Kinh Thế Đạo

Kinh Thế Đạo
A+ A-




KINH THẾ ĐẠO

Kinh Thuyết Pháp

Kinh Thuyết Pháp


Trường Phổ tế khó khăn lắm nỗi.
Cậy Thánh tâm sửa đổi tánh phàm.
Dìu đời với sức không kham,
Mượn quyền thuyết pháp đặng làm cơ quan.
Ðại Từ Phụ hồng ân rưới khắp,
Trợ giúp con đặng lập nên công.
Muốn cho thiên hạ đại đồng,
Lấy câu cứu khổ dụ lòng thương sanh.
Nguyện lời nói biến hình bác ái,
Nguyện chí thành sửa máy tà gian.
Nguyện cho Khí tịnh, Thần an.
Nguyện xin thính giả hiểu đàng chơn tu.
Nguyện các Ðấng đương chầu Bạch Ngọc,
Giúp thông minh lảu thuộc văn từ.
Cảm quang diêu động tâm tu.
Khai cơ giải thoát mở tù Phong đô.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Nhập Hội

Kinh Nhập Hội

Trên Bạch Ngọc Chí Tôn cao ngự,
Giữa Tây phương nắm giữ Thiên điều.
Dưới Ngọc Hư kể bao nhiêu,
Thiêng liêng các Ðấng lập triều trị dân.
Một nuôi nấng tinh thần tinh khiết.
Hai dạy răn cho biết tội tình.
Ba lo trị thế thái bình.
Cộng chung pháp luật Thiên đình chí công.
Các con vốn trong vòng Thánh thể.
Phép tu vi là kế tu hành.
Mở đường tích cực oai linh,
Cậy phương thuyết giáo vẽ thành Kinh chơn.
Ðại Từ Phụ ra ơn dìu dẫn,
Diệt trí phàm: hờn giận, ghét ganh.
Ðể tâm dưới ánh Chí Linh ,
Soi tường chơn lý, chỉ rành chánh văn.
Cơ chuyển thế khó khăn lắm nỗi,
Mượn Thánh ân xây đổi cơ đời.
Thuận nhơn tâm ắt thuận Trời,
Câu kinh Vô tự độ người thiện duyên.
Nguyện Ơn Trên cho yên trí não,
Nguyện Phật Tiên dạy bảo chơn linh.
Mang danh Hội Thánh đã đành,
Nâng tay nhục thể xây hình Chí Tôn .

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Xuất Hội

Kinh Xuất Hội


Nhờ Chí Tôn dạy khôn lẽ Ðạo,
Phật Thánh Tiên nhỏ máu nhiệt thành.
Vạn linh đã hiệp Chí Linh.
Hội xong cậy sức công bình thiêng liêng.
Ðã gầy dựng nên quyền giáo hóa,
Phòng hiệp vầy trọn cả nguyên nhân.
Vẹn toàn phàm thể Thánh thân,
Tùng theo chơn pháp độ lần chúng sinh.
Các con cúi đầu trình Sư Phụ,
Gìn từ tâm khuyến nhủ tăng đồ.
Ðạo hư vô, Sư hư vô.
Reo chuông thoát tục, phất cờ tuyệt sinh.
Cứ nương dưới máy linh cơ tạo,
Gươm huệ đưa trị xảo trừ tà.
Cửa Ðịa ngục chóng lánh xa,
Mượn hình Thánh thể cất nhà cõi Thiên.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Ði Ra Ðường

Kinh Ði Ra Ðường

Thân vận động trong trường thế sự.
Ðạo nhơn luân cư xử cùng đời.
Ðòi phen lúc biến khi dời,
Thân như bèo bọt giữa vời linh đinh.
Dòm thấy cuộc kinh dinh dưới mắt,
E trở tâm, tánh bắt đổi thay.
Con xin nương bóng Cao Ðài,
Bước ra một bước cảm hoài căn tu.
Gót chơn đưa rủi như sát mạng,
Vật hữu linh phàm nhãn không soi.
Xin tha họa gởi tai rơi,
Hồn linh nhờ có Ơn Trời chứng minh.
Ðại Từ Phụ oai linh bảo hộ,
Những chông gai quét ngõ ven đường.
Ði an khương, về an khương,
Cõi Thiên, cảnh tục cũng dường chung nhau.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Khi Về

Kinh Khi Về

Cảm tạ ơn trên đầu dìu dỡ,
Từ khi đi khi trở lộn về.
Ðặng xong phận sự mọi bề,
Tâm tu lại vững chẳng hề lãng xao.
Những nhớ bước Ðộng đào buổi trước.
Những nhớ khi Hớn rước Diêu Trì.
Găn-Ta-Ca đỡ bước đi,
Ra thành Phật Tổ gặp kỳ ly cung.
Dẩy xe trâu Côn Lôn trổi bánh,
Lý Lão Quân mong lánh phong trần.
Núi Ô-Li-Vê để dấu chân,
Gia-Tô Giáo chủ giải phần hữu sanh.
Con nguyện xin khuôn linh giúp sức,
Bước Ta-bà giục thức huệ quang.
Lòn thân dưới phép sầu than,
Tìm phương cứu khổ mở đàng giải căn.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Khi Ði Ngủ

Kinh Khi Ði Ngủ

Các vật dục xảy ra một buổi,
Cả hành vi lầm lỗi khôn ngừa.
Sấp mình cúi lạy xin thưa, (lạy)
Ơn trên Từ Phụ cho chừa tội khiên.
Trong giấc mộng nghỉ yên hồn phách,
Ðấng Thiêng liêng năng mách bảo giùm.
Bồng Lai, Cực Lạc chỉ chừng,
Ðẩy đưa xác tục, dựa gần cõi linh.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Khi Thức Dậy

Kinh Khi Thức Dậy

Vừa mở mắt giựt mình thức dậy,
Con mang ơn cúi lạy Từ Bi.
Tử sanh, sanh tử là chi?
Gẫm trong giấc mộng cũng bì như nhau.
Ðây tới sáng xôn xao với thế,
Nhẫng đua chen kiếm kế sanh nhai.
Có thân giữa chốn đọa đày,
Ðếm ba vạn sáu ngàn ngày khó khăn.
Xin Từ Phụ ra ân cứu độ,
Tăng huyền linh giác ngộ chí thành.
Rõ phước đức, biết tội tình,
Nắm tâm đắp vững mặt thành Càn Khôn.
Trên nhờ có Chí Tôn che chở,
Thần Thánh Tiên Phật hộ thân hèn.
Ðường tu nối bước cho quen,
Xa trần tăm tối, cận đèn thiêng liêng.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Vào Học

Kinh Vào Học

Ðại Từ Phụ xin thương khai khiếu,
Giúp trẻ thơ học hiểu văn từ.
Gần điều nên, lánh lẽ hư,
Nương gươm thần huệ đặng trừ nghiệt căn.
Dò đường Thánh khó khăn chẳng nại,
Tùng khuôn hồng nhỏ dại lớn khôn.
Buộc yêu thương bạn đồng môn,
Nghĩa nhân vẹn giữ xác hồn trăm năm.
Nguyện Tam Cang gìn tâm trọn đạo,
Nguyện Ngũ Thường hiếu thảo làm khuôn.
Nguyện nên hương hỏa tông đường,
Nguyện thương lê thứ trong trường công danh.
Cầu khẩn Ðấng Chơn linh nhập thể,
Ðủ thông minh học lễ học văn.
May duyên gặp hội Long vân,
Thuyền thơ ngọn gió Các Ðằng xuôi đưa.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Vào Ăn Cơm

Kinh Vào Ăn Cơm

Giữa vạn vật con người một giống,
Phải uống ăn nuôi sống thây phàm.
Từ Bi ngũ cốc đã ban,
Dưỡng nuôi con trẻ châu toàn mảnh thân.
Công Thần Nông hóa dân buổi trước,
Dạy khôn ngoan học chước canh điền.
Nhớ ơn bảo mạng Huyền Thiên ,
Con mong mượn xác đoạt quyền vĩnh sanh.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Khi Ăn Cơm Rồi

Kinh Khi Ăn Cơm Rồi

Nguyện nhớ ơn nông canh nhằn nhọc,
Nguyện ơn người lúa thóc giã xay.
Ngậm cơm, ơn ngậm hằng ngày,
Nên người, con nguyện ra tài lợi sanh.
Con cầu xin mảnh hình tráng kiện,
Giúp nên công xây chuyển cơ đời.
Trên theo pháp luật đạo Trời,
Dưới thương sanh chúng một lời đinh ninh.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Hôn Phối

Kinh Hôn Phối

Cơ sanh hóa Càn Khôn đào tạo,
Do Âm Dương hiệp đạo biến thiên.
Con người nắm vững chủ quyền,
Thay Trời tạo thế giữ giềng nhơn luân.
Ở trước mắt Hồng Quân định phận,
Ðạo vợ chồng đã xứng nợ duyên.
Trăm năm khá nhớ hương nguyền,
Chồng hay trọn nghĩa, vợ hiền trọn trinh.
Ðã cùng gánh chung tình hòa ái,
Tua đút cơm, sửa dải làm duyên.
Dưới trăng bóng ngọc còn nguyên.
Ôm bình, bao tóc sang hèn cũng cam.
Ðường tổ nghiệp nữ nam hương lửa,
Ðốt cho nồng từ bữa ba sanh.
Giữa đền để một tấc thành
Ðồng sanh đồng tịch đã đành nương nhau.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Tụng Khi Vua Thăng Hà

Kinh Tụng Khi Vua Thăng Hà

Ơn tấc đất ngọn rau nên nặng,
Ðạo quân vương chữ dặn nơi lòng.
Thượng Hoàng sánh đức Chí Công,
Mặc phò lê thứ khỏi vòng lao lung.
Giúp xã tắc tôi trung ra mặt,
Dẩy xa thơ trổi nhặt văn minh.
Giúp dân hưởng chữ thái bình,
Văn ban võ bá triều đình đặc an.
Nay gần đặng Ngọc Hoàng Thượng Ðế,
Tìm Chí Linh trị thế cứu đời.
Thiên tào Thánh ngự an ngôi,
Cầu cho dân chúng khỏi hồi can qua.
Bốn ngàn năm quốc gia đã lập,
Cõi Nam Châu bồi đắp giang san.
Trụ tâm nâng đỡ quốc hồn,
Giữ bền đảnh nghiệp vĩnh tồn hậu lai.
Kìa Chí Tôn Cao Ðài đương ngự,
Rưới hồng ân chặt giữ biên cương.
Sống thì định bá đồ vương,
Qui Thiên dựng lại miếu đường thuở xưa.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Tụng Khi Thầy Qui Vị

Kinh Tụng Khi Thầy Qui Vị

Ðường công danh càng nhìn quảng đại,
Nghĩa thầy trò nghĩ lại khó quên.
Vái cùng sư phụ linh thiêng,
Chứng lòng đệ tử đáp đền ơn xưa.
Dầu hoạn lộ chưa vừa sở nguyện,
Dầu cửa quyền trọng tiếng chăn dân.
Ơn cha sanh hóa ra thân,
Ơn thầy giáo huấn cũng gần như nhau.
Khoa Võ môn dầu nhào qua khỏi,
Trương vi rồng học hỏi nơi ai?
Ðẹp mình với vẻ cân đai,
Công thầy tô điểm từ ngày ấu xuân.
Cõi Hư vô nay gần phước Thánh,
Xin châu toàn đường hạnh môn sinh.
Cõi Thiên xin gởi chút tình,
Rót chung ly hận gật mình đưa thương.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Cầu Tổ Phụ Ðã Qui Liễu

Kinh Cầu Tổ Phụ Ðã Qui Liễu

Giọt máu mủ lưu truyền tại thế,
Con nhẫng mong truyền kế lửa hương.
Nguyện cùng Thất Tổ xin thương,
Cho bền gan tấc noi đường thảo ngay.
Xưa chẳng đặng phước may gặp Ðạo,
Nay phò trì con cháu tu tâm.
Dâng gươm huệ kiếm xin cầm,
Chặt lìa trái chủ đặng tầm ngôi Thiên.
Dầu tội chướng ở miền Ðịa Giái,
Dầu oan gia ở ngoại Càn Khôn,
Dầu mang xác tục hay hồn,
Nhớ cầu Từ Phụ Chí Tôn cứu nàn.
Dầu đoạt vị ở an Thiên cảnh,
Dầu tái sanh mở cảnh siêu phàm.
Nương thuyền Bát Nhã cho an,
Dìu chừng con cháu vào đàng nghĩa nhân.
Kìa lố bóng hồng ân bao phủ,
Cả thế gian đầy đủ đạo mầu.
Âm dương đôi nẻo như nhau,
Cửu Huyền Thất Tổ giữ câu thọ trì.
Chốn Tây phương đường đi thong thả,
Cõi Diêm Cung tha quả vong căn.
Tiêu diêu định tánh nắm phan,
Dò theo Cực Lạc đon đường siêu thăng.
Nhớ nỗi hiếu khó ngăn nét thảm,
Tưởng nguồn ân đốt nắm tâm hương.
Tấc lòng đòi đoạn đau thương,
Chơn mây vái với hương hồn hiển linh.
(Tụng tiếp KINH CỨU KHỔ)

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Cứu Khổ

Kinh Cứu Khổ

Nam mô Đại Từ, đại Bi Quảng Đại Linh Quan Thế Âm Bồ Tát. (đọc 3 lần)

Nam mô cứu khổ, cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát, bá thiên vạn ức Phật, hằng hà sa số Phật, vô lượng công đức Phật. Phật cáo A Nan ngôn, thử kinh Đại Thánh, năng cứu ngục tù, năng cứu trọng bịnh, năng cứu tam tai bá nạn khổ.

Nhược hữu nhơn tụng đắc nhất thiên biến, nhứt thân ly khổ nạn, tụng đắc nhứt vạn biến, hiệp gia ly khổ nạn.

Nam mô Phật lực oai, Nam mô Phật lực hộ, sử nhơn vô ác tâm linh nhơn thân đắc độ, hồi quang Bồ Tát, hồi thiện Bồ Tát, A Nậu Đại Thiên Vương chánh điện Bồ Tát, ma kheo ma kheo thanh tịnh tỳ kheo, quan sự đắc tán, tụng sự đắc hưu, chư Đại Bồ Tát, ngũ bá A La Hán, cứu hộ đệ tử..….nhứt thân ly khổ nạn, tự ngôn Quan Thế Âm. Anh lạc bất tu giải, cần độc thiên vạn biến tai nạn tự nhiên đắc giải thoát, tín thọ phụng hành tức thuyết, Chơn ngôn viết: Kim Ba Kim Ba Đế, Cầu Ha Cầu Ha Đế, Đa La Ni Đế, Ni Ha La Đế, Tì Lê Ni Đế, Ma Ha Dà Đế, Chơn Lăng Càn Đế, Ta Bà Ha.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Tụng Cha Mẹ Ðã Qui Liễu

Kinh Tụng Cha Mẹ Ðã Qui Liễu

Ơn cúc dục cù lao mang nặng,
Lỡ thân côi mưa nắng khôn ngừa.
Âm Dương cách bóng sớm trưa,
Thon von phận bạc không vừa hiếu thân.
Ðầu cúi lạy . . . . (1). . . . linh hiển,
Lễ muối dưa làm miếng hiếu tâm.
Ven Trời gởi chút tình thâm,
Ðộng lòng thương nhớ tuôn dầm lệ sa.
Xin có tưởng ruột rà máu mủ,
Cõi Hư linh bao phủ ân hồng.
Cảnh Thiên noi bước Hóa Công,
Nắm phan Tiếp Dẫn vào vòng Như Lai.
Chốn hư linh chờ ngày hội hiệp,
Dầu căn xưa quả kiếp dường bao.
Thà cam vui chốn Ðộng Ðào,
Ðừng vì nhớ trẻ trở vào phàm gian.
Nuốt tiếng than đôi hàng lã chã,
Tưởng đến điều nhơn quả mà đau.
Xem thân tuổi hạc càng cao,
E ra tử biệt Thiên Tào định phân.
Nối hương lửa nhơn luân đạo trọng,
Con gìn câu chết sống trọn nghì.
Sấp mình cúi lạy Từ Bi,
Tiền khiên phụ mẫu, Tam Kỳ xá ân.
Xin . . . . (2). . . .định thần định tánh,
Noi khuôn linh nẻo Thánh đưa chơn.
Thong dong cõi thọ nương hồn,
Chờ con lập đức giúp huờn ngôi xưa.
Chung ly biệt con đưa tay rót,
Mối thương tâm chưa ngớt đeo sầu.
Cha ở đâu, mẹ nơi đâu?
Tâm tang kính gởi một bầu lệ châu.
(1)Song thân, hoặc phụ thân hay mẫu thân đã qui liễu.
(2)Cha mẹ, hay lịnh cha, hoặc lịnh mẹ đã qui liễu.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Cầu Bà Con Thân Bằng Cố Hữu Ðã Qui Liễu

Kinh Cầu Bà Con Thân Bằng Cố Hữu Ðã Qui Liễu

Khi dương thế không phân phải quấy,
Nay hư linh đã thấy hành tàng.
Chí Tôn xá tội giải oan,
Thánh Thần Tiên Phật cứu nàn độ căn.
Ðã tầng chịu khó khăn kiếp sống,
Ðịnh tâm thần giải mộng Nam Kha .
Càn khôn để bước Ta-bà,
Ðoạt cơ thoát tục tạo nhà cõi Thiên.
Ơn Tạo Hóa tha tiền khiên trước,
Ðưa linh phan tiếp rước nguyên nhân.
Tiên phong phủi ngọn phất trần.
Liên đài đỡ gót đến gần Tây phương.
Cửa Cực Lạc đon đường thẳng tới,
Tầm Không môn đặng đợi Như Lai .
Hào quang chiếu diệu Cao Ðài ,
May duyên nay đã gặp ngày siêu sanh.
Trụ nguyên tánh hồn linh nhàn lạc,
Cõi Ðào Nguyên cỡi hạc thừa long.
Lánh xa trược chất bụi hồng,
Cung Tiên sớm tối vui vòng thung dung.
Nơi Cung Ngọc học thông đạo cả,
Chốn Hư vô Tạo Hóa tìm cơ.
Trên đường Thánh đức lần dò,
Trường sanh mầu nhiệm nơi lò Hoá Công .
Khá từ bỏ xa dòng bể khổ,
Diệt trần tình Cam lộ tẩy nhơ.
Ngân kiều Bát Nhã qua bờ,
Ðưa duyên để bước kịp giờ siêu thăng.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Tụng Huynh Ðệ Mãn Phần

Kinh Tụng Huynh Ðệ Mãn Phần

Niềm thủ túc đã đành vĩnh biệt,
Càng nhớ nhau càng tiếc tình nồng.
Thân nhau từ buổi lọt lòng,
Chén cơm miếng cá cũng đồng chia nhau.
Câu chọc ruột còn đau đớn bấy,
Huống Âm Dương hết thấy mặt nhau.
Rẽ phân cốt nhục đồng bào,
Cảnh Thiên cõi tục lẽ nào không thương.
Thương những thuở huyên đường ôm ấp,
Thương những khi co đắp chung mền.
Thương hồi thơ bé tuổi tên,
Thương cơn khôn lớn giữ bền nghĩa nhau.
Rủi Thiên số Nam Tào đã định,
Giải căn sinh xa lánh trần ai.
Khá tua theo bóng Cao Ðài ,
Nương mây thoát tục ra ngoài Càn khôn .
Khối tình ái hương hồn dầu nhớ,
Tránh oan gia giải nợ trầm luân.
Viếng thăm hôm sớm ... (1)...
Trọn câu thần tỉnh, ân cần cung Tiên.
Gởi Tổ phụ .. (2).. hiền cung phụng,
Gởi sắp em còn sống nơi đời.
Rót chung ly biệt lưng vơi,
Mảnh lòng tha thiết đưa người bạn xưa.
(1) Song thân, hoặc phụ thân, hay mẫu thân đã qui vị.
(2) Anh hay Chị mãn phần.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Tụng Khi Chồng Qui Vị

Kinh Tụng Khi Chồng Qui Vị

Niềm ân ái thân hòa làm một,
Nghĩa sơ giao khắc cốt ghi xương.
Nhắn mưa gởi gió đưa thương,
Từ đây thiếp tỏ đoạn trường với ai?
Càng nhớ đến những ngày hội ngộ,
Càng ngổn ngang mối nợ tình chung.
Ðã đành bẻ gãy chữ đồng,
Hiển linh chứng chiếu tấm lòng tiết trinh.
Dầu sống sót cũng đành gọi thác,
Vui chi còn man mác tơ duyên.
Thiệt thòi cam phận thuyền quyên,
Chứa chan giọt lệ cửu tuyền cuộn trôi.
Chàng đã đặng phủi rồi nợ thế,
Xin hiển linh giúp kẻ góa thân.
Chở che khỏi kiếp phong trần,
Gìn gương liệt nữ hồng quần để soi.
Chàng dầu đặng thảnh thơi cảnh trí,
Hộ dâu con giữ kỹ nhơn luân.
Chàng dầu vinh hiển cảnh Thần,
Gởi trong giấc mộng đặng gần cùng nhau.
Chàng dầu hưởng Thiên Tào huyền phép,
Ðỡ đường trần chật hẹp thân côi.
Chàng dầu cung ngọc an ngôi,
Xin thương thân thiếp nợ đời còn mang.
Gởi hồn phách cho chàng định số,
Gởi kiếp căn chàng mở dây oan.
Thiếp cam bao tóc thờ chàng,
Rót chung ly biệt đôi hàng lụy sa.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Tụng Khi Vợ Qui Liễu

Kinh Tụng Khi Vợ Qui Liễu

Tưởng tơ tóc cùng nhau trọn đạo,
Theo tùng phu sửa áo nâng khăn.
Âm Dương đôi nẻo chia phân,
Túy sơn Vân mộng mới gần đặng nhau.
Khi để bước phòng đào lạnh ngắt,
Mảnh tàn y dường nhắc nghi dung.
Thấy cơn tử biệt não nùng,
Hương thề tắt ngọn, lạnh lùng tơ duyên.
Càng nhớ đến lời nguyền buổi trước,
Thẹn non sông chưa ngớt tình nồng.
Phụ phàng chi bấy, Hóa Công ,
Lòng nào mà lại cắt lòng không đau.
Nối Tông tổ biết bao nghĩa trọng,
Cơ nghiệp còn lưu mộng tang du.
Mập mờ nhắn nguyệt đêm thu,
Kẻ còn người mất, ai sầu hơn ai?
Vói nhắn khách dạ đài có tưởng,
Vậy bóng hình để tướng nơi nao?
Hay là lạc bước nguồn đào,
Ðể thương cho mặt anh hào đeo mang.
Ngồi quạnh quẽ đèn tàn một bóng,
Chịu góa thân tuyết đóng song thu.
Bước Tiên nàng đã ngao du,
Ðoái tình thương kẻ ôm cầu khóc duyên.
Hay nàng đặng nhập miền Cực Lạc ,
Ðoái tưởng người chưa thoát trầm luân.
Ngước trông níu ngọn phất trần,
Chổi Tiên quét sạch nợ nần oan gia.
Dâng mảnh tâm gọi là của lễ,
Chén ly tình là lệ ái ân.
Dầu chi cũng nghĩa chí thân,
Khối tình còn có một lần đấy thôi.

“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Tế Chiến sĩ trận vong

Kinh Tế Chiến sĩ trận vong

Nợ cung kiếm, chiến chinh là nghiệp,
Giúp quốc dân sánh kịp tha bang.
Xông pha ra chốn chiến tràng,
Ðắng cay cam chịu, gian nan không sờn.
Nguyện lấy sức đền ơn cương thổ,
Dốc lòng lo báo bổ ơn nhà.
Trần hoàn gió bụi xông pha,
Dựng nên tổ nghiệp mấy tòa thiên nhiên.
Gầy việc cả truân chuyên lắm nỗi,
Lướt trận tiền mở lối chông gai.
Ngăn quân là bậc Thiên tài,
Ðỡ nâng quốc thể đến ngày hiển vinh.
Ðạp gió tuyết phận mình cam chịu,
Một kiếp sanh bận bịu giang sơn.
Muôn dân thất quốc căm hờn,
Ðịnh an nước cũ chi sờn lòng trai.
Ách nô lệ ngày nay hầu dứt,
Nước quật cường nhờ sức quốc dân.
Hồn thiêng rày đã tỉnh lần,
Muôn năm chung hưởng hồng ân của Trời.
Cờ Tiến Hóa đời đời chói rạng,
Giữ Nghĩa Nhân rọi sáng đạo mầu.
Bảo Sanh bủa khắp năm châu,
Toàn cầu chung hưởng phép mầu Chí Linh.
Mưu định quốc anh minh trị nước,
Giúp giống nòi bảo được tự do.
Hiển vinh là phước Trời cho,
An nguy vận nước chung lo mối giềng.
Nay nhân quả tiền khiên vừa mãn,
Cõi Hư linh cách biệt trần ai.
Hồn thiêng nương bóng Cao Ðài,
Theo vầng nhựt nguyệt ra ngoài Càn khôn.
Trọng nghĩa bạn, linh hồn nên nhớ,
Trợ cho nhau nâng đỡ nghiệp nhà.
Rượu nồng xin chớ bỏ qua,
Tình thân hưởng cạn mới là tri âm.
Công chinh chiến nay lần tỏ rạng,
Ðuốc từ bi rọi sáng tâm hồn.
Lọc lừa thế giới bôn chôn,
Lần theo đuốc huệ bảo tồn chúng sanh.
Công viên mãn đường mây nhẹ tách,
Lánh bến mê phủi sạch bợn trần.
Sống làm tướng, thác làm Thần,
Hiển linh xin chứng tấm lòng tiết trung.
TRUNG DÕNG
“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm 3 lần)
Kinh Thuyết Pháp

Kinh Thuyết Pháp

KINH THUYẾT PHÁP

BÀI KINH

  1. Trường Phổ tế khó khăn lắm nỗi.
  2. Cậy Thánh tâm sửa đổi tánh phàm.
  3. Dìu đời với sức không kham,
  4. Mượn quyền thuyết pháp đặng làm cơ quan.
  5. Ðại Từ Phụ hồng ân rưới khắp,
  6. Trợ giúp con đặng lập nên công.
  7. Muốn cho thiên hạ đại đồng,
  8. Lấy câu cứu khổ dụ lòng thương sanh.
  9. Nguyện lời nói biến hình bác ái,
  10. Nguyện chí thành sửa máy tà gian.
  11. Nguyện cho Khí tịnh, Thần an.
  12. Nguyện xin thính giả hiểu đàng chơn tu.
  13. Nguyện các Ðấng đương chầu Bạch Ngọc,
  14. Giúp thông minh lảu thuộc văn từ.
  15. Cảm quang diêu động tâm tu.
  16. Khai cơ giải thoát mở tù Phong đô.
  17. (Niệm 3 lần Câu Chú của Thầy).

GIẢI NGHĨA



Thế Ðạo: Ðạo ở đời, tức là đường lối dạy con người bổn phận làm một người ở đời thế nào cho hợp với lẽ phải và đạo lý. Ðó chính là Nhơn đạo.

Thế đạo (Nhơn đạo) ví như nền móng, Thiên đạo ví như nhà lầu. Không đào móng đúc nền cho vững chắc thì cất nhà lầu lên ắt sụp đổ. Cho nên, phải tu xong Nhơn đạo thì mới tiến lên Tiên đạo, kế đó lên Phật đạo, rồi cuối cùng tiến lên Thiên đạo. Sách Nho nói rằng: Dục tu Tiên đạo, tiên tu Nhơn đạo, Nhơn đạo bất tu, Tiên đạo viễn hỹ. Nghĩa là: Muốn tu Tiên đạo, trước tu Nhơn đạo, Nhơn đạo không tu, Tiên đạo xa vời vậy.

Kinh Thế đạo là những bài kinh dạy đạo làm người ở đời.

Kinh Thế đạo gồm 19 Bài Kinh, kể ra:
  • 10 Bài Kinh đầu, do Ðức Phạm Hộ Pháp đặt ra, có cầu Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn chỉnh văn lại.
  • Kế đó là Bài Kinh Hôn Phối do Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ ban cho.
  • Sau cùng là 8 Bài Kinh cúng tế trong Tang lễ, do Tiên Nương Ðoàn thị Ðiểm giáng cơ ban cho.

Kinh Thuyết Pháp: Thuyết là giảng giải, Pháp là giáo lý của một tôn giáo. Thuyết Pháp là thuyết giảng giáo lý của một tôn giáo để cho tín đồ hiểu rõ.

Thuyết pháp đồng nghĩa với Thuyết đạo. Trong Ðạo Cao Ðài, từ ngữ Thuyết đạo được thông dụng hơn.

Kinh Thuyết Pháp là bài Kinh để vị Chức sắc thuyết pháp và đồng nhi tụng trước khi bắt đầu buổi thuyết pháp.

Câu 1:
Trường Phổ tế khó khăn lắm nỗi.

Trường: Chỗ tụ họp nhiều người. Phổ tế: Phổ là bày ra khắp nơi, Tế là cứu giúp. Trường Phổ tế là "Cơ quan để cứu vớt hoặc độ rỗi những người lạc bước thối tâm, cùng an ủi khuyên lơn những kẻ đã bị luật pháp buộc ràng mà phế vong phận sự, hay là độ rỗi những kẻ hữu tâm tầm đạo."

C.1: Cơ quan Phổ tế nhơn sanh thường gặp phải nhiều nỗi khó khăn vất vả.

Câu 2:
Cậy Thánh tâm sửa đổi tánh phàm

Tâm, Tánh: Tâm là cái mà Trời phú cho mỗi người, nó vốn tốt đẹp và trọn lành, nên gọi là Lương Tâm. Tánh là cái thể hiện ra bên ngoài của Tâm, nó chính là hình thể của Tâm, cho nên Tâm và Tánh không khác nhau về bản chất.
Thánh tâm: Cái Tâm có tính chất Thánh, tức là cái Tâm thiện lương chơn chánh. Thánh Tâm thì sanh ra Thánh Tánh. Ðối ngược với Thánh Tâm là Phàm tâm, Phàm tâm thì sanh ra Phàm tánh hay Tánh phàm.
Cậy: Nhờ vào, dựa vào.
Tánh phàm: Cái Tánh hẹp hòi ích kỷ, xu hướng theo vật dục, làm cho con người trở nên thấp hèn.

C.2: Khơi dậy cái Thánh Tâm trong mỗi con người để nhờ nó mà sửa đổi cái Tánh phàm.

Câu 3-4:
Dìu đời với sức không kham,
Mượn quyền thuyết pháp đặng làm cơ quan.

Sức không kham: Không đủ sức làm nổi.
Cơ quan: Một tổ chức hoạt động đều hòa như bộ máy.

C.3-4: Dẫn dắt người đời, nhắm sức mình không làm nổi, nên phải mượn quyền thuyết giảng giáo lý để làm một cơ quan dìu dẫn người đời.

Câu 5-6:
Ðại Từ Phụ hồng ân rưới khắp,
Trợ giúp con đặng lập nên công.

Ðại Từ Phụ: Ðấng Cha lành lớn hơn hết, luôn luôn hết lòng thương yêu các con, mà con cái của Ngài là toàn thể chúng sanh trong Càn Khôn Vũ Trụ. Ðó là Ðấng Chí Tôn Thượng Ðế.
Lập nên công: Lập nên công nghiệp về thuyết pháp.

C.5-6: Ðại Từ Phụ ban bố ơn huệ khắp chúng sanh, xin giúp con lập nên công nghiệp nầy (giúp con thuyết pháp thành công).

Câu 7-8:
Muốn cho thiên hạ đại đồng,
Lấy câu cứu khổ dụ lòng thương sanh.

Thiên hạ: Dưới Trời, chỉ nhơn loại. Ở trên là Trời, nên gọi là Thiên thượng, dưới Trời là người nên gọi là Thiên hạ.
Ðại đồng: Ðại đồng là cùng chung một qui mô lớn lao. Ðó là cuộc sống lý tưởng của con người, không phân biệt quốc gia, chủng tộc, giai cấp, có cùng chung một tín ngưỡng, cùng nhau làm việc, cùng nhau vui hưởng kết quả làm được.
Dụ: Dỗ dành.
Thương sanh: Dân chúng, nhơn sanh.

C.7-8: Muốn cho nhơn loại đại đồng thì phải lấy đề tài Cứu Khổ Nhơn Sanh ra thuyết giảng để khuyến dụ lòng lành của nhơn sanh.

Câu 9-10:
Nguyện lời nói biến hình bác ái,
Nguyện chí thành sửa máy tà gian.

Nguyện: Cầu nguyện, mong muốn cầu xin.
Biến hình: Biến đổi thành hình tượng cụ thể.
Ðức Chí Tôn giảng về Bác ái và Chí thành như sau:

"Các con phải biết, Ðạo là tại lòng Bác ái và Chí thành. Bác ái là hay thương xót sanh linh hơn thân mình, cho nên kẻ có lòng Bác ái coi mình nhẹ hơn mảy lông, mà coi thiên hạ trọng bằng Trời Ðất. Còn Chí thành là mỗi việc lấy lòng thành thật mà đối đãi trong đời và trong Ðạo. Dù kẻ phú quí đến bậc nào đi nữa mà không có lòng Bác ái và Chí thành thì không làm chi nên việc." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. II. 45)

: Cong quẹo.
Gian: Dối trá.
Máy tà gian: Cơ quan hay tổ chức dối trá lập ra có mục đích lừa gạt người đời.

C.9-10: Xin cầu nguyện cho lời nói khêu gợi được lòng bác ái trong mỗi người thể hiện ra một cách cụ thể. Nguyện đem hết lòng thành thật sửa đổi những cơ quan tà mị gian trá.

Câu 11:
Nguyện cho Khí tịnh, Thần an.

Khí tịnh, Thần an: Tịnh là trong sạch. An là yên ổn.
Khí và Thần: Hai bửu trong Tam bửu của con người.
Tam bửu là: Tinh, Khí, Thần. Tinh là thể xác, Khí là chơn thần, Thần là linh hồn. Khí tịnh là Chơn thần trong sạch. Thần an là Linh hồn được yên ổn, không vọng động.

C.11: Xin cầu nguyện cho Chơn thần được trong sạch và Linh hồn được an ổn.

Câu 12:
Nguyện xin thính giả hiểu đàng chơn tu.

Thính giả: Người nghe. Thính là nghe, giả là người.
Chơn tu: Tu hành chơn thật, cố đạt được sự giải thoát khỏi luân hồi, không cầu phẩm tước, không cầu danh lợi.

C.12: Nguyện xin các thính giả hiểu rõ con đường Tu Chơn.

Câu 13-14:
Nguyện các Ðấng đương chầu Bạch Ngọc,
Giúp thông minh lảu thuộc văn từ.

Ðương chầu Bạch Ngọc: Ðang chầu Ðức Chí Tôn nơi Bạch Ngọc Kinh.
Lảu thuộc: Học thuộc bài làu làu, đọc lên không vấp.
Văn từ: Lời văn, chỉ về văn chương chữ nghĩa trong kinh sách.

C.13-14: Cầu nguyện với các Ðấng Thiêng liêng đang chầu Ðức Chí Tôn nơi Bạch Ngọc Kinh, giúp cho con được sáng suốt để học thông thuộc văn từ trong kinh sách.

Câu 15:
Cảm quang diêu động tâm tu.

Cảm: Mối rung động trong lòng.
Quang: Ánh sáng. Cảm quang là sự rung cảm trong lòng làm phát sinh một lằn ánh sáng, giống như một lằn sóng điện, gọi là lằn điển quang.
Diêu động: Dao động, lúc lắc làm cho lay động.
Diêu động tâm tu: Lúc lắc làm lay động cái tâm tu hành, tức là kêu gọi cái Tâm tu hành thức tỉnh.

C.15: (Tiếp theo câu 14) Giúp cho con có mối rung cảm trong lòng, tạo ra một lằn điển quang để làm thức tỉnh cái Tâm tu hành (của các thính giả).

Câu 16:
Khai cơ giải thoát mở tù Phong đô.

Khai cơ giải thoát: Mở ra một cơ quan giải thoát cho chúng sanh thoát khỏi luân hồi. Cơ quan giải thoát hiện nay chính là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tức Ðạo Cao Ðài, bởi vì Ðức Chí Tôn đã xác định: "TA nói cho chúng sanh biết rằng: Gặp Tam Kỳ Phổ Độ nầy mà không tu thì không còn trông mong siêu rỗi." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. I. 20)

Mở tù Phong đô: Mở cửa các nhà tù nơi cõi Phong Ðô Ðịa phủ để phóng thích các tội hồn, theo lịnh Ðại Ân Xá của Ðức Chí Tôn khi mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

C.16: Mở ra Ðạo Cao Ðài là cơ quan giải thoát chúng sanh khỏi luân hồi, và mở cửa Ðịa ngục nơi cõi Phong đô để phóng thích tất cả tội hồn theo lịnh Ðại Ân Xá của Chí Tôn.

Ðiều nầy rất rõ, vì Ðức Chí Tôn mở Ðạo Cao Ðài cũng là mở Ðại Ân Xá Kỳ Ba, để độ tận chúng sanh. Ðức Chí Tôn đã ra lịnh đóng cửa Ðịa ngục, phóng thích tất cả tội hồn, cho đi đầu thai vừa để trả quả, vừa để lập công, đồng thời mở rộng cửa Trời đón rước người tu đắc đạo.

Ðạo Cao Ðài là cơ quan giải thoát duy nhứt trong thời kỳ Mạt kiếp của Hạ Nguơn nầy, để chuẩn bị bước vào thời kỳ Thượng Nguơn Thánh đức, giúp tất cả Chơn linh, dầu Nguyên nhơn , Hóa nhơn hay Quỉ nhơn, nếu biết tu hành, lập công bồi đức thì thành đạo, thoát khỏi Luân hồi, trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Kinh Nhập Hội

Kinh Nhập Hội

KINH NHẬP HỘI

BÀI KINH

  1. Trên Bạch Ngọc Chí Tôn cao ngự,
  2. Giữa Tây phương nắm giữ Thiên điều.
  3. Dưới Ngọc Hư kể bao nhiêu,
  4. Thiêng liêng các Ðấng lập triều trị dân.
  5. Một nuôi nấng tinh thần tinh khiết.
  6. Hai dạy răn cho biết tội tình.
  7. Ba lo trị thế thái bình.
  8. Cộng chung pháp luật Thiên đình chí công.
  9. Các con vốn trong vòng Thánh thể.
  10. Phép tu vi là kế tu hành.
  11. Mở đường tích cực oai linh,
  12. Cậy phương thuyết giáo vẽ thành Kinh chơn.
  13. Ðại Từ Phụ ra ơn dìu dẫn,
  14. Diệt trí phàm: hờn giận, ghét ganh.
  15. Ðể tâm dưới ánh Chí Linh,
  16. Soi tường chơn lý, chỉ rành chánh văn.
  17. Cơ chuyển thế khó khăn lắm nỗi,
  18. Mượn Thánh ân xây đổi cơ đời.
  19. Thuận nhơn tâm ắt thuận Trời,
  20. Câu kinh Vô tự độ người thiện duyên.
  21. Nguyện Ơn Trên cho yên trí não,
  22. Nguyện Phật Tiên dạy bảo chơn linh.
  23. Mang danh Hội Thánh đã đành,
  24. Nâng tay nhục thể xây hình Chí Tôn.
  25. (Niệm 3 lần Câu Chú của Thầy).

GIẢI NGHĨA



Nhập hội: Nhập là vào, Hội là nhiều người tụ họp lại để bàn luận những vấn đề quan trọng, biểu quyết lấy ý kiến chung. Nhập Hội là vào Hội nghị.

Kinh Nhập Hội là bài Kinh để tất cả thành viên trong Hội Nghị đứng lên tụng trước khi bắt đầu cuộc Hội để cầu nguyện cuộc hội tiến triển tốt đẹp, đúng theo Luật Ðạo và thành công.

Câu 1-2:
Trên Bạch Ngọc Chí Tôn cao ngự,
Giữa Tây phương nắm giữ Thiên điều.

Bạch Ngọc: Bạch Ngọc Kinh, nơi ngự của Ðức Chí Tôn.
Chí Tôn cao ngự: Ðức Chí Tôn ngồi ở trên cao.
Tây phương: Cõi Cực Lạc Thế Giới ở về hướng Tây, là cõi của chư Phật. Thiên điều: Các điều luật pháp của Trời. Thiên điều được chép trong Thiên Thơ. Thiên điều do các Ðấng Tiên Phật họp Hội Nghị tại Ngọc Hư Cung lập ra để điều hành sự vận chuyển trong Càn Khôn Vũ Trụ và sự tiến hóa của vạn linh.

C.1-2: Ở trên hết là Bạch Ngọc Kinh, có Ðức Chí Tôn ngự trên cao. Ở giữa là cõi Tây phương Cực Lạc Thế Giới có chư Phật nắm giữ Thiên điều.

Câu 3-4:
Dưới Ngọc Hư kể bao nhiêu,
Thiêng liêng các Ðấng lập triều trị dân.

Ngọc Hư: Ngọc Hư Cung, ở từng Trời Hư Vô Thiên.

Lập triều trị dân: Thành lập triều đình cai trị toàn cả Càn Khôn Thế Giới và chúng sanh. Chữ Dân ở đây, chúng ta phải hiểu theo nghĩa rộng là toàn cả chúng sanh.

C.3-4: Ở phía dưới thì có Ngọc Hư Cung, các Ðấng Thiêng Liêng họp thành triều đình để cai trị chúng sanh trong toàn cả Càn Khôn Thế Giới.

Câu 5:Một nuôi nấng tinh thần tinh khiết.

Tinh thần: Phần sáng suốt trong con người để hiểu biết và phân biệt lẽ phải trái. Do đó, tinh thần chính là Chơn thần của con người.
Tinh khiết: Trong sạch.
Tinh thần tinh khiết: Chơn thần trong sạch. Một Chơn thần trong sạch khi ở trong một xác thân trong sạch. Muốn xác thân trong sạch thì phải: "Ẩm thực tinh khiết, Tư tưởng tinh khiết, Tín ngưỡng mạnh mẽ nơi Chí Tôn, Phật Mẫu."

C.5: Nhiệm vụ thứ nhứt của các Ðấng Thiêng Liêng nơi Ngọc Hư Cung là dạy nhơn sanh biết cách nuôi nấng tinh thần tinh khiết.

Câu 6:Hai dạy răn cho biết tội tình.

Nhiệm vụ thứ nhì là dạy bảo và răn cấm cho biết cái nào là tội lỗi đáng bị trừng phạt.

Câu 7:Ba lo trị thế thái bình.

Trị thế: Thế là đời, chỉ các cõi trần có nhơn loại ở.
Trị thế là cai trị nhơn loại trên các cõi trần.

C.7: Nhiệm vụ thứ ba của các Ðấng Thiêng liêng là cai trị nhơn loại trên các cõi trần cho được thái bình.

Câu 8:Cộng chung pháp luật Thiên đình chí công.

Nói chung lại thì các Ðấng Thiêng liêng nơi Ngọc Hư Cung thi hành luật pháp của Thiên đình rất công bình.

Câu 9:Các con vốn trong vòng Thánh thể.

Vốn: Nguyên từ trước. Thánh thể của Ðức Chí Tôn: Những Chức sắc Cửu Trùng Đài từ phẩm Giáo Hữu trở lên.

C.9: Chúng con đây, nguyên từ trước ở trong vòng Thánh thể của Ðức Chí Tôn.

Câu 10:Phép tu vi là kế tu hành.

Phép tu vi: Phép là cách thức, phương pháp; Tu là sửa đổi cho tốt đẹp, tu hành; Vi là phần rất nhỏ. Phép tu vi là phương pháp sửa đổi cho tốt đẹp từ những việc rất nhỏ nhặt.

Lưu Bị, một vị vua thời Tam Quốc, hiệu là Hớn Chiêu Liệt, đã dạy con là Thái Tử Lưu Thiện (sau gọi là Hậu chủ) một câu rất nổi tiếng: "Vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi, vật dĩ ác tiểu nhi vi chi." Nghĩa là: Ðừng cho việc lành nhỏ mà không làm, đừng cho việc ác nhỏ mà lại làm.

Ý nói: Thấy việc lành nhỏ, cho rằng công đức không đáng kể nên không thèm làm. Trái lại, khi thấy việc ác nhỏ, cho rằng tội lỗi không đáng kể nên lại làm.

Việc gì cũng vậy, luôn luôn bắt đầu từ cái nhỏ nhặt rồi mới đến cái to lớn. Ðối với người tu hành, phải bắt đầu tập làm các việc lành nhỏ, thí dụ: lượm miểng chai, đinh nhọn, chông gai rơi trên đường đi; nhường ghế cho cụ già; đưa người tàn tật qua đường,... và tránh làm các điều ác nhỏ, thí dụ: bẻ một cành hoa đẹp nơi công viên, giết một con kiến, con dế,...

C.10: Cách thức sửa đổi cho tốt đẹp từ những việc nhỏ. Ấy là kế hoạch tốt nhứt của người tu hành.

Câu 11-12:
Mở đường tích cực oai linh,
Cậy phương thuyết giáo vẽ thành Kinh chơn.

Tích cực: Nghiêng về mặt hành động để đạt được những kết quả cụ thể.
Oai linh: Oai nghiêm thiêng liêng.
Thuyết giáo: Thuyết giảng giáo lý.
Kinh chơn: Quyển kinh chép lại đúng y lời giảng dạy của chư Tiên, Phật.

C.11-12: Mở ra con đường tích cực và oai linh. Nhờ vào phương cách thuyết giảng giáo lý, diễn tả ra được Chơn lý, nên tạo thành các quyển Chơn Kinh.

Ðức Phật Thích Ca, lúc còn sanh tiền, Ngài chỉ thuyết giảng giáo lý mà Ngài đã chứng ngộ được, chớ Ngài không hề cầm bút viết ra một quyển kinh sách nào. Sau khi Ngài tịch, các Ðại Ðệ tử của Ngài họp nhau lại, tạo thành các buổi kết tập kinh điển, đọc lại các lời giảng dạy của Phật, ghi chép thành Tam Tạng Kinh, truyền lại đến ngày nay.

Câu 13-14:
Ðại Từ Phụ ra ơn dìu dẫn,
Diệt trí phàm: hờn giận, ghét ganh.

Trí phàm: Cái trí não suy nghĩ hiểu biết còn thấp kém.

Trong mỗi con người đều có 2 phần tương đối trái ngược nhau là: Chánh, Tà; Thánh, Phàm; Phật, Ma. Một bên có khuynh hướng kéo con người đi lên chỗ cao thượng, một bên thì muốn kéo con người đi xuống chỗ thấp kém tối tăm.

Diệt trí phàm là tiêu diệt cái phần phàm của trí não để phần Thánh trí hiện rõ ra, đưa con người lên chỗ cao thượng.

C.13-14: Xin Ðức Chí Tôn ban ơn dìu dẫn chúng con, giúp chúng con tiêu diệt những sự giận hờn, ganh ghét trong cái phần phàm tục của trí não.

Câu 15-16:
Ðể tâm dưới ánh Chí Linh,
Soi tường chơn lý, chỉ rành chánh văn.

Tâm: Chữ Tâm ở đây lấy theo nghĩa bên Phật giáo, là phần vô hình tinh thông linh diệu của con người, mà nếu phân tách ra thì Tâm gồm: Chơn linh và Chơn thần của con người.

Ánh Chí Linh là ánh sáng của Ðức Chí Tôn.

Soi tường: Soi rọi rõ ràng.
Chơn lý: Cái lẽ chơn thật không biến đổi theo thời gian và không gian (Bất biến).
Chánh văn: Văn chương có ý nghĩa ngay thẳng, diễn tả những điều chơn thực, đúng đắn.

C.15-16: Ðặt cái Tâm dưới ánh sáng thiêng liêng của Ðức Chí Tôn để nhờ ánh sáng ấy soi rọi cho rõ ràng cái Chơn lý bất biến, và chỉ rõ cái văn chương chơn chánh.

Câu 17-18:
Cơ chuyển thế khó khăn lắm nỗi,
Mượn Thánh ân xây đổi cơ đời.

Chuyển thế: Làm cho đời biến đổi từ xấu thành tốt.
Cơ Chuyển thế: Cơ quan có nhiệm vụ làm cho Ðời biến đổi từ xấu thành tốt. Ðức Chí Tôn lập Ðạo Cao Ðài là mở ra một Cơ quan Chuyển thế, với chủ trương NHO TÔNG CHUYỂN THẾ, nghĩa là dùng tinh hoa giáo lý Nho giáo để dạy dỗ nhơn sanh, làm cho cuộc đời hung bạo hiện nay sẽ trở nên thuần lương đạo đức.
Thánh ân: Ơn huệ của Ðức Chí Tôn.
Xây đổi: Xoay chuyển làm cho thay đổi.
Cơ đời: Bộ máy của đời. Bộ máy nầy đang hoạt động mạnh mẽ, đưa nhơn loại vào vòng tranh đấu khốc liệt, đi đến chỗ diệt vong.

C.17-18: Cơ quan Chuyển thế của Ðức Chí Tôn trong lúc nầy gặp rất nhiều nỗi khó khăn. Nhờ ơn huệ của Ðức Chí Tôn mà xoay chuyển được Cơ Ðời, cứu nhơn loại thoát khỏi nạn tiêu diệt.

Câu 19-20:
Thuận nhơn tâm ắt thuận Trời,
Câu kinh Vô tự độ người thiện duyên.

Nhơn tâm: Lòng người.
Thiện duyên: Duyên lành.

Thuận nhơn Tâm ắt thuận Trời, là bởi vì Ý dân là Ý Trời, thuận theo lòng dân thì hạp lòng Trời, cho nên Quyền Vạn Linh mới đối lại được với Quyền của Ðức Chí Tôn.

Câu Kinh Vô tự: Câu Kinh không chữ. Trong trường hợp nầy, chúng ta có thể hiểu Câu Kinh Vô tự như sau:

Muốn cảm hóa người thì chúng ta phải nói Ðạo cho họ nghe mà biết Ðạo, biết lẽ chánh lẽ tà, biết con đường tốt đẹp nên theo. Muốn nói Ðạo cho hiệu quả thì chúng ta phải học thuộc Thánh Ngôn Thánh giáo, Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, nghiên cữu kỹ lưỡng Giáo lý và Triết lý của Ðạo, học cho nhập tâm, rồi mới nói ra bằng lời Thuyết đạo.

Ðức Chí Tôn có nói: "Dầu cho sắt đá cỏ cây mà nghe Thánh ngôn của Thầy nơi con nói ra cũng hoan nghinh, huống lựa là người."

Vậy chúng ta có thể xem Lời Thuyết đạo như là những Câu Kinh Vô tự. Dầu cho người dốt nát, không biết chữ nghe cũng hiểu được.

Xưa kia, Ðức Lục Tổ Huệ Năng của Phật giáo Trung Hoa, là người hoàn toàn không biết chữ, nhưng khi nghe người ta tụng Kinh Kim Cang đến câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ Tâm." thì Ngài liền phát ngộ, rồi lập chí đi tìm Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn mà thọ truyền Tâm pháp.

C. 19-20: Thuận lòng người thì ắt thuận lẽ Trời.

Những lời thuyết đạo có thể làm giác ngộ những người có duyên lành.

Câu 21-22:
Nguyện Ơn Trên cho yên trí não,
Nguyện Phật Tiên dạy bảo chơn linh.

Xin cầu nguyện với Ðức Chí Tôn và các Ðấng Thiêng liêng giúp cho trí não được an ổn. Xin cầu nguyện chư Phật chư Tiên dạy bảo chơn linh của chúng con.

Câu 23-24:
Mang danh Hội Thánh đã đành,
Nâng tay nhục thể xây hình Chí Tôn.

Mang danh: Có được cái danh. Hội Thánh: Một tập thể gồm các Chức sắc vào hàng Thánh đổ lên, tức là từ phẩm Giáo Hữu (đối phẩm Ðịa Thánh) hoặc tương đương đổ lên.

Mang danh Hội Thánh đã đành: Ðã đành mang danh là Chức sắc của Hội Thánh. (Bởi vì phần trên có câu: Các con vốn trong vòng Thánh thể nghĩa là Chúng con vốn là Chức sắc của Hội Thánh). Nhục thể: Thể xác phàm bằng xương thịt.

Hình Chí Tôn: Hình thể của Ðức Chí Tôn tại thế, đó là Hội Thánh Cửu Trùng Đài. (Xem lại C.9 ở trên)
Nâng tay nhục thể xây hình Chí Tôn: Ý nói dùng đôi cánh tay của thể xác phàm để xây dựng Hội Thánh.

C.23-24: Ðã đành mang danh là Chức sắc của Hội Thánh, thì phải dùng đôi tay phàm ra sức xây dựng Hội Thánh.
- Kinh Thế Đạo-Thiên Đạo 1936:
  • Mạng danh.
- Kinh Lễ, Kinh Thế Đạo-Thiên Đạo 1968, 1974, 1975:
  • Mang danh.
Mạng danh: Mệnh danh: gọi tên là, gọi là. Thí dụ: Thầy giáo được mệnh danh là Kỹ sư tâm hồn.
Mạng danh Hội Thánh đã đành: Ðã đành gọi là Hội Thánh.
Cùng đọc một âm đó, nhưng nếu viết là: Mạn danh, thì có nghĩa là: Mượn danh. Mạn là mượn. Mạn phép là mượn phép.
Khảo Dị-

KHẢO DỊ:


Kinh Xuất Hội

Kinh Xuất Hội

KINH XUẤT HỘI

Kinh Đi Ra Đường

Kinh Đi Ra Đường

KINH ĐI RA ĐƯỜNG

Kinh Khi Về

Kinh Khi Về

KINH KHI VỀ

Kinh Khi Đi Ngủ

Kinh Khi Đi Ngủ

KINH KHI ĐI NGỦ

Kinh Khi Thức Dậy

Kinh Khi Thức Dậy

KINH KHI THỨC DẬY

Kinh Vào Học

Kinh Vào Học

KINH VÀO HỌC

Kinh Vào Ăn Cơm

Kinh Vào Ăn Cơm

KINH VÀO ĂN CƠM

Kinh Khi Ăn Cơm Rồi

Kinh Khi Ăn Cơm Rồi

KINH KHI ĂN CƠM RỒI

Kinh Hôn Phối

Kinh Hôn Phối

KINH HÔN PHỐI

Kinh Tụng Khi Vua Thăng Hà

Kinh Tụng Khi Vua Thăng Hà

KINH TỤNG KHI VUA THĂNG HÀ

Kinh Tụng Khi Thầy Qui Vị

Kinh Tụng Khi Thầy Qui Vị

KINH TỤNG KHI THẦY QUY VỊ

Kinh Cầu Tổ Phụ Ðã Qui Liễu

Kinh Cầu Tổ Phụ Ðã Qui Liễu

KINH CẦU TỔ PHỤ ĐÃ QUI LIỄU

Kinh Cầu Bà Con Thân Bằng Cố Hữu Ðã Qui Liễu

Kinh Cầu Bà Con Thân Bằng Cố Hữu Ðã Qui Liễu

KINH CẦU BÀ CON THÂN BẰNG CỐ HỮU ĐÃ QUI LIỄU

Kinh Tụng Huynh Ðệ Mãn Phần

Kinh Tụng Huynh Ðệ Mãn Phần

KINH TỤNG HUYNH ĐỆ MÃN PHẦN

Kinh Tụng Khi Chồng Qui Vị

Kinh Tụng Khi Chồng Qui Vị

KINH TỤNG KHI CHỒNG QUI VỊ

Kinh Tụng Khi Vợ Qui Liễu

Kinh Tụng Khi Vợ Qui Liễu

KINH TỤNG KHI VỢ QUI LIỄU

Kinh Tế Chiến sĩ trận vong

Kinh Tế Chiến sĩ trận vong

KINH TẾ CHIẾN SĨ TRẬN VONG


Đánh giá bài viết

4.98/32 rates

Đăng nhận xét

Cảm ơn Đạo Hữu đã đóng góp. Chúc Đạo Hữu một ngày an lạc! A Di Đà Phật