu Cửu

Kinh Đệ Cửu Cửu

Vùng thoại khí bát hồn vận chuyển,
Tạo Hóa Thiên sanh biến vô cùng,
Hội Bàn Đào, Diêu Trì Cung,
Phục sinh đào hạnh rượu hồng thưởng ban.
Cung Bắc Đẩu xem căn quả số,
Học triều nghi vào ở Linh Tiêu.
Ngọc Hư Cung, sắc lịnh kêu,
Thưởng, phong, trừng, trị phân điều đọa thăng.
Nơi Kim Bồn vàn vàn nguơn chất,
Tạo hình hài các bậc nguyên nhân.
Cung Trí Giác, trụ tinh thần,
Huờn hư mầu nhiệm thoát trần đăng Tiên.
CỬU NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Tiểu Tường

Kinh Tiểu Tường

Tịnh niệm phép Nhiên Đăng tưởng tín,
Hư Vô Thiên đến thính Phật điều.
Ngọc Hư đại hội ngự triều,
Thiều quang nhị bá Thiên Kiều để chơn.
Bồ Đề Dạ dẫn hồn thượng tấn,
Cực Lạc Quan đẹp phận Tây Qui.
Vào Lôi Âm, kiến A Di,
Bộ Công Di Lạc Tam Kỳ độ sanh.
Ao Thất Bửu gội mình sạch tục.
Ngôi liên đài quả phúc Dà Lam.
Vạn linh trổi tiếng mầng thầm.
Thiên thơ Phật tạo độ phàm giải căn.
DIÊU TRÌ KIM MẪU

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Đại Tường

Kinh Đại Tường

Hỗn Nguyên Thiên dưới quyền Giáo Chủ
Di Lặc đương thâu thủ phổ duyên
Tái sanh sửa đổi Chân Truyền
Khai cơ tận độ Cửu Tuyền diệt vong
Hội Long Hoa tuyển phong Phật Vị
Cõi Tây Phương đuổi quỷ trừ ma
Giáng linh Hộ Pháp Vi Ðà
Chuyển cây Ma Xử đuổi tà trục tinh
Thâu các Đạo hữu hình làm một
Trường thi Tiên Phật dượt kiếp khiên
Tạo đời cải dữ ra hiền
Bảo sanh nắm giữ diệu huyền Chí Tôn.
Thích Ca Mâu Ni Văn Phật

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Di Lạc Chơn Kinh

Di Lạc Chơn Kinh

BÀI KHAI KINH


Khai kinh kệ vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim thính văn đắc thọ trì
Nguyện giải Tân Kinh chơn thiệt ngã.
THÍCH CA MÂU NI VĂN PHẬT thuyết

DI LẠC CHƠN KINH

THƯỢNG THIÊN HỔN NGUƠN hữu: Barahma Phật, Civa Phật, Christma Phật, Thanh Tịnh Trí Phật, Diệu Minh Lý Phật, Phục Tưởng Thị Phật, Diệt Thể Thắng Phật, Phục Linh Tánh Phật, Nhứt thiết chư Phật, hữu giác, hữu cảm, hữu sanh, hữu tử trí khổ nghiệp chướng luân chuyển hóa sanh, năng du ta bà thế giới độ tận vạn linh đắc quy Phật vị.
 
HỘI THIÊN NGƯƠN hữu: Trụ Thiện Phật, Đa Ái Sanh Phật, Giải Thoát Khổ Phật, Diệu Chơn Hành Phật, Thắng Giải Ác Phật, nhứt thiết chư Phật tùng lịnh DI LẠC VƯƠNG PHẬT, năng chiếu diệu quang tiêu trừ nghiệp chướng.
 
Nhược hữu chúng sanh văn ngã ứng dương thoát nghiệt, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng tùng thị pháp điều Tam Kỳ Phổ Độ tất đắc giải thoát luân hồi, đắc lộ Đa La Tam Diệu Tam Bồ Đề thị chi chứng quả Cực Lạc Niết Bàn.
 
Nhược nhơn dương sanh, nhược nhơn hữu kiếp, nhược nhơn hữu tội, nhược nhơn vô tội, thính đắc ngã ngôn, phát tâm thiện niệm, tất đắc A Nậu Đa La Tam Diệu Tam Bồ Đề tất đắc giải thoát.
Nhược hữu nhơn thọ trì khủng kinh ma chướng, nhứt tâm thiện niệm: Nam mô Di Lạc Vương Bồ Tát, năng cứu khổ ách, năng cứu tam tai, năng cứu tật bịnh, năng độ dẫn chúng sanh thoát ư nghiệp chướng tất đắc giải thoát.
 
HƯ VÔ CAO THIÊN hữu: Tiếp Dẫn Phật, Phổ Tế Phật, Tây Quy Phật, Tuyển Kinh Phật, Tế Pháp Phật, Chiếu Duyên Phật, Phong Vị Phật, Hội Chơn Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật tùng lịnh NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT dẫn độ Chơn Linh đắc Pháp, đắc Phật, đắc duyên, đắc vị, đắc A Nậu Đa La Tam Diệu Tam Bồ Đề chứng quả nhập Cực Lạc Quốc, hiệp chúng đẳng chư Phật tạo định Thiên Thi tận độ Chúng Sanh đắc quy Phật vị.
 
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân tu trì thính ngã dục đắc Chơn Truyền niệm thử NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT. Thưởng du ta bà thế giái giáo hóa Chơn Truyền phổ tế Chúng Sanh giải thoát lục dục thất tình thoát đọa luân hồi tất đắc giải thoát.
 
TẠO HÓA HUYỀN THIÊN hữu: Quảng Sanh Phật, Dưỡng Dục Phật, Chưởng Hậu Phật, Thử Luân Phật, dữ Cửu vị Nữ Phật, , như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật tùng lịnh KIM BÀN PHẬT MẪU năng tạo, năng hóa Vạn Linh, năng du ta bà thế giái dưỡng dục quần sanh quy nguyên Phật vị.
 
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân thính ngã dục tu phát nguyện nam mô KIM BÀN PHẬT MẪU dưỡng dục quần linh nhược hữu sanh, nhược vị sanh, nhược hữu kiếp, nhược vô kiếp, nhược hữu tội, nhược vô tội, nhược hữu niệm, nhược vô niệm hườn hư thi hình đắc A Nậu Đa La Tam Diệu Tam Bồ Đề Xá Lợi Tử quy nguyên Phật vị tất đắc giải thoát.
 
PHI TƯỞNG DIỆU THIÊN hữu: Đa Pháp Phật, Tịnh Thiện Giáo Phật, Kiến Thắng Vị Phật, Hiển Hóa Sanh Phật, Trục Tà Tinh Phật, Luyện Đắc Pháp Phật, Hộ Trì Niệm Phật, Khai Huyền Cơ Phật, Hoán Trược Tánh Phật, Đa Phúc Đức Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, tùng lịnh TỪ HÀNG BỒ TÁT, năng du ta bà thế giái thi pháp hộ trì Vạn Linh Sanh Chúng.
 
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân tín ngã ưng đương phát nguyện nam mô TỪ HÀNG BỒ TÁT năng cứu tật bịnh, năng cứu tam tai, năng độ tận Chúng Sanh thoát ư tứ khổ, năng trừ tà ma, năng trừ nghiệp chướng, tất đắc giải thoát.
 
HẠO NHIÊN PHÁP THIÊN hữu: Diệt Tướng Phật, Đệ Pháp Phật, Diệt Oan Phật, Sát Quái Phật, Định Quả Phật, Thánh Tâm Phật, Diệt Khổ Phật, Kiên Trì Phật, Cứu Khổ Phật, Xá tội Phật, Giải Thể Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật tùng lịnh CHUẨN ĐỀ BỒ TÁT, PHỔ HIỀN BỒ TÁT thưởng du ta bà thế giái độ tận Vạn Linh.
 
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân tín ngã ưng đương phát nguyện Nam mô CHUẨN ĐỀ BỒ TÁT, PHỔ HIỀN BỒ TÁT năng trừ ma chướng quỉ tai, năng cứu khổ ách nghiệp chướng, năng độ Chúng Sanh quá ư Cực Lạc, tức đắc giải thoát.
Nam mô DI LẠC VƯƠNG PHẬT

-Barahma Phật
-Civa Phật
-Thanh Tịnh Trí Phật
-Diệu Minh Lý Phật
-Phục Tướng Thị Phật
-Diệt Thể Thắng Phật
-Phục Linh Tánh Phật
-Trụ Thiện Phật
-Đa Ái Sanh Phật
-Giải Thoát Khổ Phật
-Diệu Chơn Hành Phật
-Thắng Giải Ác Phật
-NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT
-Tiếp Dẫn Phật
-Phổ Tế Phật
-Tây Quy Phật
-Tuyển Kinh Phật
-Tế Pháp Phật
-Chiếu Duyên Phật
-Phong Vị Phật
-Hội Chơn Phật
-KIM BÀN PHẬT MẪU
-Quảng Sanh Phật
-Dưỡng Dục Phật
-Chưởng Hậu Phật
-Thủ Luân Phật
-Cửu Vị Nữ Phật
-TỪ HÀNG BỒ TÁT
-Đa Pháp Phật
-Tịnh Thiện Giáo Phật
-Kiến Đắc Vị Phật
-Hiển Hóa Sanh Phật
-Trục Tà Tinh Phật
-Luyện Đắc Pháp Phật
-Hộ Trì Niệm Phật
-Khai Huyền Cơ Phật
-Hoán Trược Tánh Phật
-Đa Phúc Đức Phật
-CHUẨN ĐỀ BỒ TÁT
-PHỔ HIỀN BỒ TÁT

-Diệt Tướng Phật
-Đệ Pháp Phật
-Diệt Oan Phật
-Sát Quái Phật
-Định Quả Phật
-Thành Tâm Phật
-Diệt Khổ Phật
-Kiên Trì Phật
-Cứu Khổ Phật
-Xá tội Phật
-Giải Thể Phật

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Sám Hối

Kinh Sám Hối

1. Cuộc danh lợi là phần thưởng quí,
Ðấng Hóa Công xét kỹ ban ơn.
Lòng đừng so thiệt tính hơn,
Ngày đêm than thở dạ hờn ích chi.
Người sang cả là vì duyên trước,
Kẻ không phần luống ước cầu may.
Sang giàu chẳng khác như mây,
Khi tan khi hiệp đổi xây không thường.

9. Việc sanh tử như đường chớp nhoáng,
Bóng quang âm ngày tháng dập dồn.
Giữ cho trong sạch linh hồn,
Rèn lòng sửa nết, đức tồn hậu lai.
Ðiều họa phước không hay tìm tới,
Tại mình vời nên mới theo mình.
Cũng như bóng nọ tùy hình,
Dữ lành hai lẽ công bình thưởng răn.

17. Khi vận thới lung lăng chẳng kể,
Lúc suy vi bày lễ khẩn cầu.
Sao bằng ở phải buổi đầu,
Thần minh chánh trực có đâu tư vì.
Người làm phước có khi mắc nạn,
Kẻ lăng loàn đặng mạng giàu sang.
Ấy là nợ trước còn mang,
Duyên kia chưa dứt còn đang thưởng đền.

25. Nếu vội trách người trên thì đọa,
Cũng có khi tai họa trả liền.
Ðó là báo ứng nhãn tiền,
Mau thì mình chịu, lâu truyền cháu con.
Lo danh vọng hao mòn thân thể,
Ham làm giàu của để bằng non.
Một mai nhắm mắt đâu còn.
Ðem vàng chuộc mạng đổi lòn đặng chăng.

33. Trên đầu có bủa giăng Thần Thánh,
Xét xem người tánh hạnh dữ hiền.
Làm lành đặng hưởng phước duyên,
Trong lòng nham hiểm, lộc quyền giảm thâu.
Ðừng tính kế độc sâu trong dạ,
Mà gổ ganh oán chạ thù vơ.
Trái oan nào khác mối tơ,
Rối rồi không gỡ, bao giờ cho ra.

41. Thấy hình khổ dạ ta đâu nỡ,
Khuyên làm lành trừ đỡ tội căn.
Quấy rồi phải biết ăn năn,
Ở cho nhân hậu, chế răn lòng tà.
Hãy có dạ kỉnh già thương khó,
Chớ đem lòng lấp ngõ tài hiền.
Xót thương đến kẻ tật nguyền,
Ðỡ nâng yếu thế, binh quyền mồ côi.

49. Làm con phải trau giồi hiếu đạo,
Trước là lo trả thảo mẹ cha.
Lòng thành thương tưởng ông bà,
Nước nguồn cây cội mới là tu mi.
Giá trong sạch nữ nhi trượng tiết,
Giữ cho tròn trinh liệt mới mầu.
Ở sao đáng phận đạo dâu,
Thờ chồng tiết hạnh mới hầu gái ngoan.

57. Ðừng có cậy giàu sang chẳng nể,
Không kiêng chồng, khi dể công cô.
Ấy là những gái hung đồ,
Xúi chồng tranh cạnh hồ đồ sân si.
Tánh ngoan ngạnh không vì cô bác,
Thói lăng loàn bạn tác khinh khi.
Ngày sau đọa chốn Âm Ty,
Gông kềm khảo kẹp, ích gì rên la.

65. Người tai mắt đạo nhà khá giữ,
Nghĩa anh em cư xử thuận hòa.
Vẹn tròn đạo cả giềng ba,
Kính anh mến chị thì là phận em.
Trên thương dưới xét xem kẻ nhỏ,
Lúc lâm nàn chớ bỏ tránh xa.
Cũng là một gốc sanh ra,
Gồm bao nâng đỡ, ruột rà thương nhau.

73. Người trung trực lo âu việc nước,
Hưởng lộc vua tìm chước an bang.
Chớ làm con giặc tôi loàn,
Thuế sưu đóng đủ, đừng toan kế tà.
Phận làm tớ thật thà trung tín,
Với chủ nhà trọn kính trọn ngay.
Áo cơm no ấm hằng ngày,
Của người châu cấp ơn dày nghĩa sâu.

81. Ðừng gặp việc câu mâu biếng nhác,
Mà quên lời phú thác dặn dò.
Trước người giả bộ siêng lo,
Sau lưng gian trá, so đo tấc lòng,
Phải chừa thói loài ong tay áo,
Bớt học đòi khỉ dạo dòm nhà,
Gìn lòng ngay thẳng thật thà,
Nói năng minh chánh, lời ra phải nhìn.

89. Chớ quyệt ngữ mà khinh kẻ dại
Ðừng gian mưu hãm hại người hiền.
Anh em bằng hữu kết nguyền,
Một lòng tin cậy, phải kiêng phải vì.
Chẳng thấy khó mà khi mà thị,
Gặp người giàu mà vị mà nâng.
Dầu khi gặp lúc gian truân,
Cũng đồng giúp ích, chớ đừng mặt ngơ.

97. Làm người phải kỉnh thờ Thần Thánh,
Giữ lời nguyền, tâm tánh tưởng tin.
Hễ là niệm Phật tụng kinh,
Rèn lòng sửa nết, khá in như nguyền.
Chừa thói xấu đảo điên trong dạ,
Muôn việc chi chẳng khá sai lời.
Dối người nào khác dối Trời,
Trời đâu dám dối, ra đời ngỗ ngang.

105. Chớ lầm tưởng trong hang vắng tiếng,
Mà dể duôi sanh biến lăng loàn.
Con người có trí khôn ngoan,
Tánh linh hơn vật, biết đàng lễ nghi.
Phải cho biết kỉnh vì trên trước,
Ðừng buông lời lấn lướt hồ đồ.
Thuận cùng chú bác cậu cô,
Bà con chòm xóm, ra vô khiêm nhường.

113. Thấy già yếu hẹp đường nhượng tránh,
Ðừng chỗ đông buông tánh quá vui.
Cợt người ra dạ dể duôi,
Sanh điều xích mích, đâu nguôi dạ hờn.
Khi tế tự chớ lờn chớ dể,
Việc quan hôn thủ lễ nghiêm trang.
Gìn lòng chẳng khá lăng loàn,
Lễ nghi vẹn giữ vững vàng chớ quên.

121. Giàu sang ấy Ơn Trên giúp sức,
Phước ấm no túc thực túc y.
Thấy người gặp lúc tai nguy,
Ra tay tế độ, ấy thì lòng nhơn.
Thương đồng loại cũng hơn thí bạc,
Thấy trên đường miểng bát miểng chai.
Hoặc là đinh nhọn, chông gai,
Mau tay lượm lấy, đoái hoài kẻ sau.

129. Ấy làm phước khỏi hao khỏi tốn,
Chẳng có đâu mòn vốn thâm tiền.
Bắc cầu, đắp sửa đường liền,
Kẻ qua người lại bước yên gọn gàng.
Thi ân hậu bạc ngàn khó sánh,
Ráng tập thành sửa tánh từ hòa.
Việc lành chẳng khá bỏ qua,
Tuy là nhỏ nhít cũng là công phu.

137. Năng làm phải nhựt nhu ngoạt nhiễm,
Lâu ngày dồn tính đếm có dư.
Phước nhiều, tội quá tiêu trừ,
Phép Trời thưởng phạt, không tư chẳng vì.
Thấy lỗi mọn chớ nghi chẳng hại,
Thường dạn làm, tội lại hằng hà.
Vì chưng tụ thiểu thành đa,
Họa tai báo ứng chẳng qua mảy hào.

145. Giữa bụi thế giữ sao khỏi vấy,
Biết ăn năn xét lấy sửa lòng.
Làm người nhơn nghĩa xử xong,
Rủi cho gặp lúc long đong chẳng sờn.
Hễ biết nghĩa thọ ơn chẳng bội,
Giúp cho người chớ vội khoe ra.
Việc chi cũng có chánh tà,
Làm điều phải nghĩa, lánh xa vạy vò.

153. Khi gặp chuyện khá dò xét cạn,
Liệu sức mình cho hẳn sẽ làm.
Chớ đừng thấy của dấy tham.
Giục người làm quấy ắt cam đồng hình.
Ở ngay thẳng Thần minh bảo hộ,
Nết xéo xiên gặp chỗ rạc tù.
Trong đời rất hiếm võ phu,
Lường cân tráo đấu, dối tu cúng chùa.

161. Còn hoi hóp tranh đua bay nhảy,
Nhắm mắt rồi phủi thảy lợi danh.
Lương tâm thường xét cho rành,
Của không phải nghĩa, chớ sanh lòng tà.
Người quân tử chẳng thà chịu khổ,
Ðâu làm điều nhục tổ hổ tông.
Ðứa ngu thấy của thì mong,
Không gìn tội lỗi, phép công nước nhà.

169. Bày chước độc, xúi ra việc quấy,
Tổn cho người mà lấy lợi riêng.
Hễ nghe khua động đồng tiền,
Sửa ngay làm vạy, không kiêng chút nào.
Người nghèo khổ biết sao than kể,
Kẻ lễ nhiều cậy thế ỷ quyền.
Làm quan tính kế đảo điên,
Gạt thâu gia sản, đất điền của dân.

177. Thả tôi tớ thôn lân húng hiếp,
Bức gái lành, ép thiếp đòi hầu.
Trong lòng mưu chước rất sâu,
Mai sau suy sụp, đáo đầu ra chi.
Gái xướng kỵ, trai thì du đãng,
Phá tan hoang gia sản suy vi.
Làm người phải khá xét suy,
Của rơi chớ lượm, tham thì phải thâm.

185. Còn một nỗi gian dâm đại tội,
Lấy vợ người làm lỗi tiết trinh.
Tuy là Trời Ðất rộng thinh,
Mắt dường sao nháy chiếu minh lòng người.
Lương tâm biết hổ ngươi chừa lỗi,
Mới biệt phân sừng đội lông mang.
Việc lành việc dữ đồn vang,
Tuy là bóng khuất xương tan tiếng còn.

193. Gái tiết hạnh giữ tròn danh giá,
Chớ học đòi mèo mả gà đồng.
Làm điều nhục nhã tổ tông,
Tiếng nhơ giặt rửa biển sông đặng nào.
Trai trung hiếu sửa trau ba mối,
Ðừng buông lung lầm lỗi năm hằng.
Hung hoang tội báo nghiệt căn,
Kẻ chê người thị không bằng cỏ cây.

201. Khá tiết kiệm hằng ngày no đủ,
Tánh siêng năng lam lụ làm ăn.
Lòng chừa biếng nhác kiêu căng,
Của tiền lãng phí không ngằn phải tiêu.
Lòng Trời Ðất thương đều muôn vật,
Ðức háo sanh Tiên Phật một màu.
Thượng cầm hạ thú lao xao,
Côn trùng thảo mộc loài nào chẳng linh.

209. Nó cũng muốn như mình đặng sống,
Nỡ lòng nào tuyệt giống dứt nòi.
Bền công kinh sách xem coi,
Vô can sát mạng, thiệt thòi rất oan.
Chớ kiếm thế gọi ngoan xảo trá.
Lưới rập chim, thuốc cá, đốt rừng.
Thương thay phá noãn lẫy lừng,
Tội căn báo ứng, biết chừng nào an.

217. Lại có kẻ hung hoang ác nghiệt,
Cướp giựt rồi chém giết mạng người,
Ðoàn năm, lũ bảy dạo chơi,
Hiếp người lương thiện, phá đời hại dân.
Tua khá tưởng thương lần nòi giống,
Hãy xét vì mạng sống khó cầu.
Cũng đừng bài bạc lận nhau,
Rủ ren rù quến, lấy xâu ăn đầu.

225. Phải hiểu biết máy sâu họa kín,
Thánh Thần đâu tư lịnh bỏ qua.
Thường ngày tuần khắp xét tra,
Phạt người hung ác, đọa sa A Tỳ.
Sống dương thế, hành thì căn bịnh,
Xui tai nàn dấp dính theo mình.
Ăn năn khử ám hồi minh,
Từ bi Trời Phật rộng tình xét cho.

233. Ðừng cố oán thầm lo gây họa,
Ðem lòng thù hăm dọa rấp đường.
Ðốt nhà, phá cống, tháo mương,
Nước tràn lụt ngập, ruộng vườn tan hoang.
Thêm liều mạng đặng toan đổ tội,
Cho người hiền chịu lỗi vương mang.
Khi hồn lìa khỏi trần gian,
Hóa ra ngạ quỉ cơ hàn khổ thân.

241. Ðời nhiều kẻ khi Thần thị Thánh,
Ám muội lòng, tánh hạnh gổ ganh.
Thấy ai làm phải làm lành,
Xiểm gièm cho đặng khoe danh của mình.
Lại còn có tánh tình hiểm độc,
Xúi phân chia thân tộc ruột rà.
Làm cho chồng vợ lìa xa,
Cả đời nghiệt báo, oan gia chẳng rời.

249. Muốn tránh đặng khỏi nơi tội quá,
Lánh kẻ tà, chẳng khá nên gần.
Thí tiền thí bạc, chẩn bần,
Người đau thí thuốc, Thánh Thần phước ban.
Ðêm thanh vắng chớ toan mưu dối,
Xúi trẻ thơ lầm lỗi ngỗ ngang.
Âm đài gông tróng sẵn sàng,
Chờ khi thác xuống, cổ mang hành hình.

257. Các thơ truyện huê tình xé hủy,
Kẻo để đời làm lụy luân thường.
Nói lời tục tĩu không nhường,
Tội hành cắt lưỡi, trăm đường ghê thay!
Lại có kẻ miệng ngay lòng vạy,
Tởi làm chùa, dối cậy in kinh.
Ăn gian xới bớt cho mình,
Dầu qua dương pháp, luật hình Diêm Vương.

265. Thêm những sãi giả nương cửa Phật,
Của thập phương châu cấp thê nhi.
Ngày sau đọa lạc Âm Ty,
Thường thường khảo kẹp chẳng khi nào rời.
Thấy giấy chữ rớt rơi lượm lấy,
Ðốt ra tro bỏ chảy dòng sông.
Thủy triều vận tải biển đông,
Lòng hằng dường ấy, phước đồng ăn chay.

273. Chịu cực khổ đắng cay biết mấy,
Cuốc, cày, bừa, gieo, cấy, gặt, đong,
Làm ra lúa gạo dày công,
Dầm mưa dan nắng kẻ nông nhọc nhằn.
Nhờ Viêm Ðế đức cao ân nặng,
Tìm lúa khoai, người đặng no lòng.
Ngày ngày vọng niệm chớ vong,
Chẳng nên hủy hoại mới phòng khỏi hoang.

281. Chớ hiểm độc, dạ lang lần lựa,
Nhơn thất mùa, bế vựa gắt gao.
Chờ khi lúa phát giá cao,
Khai ra bán mắc, Trời nào dung cho.
Ơn trợ giúp khá lo đền báo,
Giữ vẹn tròn nghĩa đạo với đời.
Túng cùng vay mượn của người,
Vui lòng tính trả vốn lời cho kham.

289. Chớ oán chạ, tham lam ngược ngạo,
Bội nghĩa ân, trở tráo chước sâu.
Luân hồi thưởng phạt rất mầu,
Chuyển thân tái thế, ngựa trâu công đền.
Người phú túc vun nền âm đức,
Lấy lòng nhơn giúp sức trợ nghèo.
Chớ sanh chước hiểm hẹp eo,
Lời tăng quá vốn, kẻ nghèo xiết than.

297. Làm mặt phải bạc ngàn cúng Phật,
Ép kẻ nghèo cố đất cầm vườn.
Phật Trời nhơn vật đồng thương,
Có đâu hưởng của bất lương mà mời.
Phận làm chủ lấy lời nhỏ nhẹ,
Mà nghiêm trừng mấy kẻ tôi đòi.
Ðừng lòng nham hiểm hẹp hòi,
Buông lời chửi rủa, đòn roi không từ.

305. Tánh ác độc, tội dư tích trữ,
Chốn Âm Cung luật xử nặng nề.
Ðánh đòn khảo kẹp gớm ghê,
Hành hình khổ não chẳng hề nới tay.
Miền Âm cảnh nhiều thay hình lạ,
Cõi dương trần tội quá dẫy đầy.
Thánh Hiền kinh sách dạy bày,
Lòng người ám muội, lỗi gây ra hoài.

313. Kẻ lỗ mãng chê bai khinh dể,
Rằng thác rồi còn kể ra chi.
Nhãn tiền trả quả tức thì,
Tội dư con cháu một khi đền bồi.
Chớ quấy tưởng luân hồi phi lý,
Mà hung hăng chẳng nghĩ chẳng suy.
Thi hài như gỗ biết gì,
Linh hồn là chủ thông tri việc đời.

321. Lúc chung mạng, dứt hơi hồn xuất,
Quỉ Vô thường sẵn chực đem đi.
Dắt hồn đến chốn Âm Ty,
Xét xem công quả chẳng ly mảy hào.
Người lương thiện ra vào thong thả,
Kẻ tội nhiều đày đọa rất minh,
Phật Trời phép lạ hiển linh,
Hành cho tan xác, huờn hình như xưa.

329. Con bất hiếu, xay, cưa, đốt, giã,
Mổ bụng ra phanh rã tim gan.
Chuyển thân trở lại trần gian,
Sanh làm trâu chó đội mang lông sừng.
Kìa những gái lẫy lừng hạnh xấu,
Bỏ vạc đồng đốt nấu thảm kinh.
Vì chưng trinh tiết chẳng gìn,
Có chồng còn lại ngoại tình với trai.

337. Kẻ tham lợi cột mai cột mối,
Chuốt trau lời giả dối ngọt ngon.
Dỗ dành rù quến gái non,
Làm hư hoại tiết cháu con nhà người.
Lòng lang độc vui cười hớn hở,
Chốn Diêm đình phạt quở trừng răn.
Gông kềm khảo kẹp lăng xăng,
Hành cho đáng kiếp tội căn đã làm.

345. Ngục đao kiếm cầm giam phạm ác,
Tánh gian dâm hành phạt gớm ghê.
Giáo gươm bén nhọn tư bề,
Chém đâm máu chảy tràn trề ngục môn.
Hành đến chết huờn hồn sống lại,
Cho đầu thai ở tại thanh lâu.
Ngày đêm đưa rước chực chầu,
Công bình Thiên đạo, phép mầu Chí Linh.

353. Móc nhọn vắt treo mình nhỏng nhảnh,
Cối đạp đồng rất mạnh giã dần.
Ấy là phạt kẻ lường cân,
Ðo gian đong thiếu, Thánh Thần chẳng kiêng.
Bầy chó dữ mang xiềng chạy đại,
Thấy tội nhân xúm lại phân thây.
Hình nầy phạt kẻ dại ngây,
Khinh khi Tam giáo, đọa đày thế ni.

361. Ao nước nóng sôi thì sục sục,
Dầm cho người rã rục thịt xương.
Cũng vì lòng dạ vô lương,
Ðệ huynh bất mục, chẳng thương đồng bào.
Nhiều gộp núi như đao chơm chởm,
Thấy dùn mình táng đởm rất ghê,
Thây người máu chảy dầm dề,
Tiếng la than khóc tư bề rùm tai.

369. Phạt những kẻ sửa ngay ra vạy,
Tớ phản thầy, quan lại bất trung.
Hành rồi giam lại Âm cung,
Ngày đêm đánh khảo, trăng cùm xiềng gông.
Hình bào lạc cột đồng vòi vọi,
Ðốt lửa hồng ánh giọi chói lòa.
Trói người vào đó xát chà,
Vì chưng hung bạo đốt nhà, bắn săn.

377. Có cọp dữ nhăn răng đưa vấu,
Gặp tội nhân quào quấu xé thây.
Ấy vì lòng dạ chẳng ngay,
Giết người lấy của bị nay hình nầy.
Ao rộng lớn chứa đầy huyết phẩn,
Xô người vào lội lặn nhờm thay.
Tanh hôi mình mẩy vấy đầy,
Trồi lên hụp xuống, gậy cây đánh đầu.

385. Ðể hành kẻ chứa xâu lường của,
Trù ếm người, chửi rủa Tổ tông.
Ðồ dơ giặt đổ rạch sông,
Ðương khi uế trược thẳng xông chỗ thờ.
Vào bếp núc lúc nhơ không kể,
Phơi áo quần chẳng nể Tam quang.
Buông lời tục tĩu dâm loàn,
Lâu mau nặng nhẹ, chịu mang tội nầy.

393. Ao rộng sâu chứa đầy giòi tửa,
Hơi tanh hôi thường bữa lẫy lừng.
Gạo cơm hủy hoại quen chừng,
Phạt ăn dơ dáy mới ưng tội hình.
Cột trói ngược quá kinh rất lạ,
Quỉ Dạ Xoa đánh, vả, kẹp, cưa.
Vì chưng chửi gió mắng mưa,
Kêu tên Thần Thánh chẳng chừa chẳng kiêng.

401. Bàn chông nhọn liền liền đánh khảo,
Tra tội nhơn gian giảo ngược ngang.
Hành người bế địch trợ hoang,
Thừa năm hạn đói mưu toan bức nghèo.

405. Thành Uổng Tử cheo leo gớm ghiếc,
Cầm hồn oan rên siết khóc than.
Dương gian ngỗ nghịch lăng loàn,
Liều mình tự vận, không màng thảo ngay.
Xuống Ðịa ngục, đọa đày hành mãi,
Ðúng số rồi, còn phải luân hồi.
Hóa công xem xét đền bồi,
Lành siêu, dữ đọa, thêm nhồi tội căn.

413. Cầu Nại Hà bắc giăng sông lớn,
Tội nhơn qua óc rởn dùn mình.
Hụt chơn ván lại gập ghình,
Nhào đầu xuống đó, cua kình rỉa thây.
Nhiều thứ rắn mặt mày dữ tợn,
Ngóng cổ trông mắt trợn dòm người.
Gắp thây nuốt sống ăn tươi,
Vì bày thưa kiện, móc bươi xúi lời.

421. Trong núi lửa bay hơi tanh khét,
Linh hồn người đầy nghẹt trong ngoài.
Phạt răn quến gái dụ trai,
Bày ra thuốc độc phá thai tuyệt loài.
Người ở thế mấy ai khỏi lỗi,
Biết lạc lầm sám hối tội căn.
Tu tâm sửa tánh ăn năn,
Ba giềng nắm chặt, năm hằng chớ lơi.

429. Ngặt có kẻ tưởng Trời tin Phật,
Mà trong lòng chẳng thật kính thành.
Lâm nguy miệng vái làm lành,
Tai qua rồi lại dạ đành phụ vong.
Chớ thái quá, đừng lòng bất cập,
Phép tu hành luyện tập nhiều ngày.
Làm lành, xem phải, nói ngay,
Giữ ba điều ấy thiệt rày phước duyên.

437. Lời kệ sám duy truyền khuyến thiện,
Câu văn từ luận biện thật thà.
Chẳng dùng những tiếng sâu xa,
E không hiểu thấu, diễn ra ích gì!
Chớ buông tiếng thị phi khinh dể,
Rán làm lành phước để cháu con.
Làm người nhơn nghĩa giữ tròn,
Muôn năm bóng khuất, tiếng còn bay xa.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối

Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối

Nghe lời khuyến thiện rất may,
Nguyện lòng niệm Phật ăn chay làm lành.
Ngày ngày tập sửa tánh thành,
Đêm đêm tự tỉnh tu hành ăn-năn.
Một là hối-ngộ tội căn,
Hai là cầu đặng siêu-thăng cửu-huyền.
Đương sanh hạnh hưởng phước duyên,
Trong nhà già trẻ miên-miên thái-bình.
Sau dầu đến chốn Diêm-Đình,
Linh-hồn trong sạch nhẹ mình thảnh-thơi.
Luân-hồi trở lại trên đời,
Tiền công thì cũng Phật Trời thưởng ban.
Cầu xin trăm họ bình-an,
Nước giàu dân mạnh thanh-nhàn muôn năm.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Bài Xưng Tụng Công Ðức Phật, Tiên, Thánh, Thần

Bài Xưng Tụng Công Ðức Phật, Tiên, Thánh, Thần

Hào-quang chiếu chín từng mây bạc,
Thần, Thánh, Tiên thừa hạc cỡi rồng.
Phép linh thiệt rất chí công,
Hóa sanh muôn vật, ngưỡng trông phước đời.
Trên Điện-Ngọc Vua Trời ngự giáng,
Trước đền vàng phán đoán phân-minh.
Cõi trần trung giái thinh-thinh,
Phàm gian lao-khổ đao binh tai-nàn.
Lòng Trời cảm cứu an lê-thứ,
Độ chúng sanh muôn xứ gội ơn.
Đạo Nho truyền dạy nghĩa nhân,
Văn-Tuyên Khổng-Thánh khuyến dân răn đời.
Ghi các sách ngàn lời để lại,
Chép nhiều thơ vạn đại truyền ra.
Tây-phương cõi Phật chói lòa,
Từ-bi Phật-Tổ hải-hà độ dân (cúi đầu).
Lòng cảm xót dương trần lận đận,
Ra oai-linh tiếp-dẫn nhơn cầm.
Phổ-Đà có Phật Quan-Âm (cúi đầu),
Ra công cứu thế, ân thâm đức dày.
Nhiều kiếp đã đầu thai biết mấy,
Xuống Hồng-trần khuyến dạy thương sanh.
Lão-Quân ứng hóa Tam-Thanh,
Khuyên răn nhơn vật lòng lành chớ xao.
Cơ huyền-diệu Đạo Cao minh-chánh,
Hiển phép mầu ma lánh quỉ kiêng.
Trừ yêu có Thánh Tề-Thiên,
Qui-y Phật pháp ở miền Tây-Phương.
Oai bốn hướng Thần nhường quỉ sợ,
Đức ba giềng tế trợ thương sanh.
Hớn-Trào Quan-Thánh bia danh,
Trung, can, nghĩa, khí, háo sanh giúp đời.
Tuần ba cửa, cõi Trời đều dụng,
Xét bốn phương, dân chúng dữ lành.
Linh-Tiêu Thái-Bạch Trường-Canh,
Truyền tâu Đế-Khuyết dữ lành nhơn gian.
Chí từ-huệ giúp an lê-thứ,
Thông rõ đời nhơn sự kiết hung.
Đại-Tiên ở chốn Thiên-cung,
Lòng lành thi phú thung-dung độ người.
Ánh Xá-lợi sáng ngời Cực-Lạc,
Hiện kim thân Bồ-Tát hóa duyên.
Thiên-Cung: Tinh Tú, Thánh, Tiên,
Địa kỳ: Thần Tướng đàn tiền giáng-lâm.
Lòng sở vọng lâm-dâm tụng-niệm,
Xin giải nàn Nam-Thiệm Bộ-Châu.
Chúng sanh cảm đức cao sâu,
Rèn lòng, sửa nết, lo-âu làm lành.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Giới Tâm Kinh

Giới Tâm Kinh

Vọng Thượng-Đế chứng lòng thành-tín,
Chúng sanh đồng bái kỉnh khẩn-nguyền.
Nguyền cho trăm họ bình yên,
Nhà nhà no ấm khỏi phiền khỏi than.
Nguyền Khổng-Thánh bảo toàn Nho-Giáo,
Lấy nghĩa nhơn Đại-Đạo truyền ra.
Tây-phương Phật-Tổ Di-Đà,
Nam-Hải Phổ-Đà cứu khổ Quan-Âm.
Lẽ báo ứng cao thâm huyền-diệu,
Cho chúng sanh đặng hiểu răn mình.
Đạo-Quân đức hóa háo sinh,
Rộng quyền máy nhiệm an-linh cứu đời.
Xin xót thương con người ngây dại,
Phép huyền-hư truyền dạy thế-gian.
Mong nhờ lịnh Đức Thánh-Quan,
Ra oai tiêu-diệt cho tàn ác ma.
Trường-Canh chói rạng lòa Kim-Khuyết,
Xin ban ơn giải nghiệt cho đời.
Tề-Thiên Đại-Thánh để lời,
Thiện nam, tín nữ nghe thời phải vưng.
Chớ tự phụ, cũng đừng khinh ngạo,
Lẽ Trời hằng quả báo chẳng sai.
Lời khuyên già trẻ gái trai,
Khá tua sửa nết, ăn chay làm lành.
Đấng Tạo-Hóa hóa sanh muôn vật,
Phú cho người tánh rất linh thông.
Đặt ra có họ, có dòng,
Vua, thầy, cha, mẹ, vợ, chồng, cháu, con.
Tình huynh-đệ tày non tợ biển,
Nghĩa hữu bằng phải kiếng phải tin.
Cang tam, thường ngũ phải gìn,
Chứa đức, làm lành, làm phước, làm doan.
Gặp người đói rách khốn nàn,
Ra tay chẩn cứu cho toàn nghĩa nhơn.
Mựa chớ ham giọng đờn tiếng quyển,
Thói dâm phong rù quyến nguyệt hoa.
Có ngày hư nát cửa nhà,
Xa gần đồn tiếng thúi tha vô cùng.
Trường đổ bác cũng đừng léo tới,
Phường trăng hoa hát bội khá từ.
Những điều nhơ-nhuốc phải chừa,
Hỗn-hào mắng nhiếc, nói thừa nói thêm.
Nơi địa ngục gông kềm sẵn đủ,
Để răn loài dâm phụ gian phu.
Ai ai bền chí mà tu,
Phước đem đổi tội cho phu dễ gì?

Có thơ rằng :

Dễ gì lộn kiếp đặng làm người,
May đặng làm người chớ dể-duôi.
Lành dữ hai đường vừa ý chọn,
Lành như tòng, dữ tợ hoa tươi.
Hoa tươi, tòng bá, khác nhau xa,
Tòng bá xơ rơ kém sắc hoa.
Gặp tiết đông-thiên sương tuyết bủa,
Chỉ còn tòng bá, chẳng còn hoa.

Còn hoa mà lại ích chi đâu,
Đẹp dáng tươi màu đặng mấy lâu.
Thử sánh ngọn đèn cùng bóng nguyệt,
Gió lay đèn tắt, nguyệt làu-làu.

Làu-làu một tấm tợ đài gương,
Trung, hiếu, tiết, trinh vẹn mọi đường.
Sang cả mặc người đừng bợ-đỡ,
Hoạnh tài trơ mắt khỏi tai-ương.

Tai ương hoạn họa luống ưu sầu,
Vì bởi hay bày chước hiểm sâu.
Lập kế đồ mưu âm hại chúng,
Kiếp sau mang lấy lốt heo trâu.

Heo trâu thân thể mạt hèn thay,
Mãn kiếp lại còn bị xẻ thây.
Lộng lộng lưới Trời tuy sếu-sáo,
Thưa mà chẳng lọt mảy lông mày.

Mày râu đứng giữa cõi trần-gian,
Gắng sức chống cho vững miếu đàng.
Phận gái tam tùng cùng tứ-đức,
Tề-gia nội trợ vẹn là ngoan.

Ngoan-ngùy chơn-chánh Phật Thần thương,
Chơn-chánh liên-hòa với thiện lương.
Thần-Thánh thành, do người chánh thiện,
Thiện-lương chơn-chánh đức không lường.

Không lường kẻ thiện với người hung,
Bợ đỡ giàu-sang phụ khốn cùng.
Ngoài mặt giả tuồng người trượng nghĩa,
Trong lòng dối kết chút tình chung.

Tình chung đặng cậy thế người sang,
Mượn tiếng khua môi với xóm làng,
Lời dạy Thần Tiên không kể đến,
Đạo mầu chẳng cứ, cứ khoe-khoang.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
đang cập nhật nội dung

Đánh giá bài viết

4.98/32 rates

إرسال تعليق

Cảm ơn Đạo Hữu đã đóng góp. Chúc Đạo Hữu một ngày an lạc! A Di Đà Phật