Sanh Và Tử - Chơn Lý Khất Sĩ

Sanh Và Tử - Chơn Lý Khất Sĩ
A+ A-





SANH VÀ TỬ

CHƠN LÝ KHẤT SĨ
CHƠN LÝ THỨ 7


1. Vấn : Cái gì là chúng sanh?
Đáp : Cái biết là chúng sanh.

2. Vấn : Cái gì sống chết?
Đáp : Cái biết sống chết.

3. Vấn : Cái gì sanh biết?
Đáp : Đất nước lửa gió do nhơn duyên tập mà biết lần, từ chưa biết đến thành hình biết.

4. Vấn : Hình dạng của cái biết mỗi lúc ra sao?
Đáp : Lúc mới tượng là thọ cảm, ví như một làn khói. Khi thành tư tưởng, tức làn khói ấy kết đặc thành hình. Kịp có hành vi thì hình khói ấy lộ ra rõ rệt. Đến thức trí, hình bóng ấy lại lâu tan. Được giác chơn thì thân hình ấy đời đời bất hoại, lại màu sắc vàng ròng, kêu gọi là thân của biết, giác thân hay Phật thân.

5. Vấn : Cái hình thể của biết ấy, ta có thể thấy được chăng?
Đáp : Có thể thấy được, nếu định tâm yên lặng lại, nhìn xem sự sống đang cử động tác dụng của mỗi chúng sanh thì ta sẽ thấy rõ rệt. Cho đến nó cũng có nói chuyện nữa. Trí ta vắng lặng sẽ nghe rõ ràng từ tiếng nói của trùng dế, cỏ cây, Phật, Trời, người, quỉ (ở tận phương xa) cũng nghe thấy.

6. Vấn : Tại sao cái biết đó linh diệu?
Đáp : Cái biết linh diệu là nhờ vắng lặng, khi nó đứng ngừng thì cái điển của nó thâu rút được các pháp khắp nơi. Càng yên lặng một chỗ thì càng vung tỏa ra rộng lớn, cũng như ánh sáng ngọn đèn, như lò máy điện. Cái biết mà được thong thả, khỏe khoắn, thanh nhàn, khoái lạc, yên tịnh thì có được đủ sức mạnh thần thông.

7. Vấn : Tại sao cái biết có nhiều tên gọi như thọ, tưởng, hành, thức, giác?
Đáp : Chính cái giác mới là đúng tên của biết, là sự biết hoàn toàn sáng suốt không mê lầm. Còn thọ, tưởng, hành, thức là cái biết mới tượng sanh, mới tập nảy cũng như cái hột còn lép còn non, mới cứng mới già, cũng tạm kêu là hột vậy.

Cái biết mới kêu là thọ cảm, cũng gọi là tình.
Cái biết khá hơn kêu là tư tưởng, cũng gọi là ý.
Cái biết lớn rộng nữa kêu là hành vi, cũng gọi là thân.
Cái biết cứng chắc hơn kêu là thức trí, cũng gọi là khẩu.
Cái biết già kêu là giác, cũng gọi là tánh, hay tâm chơn.
Tình thọ và ý tưởng, cũng gọi là tâm vọng.

Thân hành và khẩu thức cũng gọi là trí phàm. Tâm vọng nói đây là cái tim sống hay là ngòi sống phát sanh từ nơi tứ đại, trước nhứt là cỏ, cây, thú. Tâm vọng sanh trí phàm là sự khổ sở điên đảo, do đó mới có pháp thánh chơn, để nuôi tánh giác là Phật.

8. Vấn : Cái biết ấy có sống chết chăng?
Đáp : Nếu nuôi mãi thì nó sống hoài, còn giết hại thì nó phải chết mất theo
hồi giết hại.

9. Vấn : Cái gì nuôi nó sống? Cái gì giết nó chết?
Đáp : Thiện vui là nuôi nó, ác khổ là hại nó.

10. Vấn : Cái sống của biết là sao? Cái chết của biết là sao?
Đáp : Cái biết sống là tỉnh táo, định yên, cứng chắc, mạnh mẽ, trong sạch, vui mừng, tìm xét sáng suốt, không loạn vọng, không xao động. Cái biết chết là điên cuồng, rối trí, tán loạn, mê sảng, đến mất cái biết, tiêu tan cái biết không còn biết gì nữa. Vả chăng, cái biết là sự kết hợp tập lần của các pháp, mà nơi đây sự điên đảo, tán loạn, mê sa làm cho hư rã tan hoại.

11. Vấn : Trong sắc thân này, cái biết ở tại chỗ nào?
Đáp : Chỗ nào nó cũng ở cả, nhưng chẳng bao giờ ở đứng hoài một chỗ; hễ chỗ nào bị xao động kích thích, hoặc gặp phải sự thái quá bất cập, thì nó mới đến ngay chỗ đó, biết ở đó. Cái biết chỉ có một, khi đang ở chỗ này thì không có ở những chỗ kia.

12. Vấn : Khi ngủ, cái biết ở tại chỗ nào?
Đáp : Đã là cái biết ngủ nghỉ thì nó ở tại cái mê say, chớ không ở chỗ nào hết. Cũng như kẻ say rượu, như người hửi thuốc mê thì nó là say mê, chớ không phải ở đâu cả. Ví như người kia ở trong nhà đóng kín các cửa thì không ai có thể nói nó ở tại chỗ nào; bao giờ có một cửa mở hay là xao động tại đâu là nó ở tại chỗ đó. Trước khi ngủ mê say, người ta yếu xuội, xuôi đờ ra và hơi thở nghe êm nhẹ điều hòa, rồi thiếp hẳn tại chỗ hơi thở và yếu xuội đó. Cho nên, lắm kẻ nói rằng: khi ngủ cái biết ở tại hơi thở, vì còn sống là còn hơi thở. (Nếu như nói vậy thì trái tim cũng vẫn đang đập, máu cũng vẫn đang chạy nữa kia? Còn nhiều kẻ ngủ mê, lại đi đứng ngồi hay cử động; như vậy là đâu phải ở riêng nơi hơi thở). Xác thân như chiếc xe hơi, máy vẫn chạy đằm làm sự sống, còn cái biết như người chủ, là khác hẳn với chiếc xe.

Trước kia là cái sống sanh lần cái biết, khi có biết rồi thì biết và sống là hai, chớ không phải một. Cũng như cây và hột, trước là cây sau là hột. Cây hột khác nhau, khi cây chết là còn hột. Cho nên thân người có chết thì cái biết của thân ấy vẫn còn. Cái biết là con, hay là tinh ba của sự sống nơi thân thể vậy.

13. Vấn : Tại sao có chiêm bao?
Đáp : Chiêm bao có nhiều cách. Khi thức cũng chiêm bao thay, lựa là nói lúc ngủ! Cái gì lại không phải là chiêm bao? Khi thức đây mà lúc thì ta nhớ thấy chuyện đã qua, xét thấy việc sẽ đến, nhận thấy sự hiện tại, nhận thấy cảnh ngộ nhơn duyên, nhận thấy tư tưởng mình, nhận thấy sự thái quá, nhận thấy sự bất cập, nhận thấy bởi thất tình lục dục, nhận thấy bởi kẻ khác đến, đồ vật ai đem cho v.v… Tóm lại, cái thấy nào cũng là mộng ảo, huyễn cảnh cả. Ta đang ở trên mặt đất của quả địa cầu này, mà đó là chỗ nào của võ trụ và chúng sanh vạn vật, với các pháp vốn không thường, khi ẩn khi hiện, khi có khi không, khi còn khi mất, khi đến khi đi, khi sống khi chết, nào ta có thấy chắc thiệt cái gì đâu? Trong giấc ngủ mơ cũng thế, khi cái biết đã thức mà xác thân còn mê mệt, thì cái biết hành động tự ý nó, nó thấy ra tất cả như khi thức chớ sao? Cũng có đôi khi ta thấy thần quỉ Phật Trời thiệt, nhưng lại là rất ít, vì ta với họ khác nhau về cảnh giới, nào có liên quan gì nhau.

Phần nhiều chiêm bao là bởi sự kích thích, trước khi ngủ hay đang ngủ, bị nóng lạnh, nhức mỏi giựt mình, lo sợ, vọng tưởng… bởi pháp tương đối, hoặc lúc thức, cái biết đang bị nhốt trong cảnh trí nào đó, vì vậy mà có lắm sự chiêm bao như lúc thức. Vả lại, các sự chiêm bao không ích lợi bằng thiện lành. Kẻ mà biết ngăn ác là đáng tin cậy hơn vậy.

14. Vấn : Sau khi chết rồi, cái biết sẽ đi đâu?
Đáp : Nó đi theo cái nghiệp của nó, cũng như kẻ sống đây có khác gì? Cờ bạc đến chỗ cờ bạc, uống rượu đến chỗ uống rượu, ác đến chỗ ác, thiện đến chỗ thiện, đạo đức đến chỗ đạo đức… mà kết quả của nó là sự yên vui hay rối khổ, định hay là loạn vậy.

15. Vấn : Lúc xác thân chết, cái hình dạng của biết xuất ra bằng cách nào?
Đáp : Lúc chết thiếp đi như say rượu, như say thuốc, như ngủ quên, như hít phải thuốc mê nào có biết gì; cũng như người lái xe nằm ngủ quên trong xe, khi giựt mình thức giấc mới biết là xe đã chết máy lạnh hư, sét cứng rồi. Người chết hoặc mê sảng, hoặc ngủ quên, khi tỉnh dậy thì máu đã trắng, xương thịt đã cứng, lạnh hết hơi, thì mới biết mình đã chết thân, hư nhà, thôi thì muốn đi đâu là đi theo ý trí tình vọng. Với kẻ ác, kẻ khổ sở nặng nề thì mê muội lâu hơn là người thiện thanh vui nhẹ, tùy theo hột giống gieo tạo của mỗi người trong lúc sanh tiền.

16. Vấn : Cái biết bao lớn và ra sao?
Đáp : Khi ta ngước lên không thì cái biết của ta là bao la vô cực. Lúc ta lựa từ hột cát thì cái biết của ta là hột cát. Khi ta xỏ chỉ vào lỗ kim thì cái biết của ta bằng lỗ kim. Lúc ta thấy con gà, con vịt, cọng cỏ, cái cây thì cái biết của ta là gà vịt, cỏ cây. Tai nghe tiếng, biết là tiếng. Mũi hửi mùi, biết là mùi. Lưỡi nếm vị, biết là vị. Thân đụng vật mềm, biết là mềm. Ý nhớ người ta, biết là người ta. Trí phân biệt thiện ác, biết là thiện ác. Gặp màu xanh đỏ trắng vàng… biết là xanh đỏ trắng vàng… Thấy món vật tròn hay dài là biết tròn hay dài. Chú ý nơi xa, biết ở xa; tưởng tượng gần, biết là gần. Thoạt xứ này, thoạt cõi khác, hoặc ở trong, hoặc ở ngoài v.v… Cái biết là bao gồm vạn pháp, mà lúc nào nó cũng chỉ có một thôi. Hễ biết cái này thì không biết cái kia. Biết nhiều khổ nhiều, biết ít khổ ít, không biết là không khổ; hay là muốn dứt khổ thì cái biết phải cho định, hoặc phải cho đầy đủ toàn giác. Biết loạn là ma, biết định là Phật. Cái biết hằng định trong mỗi lúc, hoặc biết đầy đủ rồi là định. Có Định mới yên vui, gọi là cái biết đứng vững, sống đời, thiệt thọ, kêu là giác.

17. Vấn : Cái gì là ta và có bao nhiêu cái ta?
Đáp : Tiếng ta là tư kỷ bổn ngã. Do sở chấp mê muội, ai cũng tự ái, tự đắc, tự tôn, tự thị, tự kiêu mà cho rằng ta là vầy đúng, ta là vầy phải… Cái ta ấy là biết, cái biết của mỗi trình độ nhơn duyên bao giờ cũng khác nhau, chớ không giống một. Các cái biết ấy đều phải cho họ cả, không có ai trật sái hết; nhưng nếu có một người nào toàn giác biết đầy đủ cả, thì không bao giờ tranh cãi, người cũng không nhận cái ta ở một chỗ nào, tùy theo duyên, cái ta biến hiện trong mỗi lúc, chớ không phải là sở trụ mà cố chấp được, nên gọi là cái ta vô thường, hay các pháp không ta. Nếu tất cả đều được toàn giác như thế, thì cả thảy đều có một cái ta như nhau, không khổ não; khác hơn là muôn vạn cái ta của chúng sanh không định, biết đâu mà lường, khi nói vầy, khi tính khác, chấp kia chấp nọ mãi, mà định mạng của cái ta chẳng biết tại chỗ nào. Bởi càng quấy tung, tâm trí càng nát nhừ bấn loạn; cho nên gọi chúng sanh chưa có ta, chư Phật mới có ta, cái ta toàn thể như một.

18. Vấn : Cái hình bóng của biết nhập thai bằng cách nào?
Đáp : Đã là hình bóng như làn khói, là một điện lực mạnh mẽ, thì ra vào trong thân thể người lúc nào lại không được. Thân thể ta vốn trống thông các lỗ hơi, gió trong ngoài thường ra vào, thì sự nhập thai đâu phải lạ. Có điều là ta nên hiểu rằng: Nếu bọc thai trống không, không có tinh huyết, thì không lấy gì mà tượng hình được, dầu cái hình bóng của biết, có vào ở trong ấy bao lâu cũng không sanh sản được. Cho nên cần phải đợi cho có sự giao hiệp, tinh huyết đầy đủ mới nên sắc thân đặng. Tinh huyết ấy có đủ bốn chất tứ đại là đất nước lửa gió, cho nên gọi tứ đại là thân, hay là thân tứ đại.

19. Vấn : Người ta nói cái thần hồn là gì? Phách là gì?
Đáp : CÂY có phách là tình thọ, hay thọ cảm, cũng như đứa trẻ ba tuổi.

THÚ có hồn là ý tưởng, hay tư tưởng, cũng như đứa trẻ được sáu tuổi.

NGƯỜI có hành vi, gồm cả hồn phách thọ tưởng, cũng như trẻ nhỏ tuổi mười hai.

TRỜI gồm cả thọ tưởng hành, mà sanh thức trí, kêu là thần thức, cũng như người lớn ba mươi tuổi.

PHẬT là giác chơn hay tánh, gồm cả thọ tưởng hành thức, cũng như ông già trên bốn mươi tám tuổi.
Ấy vậy, hồn phách hay thần thức là người ta chỉ về cái hình bóng của biết, hay thân hình của biết. Tuy nói khác tên chớ hiểu ra thì có một. Còn về pháp thì không nói thân hình bóng của biết ấy, mà chỉ rõ ra danh từ của mỗi trình độ của biết, là thọ, tưởng, hành, thức, giác vậy thôi. Đó là lý và sự. Hiểu nơi lý thì rộng đường cho trí, chấp theo sự là nói hẹp cho kẻ tối tăm dễ hiểu, nên gọi là linh hồn cũng đủ.

20. Vấn : Sự sanh thân có mấy cách?
Đáp : Sanh thân nơi người có bốn cách:

a. CÓ LINH HỒN NHẬP THAI TRƯỚC là cây và thú, vì khổ sở lâu ngày nên sau khi chết nhập thai người liền, để tấn hóa và yên vui hơn. Với lại những người ác như thú, trơ độn như cây, sau khi thác vì sợ tội lỗi, vì sợ khổ sầu, vì quả báo oán thù oan trái, vì luyến ái mê nghiệp đắm trần mà nhập thai trước trong bụng người, như giành chỗ, như choán phần, như trốn tránh, như bị kẻ khác kéo lôi. Hoặc tự mình nhập thai, hoặc bị người bắt buộc phải nhập thai trước để sanh ra đặng đền ơn hay trả oán.

b. THAI TƯỢNG KHÔNG CÓ LINH HỒN là do chất tinh của cha, huyết của mẹ, đầy đủ thể chất là thành hình, cũng như hột giống cây sanh cây, hột giống cỏ sanh cỏ, hột giống thú sanh thú, hột giống người sanh người, tinh ba của cha là giống hột, huyết kinh của mẹ là đất nước sanh ra đứa con, cũng như cỏ mới mọc vượt lên. Chất tinh ba năng sanh xương gân, chất huyết kinh năng làm máu thịt, do đó tượng thân người. Cũng có những thai người do tư tưởng mong muốn có con của người cha hay mẹ, mà sanh đứa con và sẽ giống cha hay giống mẹ, tức là thai bào tư tưởng do cha mẹ chiết để tư tưởng mình vào đó mà thành hình, dầu tinh huyết có kém, chớ tư tưởng vẫn mạnh hơn nên tượng sanh được. Đoạn này ta thấy sự chiết tư tưởng là một sức mạnh linh thiêng, mà cục đá, khúc cây, hình cốt, nơi chỗ thờ phượng, có nhiều người khấn nguyện, tưởng tượng, để ý mình chăm chú vào đó, lâu ngày sẽ linh ứng có hồn. Đây tức là hồn nhân tạo, cha mẹ sanh con, sanh cả thân và tâm. Thuyết cha mẹ sanh con này cũng giống như tứ đại đất nước lửa gió sanh cỏ cây thú người Trời Phật, vì xác thân của người ta cũng là tứ đại đất nước lửa gió vậy.

c. NHỮNG THAI KHÔNG CÓ GIAO DÂM: Có những thai thần thông, do các bậc tiên thánh quỉ thần dùng tư tưởng riêng của mình mà cho đi nhập thai, tượng hình trước, để khi sanh ra rồi các vị ấy mới đến nhập vào. Những thai này cũng không cần chất tinh ba của cha, mà vẫn phải có bằng phép linh diệu kỳ thuật.

d. LINH HỒN SANH KHÔNG NHẬP THAI: Bậc trong sạch trọn lành, không hạp nơi nhơ uế, sự giáng sanh là để cứu thế độ đời, tự lòng từ bi chớ không phải sự ép buộc, hoặc mê trần, nên không hay nhập thai trước, khiến nên chúng ta hằng thấy nhiều người lúc lâm bồn khai hoa có nhiều điều quí lạ, hoặc đứa trẻ sanh ra mà còn chờ chủ, đến năm bảy năm vẫn trơ trơ, rồi thình lình trở nên sáng suốt hay diệu lạ kỳ.

Đó là bốn cách sanh thân vậy.

21. Vấn : Bốn cách sanh ấy, đứa trẻ có khác nhau chăng?
Đáp : Sắc thân thì không mấy khác, vì là cũng đều ở trong miếng đất của người mà ra, song cái biết thì khác nhau nhiều và bẩm tánh không đồng:

Đứa trẻ cây sanh thì đần độn.
Đứa trẻ thú sanh thì ngu muội và hung ác.
Đứa trẻ người ác sanh thì xảo trá, ngang tàn, xấu xa.
Đứa trẻ người thiện sanh thì hiền lương, dễ dạy, tốt đẹp.
Đứa trẻ quỉ thần sanh thì lanh lợi, quỉ quyệt, khác thường.
Đứa trẻ tiên thánh sanh thì có đủ đức tánh quí lạ.

Đứa trẻ cha mẹ sanh, không hồn trước, thì dạy đâu biết đó, chậm tấn hóa hơn là kẻ đã có hồn sẵn. Những đứa trẻ này mới sanh mà bỏ chỗ vắng cho chết luôn thì cái biết lại chết luôn, hoặc nó có chất sống mà không ai dạy, không gặp chi cả thì không biết gì hết, chỉ như cọng cỏ khúc cây thôi.

22. Vấn : Có phải khoa học nói không hồn là đúng chăng?
Đáp : Khoa học là các môn học, tức là sự học chung về sự vật. Môn siêu hình học thì ít người chăm chú, vì mảng lo đeo đuổi theo vật chất hữu hình. Chớ chơn lý hay Phật pháp đâu phải khác. Chính khoa học là ở trong thế giới, mà Phật học là bao gồm võ trụ rộng hơn. Thế nên, khoa học là còn đang học thì bao giờ cũng còn đi sau và ở trong giáo pháp của chư Phật.

Môn siêu hình học biết có Phật, Thánh, Tiên, Thần, ma, quỷ thì đó là hồn của thân xác vậy. Luận về cái sống của các bộ thần kinh trong thân thì như bộ máy xe hơi, mà hễ có xe thì sẽ có sự điều khiển là cái biết ,biết lần cho đến nên hình là người chủ xe, cỡi lại xe. Thân tứ đại của người không phải như sắt thép, lẽ nào lại chẳng tượng sanh cái biết và có hình? Cỏ cây kia ta còn thấy nó có cái biết lần thay! Ấy bởi chấp thân mà không thấy cái kết quả của thân, như nhìn cây mà không thấy hột của cây. Cây chết hột còn, thân mất cái biết còn. Chính cây sanh hột, chính thân sanh tâm vậy.

Vả lại, sự sanh có bốn cách. Nếu nói chỉ có tứ đại đất nước lửa gió là sự sống chớ không có cái biết sao? Vậy còn ai biết cái gì gì đang hiểu đây, đang nói đó? Biết là cái tập của tứ đại, nếu nói tứ đại mà biết thì đất đá kia bảo nói chuyện xem có được chăng? Còn nói chết rồi hết biết thì hỏi cái biết ấy đi đâu? Lại nếu nói cái biết mới càng sanh thì cái biết cũ trốn đàng nào?

Đời nay có Thánh linh giáo, Thần linh học, sao lại còn nói là không có hồn linh? Chỉ có kẻ thật chuyên môn siêu hình học luận mới nhận rõ ràng được sự sống chết của cái biết linh hồn. Vậy nên câu nói ấy chỉ trúng có một khoảng đầu và trúng có một cách trong bốn cách sanh thân kia vậy.

23. Vấn : Xin nói cho rõ, thân sanh tâm hay tâm sanh thân?
Đáp : Trước là thân sanh tâm, khi có tâm rồi, nếu luân hồi, thì tâm sanh
thân là lẽ sau.

24. Vấn : Có phải mỗi linh hồn đều sống mãi và tấn hóa đến thành Phật
hết chăng?

Đáp : Có sống có chết, sống thì ít, mà chết thì nhiều, nhưng lớp khác vẫn tấn lên mãi. Cũng như học trò đi thi, trong số mười chỉ đậu có một hai, kẻ đậu thì đi tới, kẻ rớt ở lại, hoặc đi ra, và còn kẻ khác mới bước lên nữa.

Mười cọng cỏ có được một cây.

Mười cái cây có được một con thú nhỏ. Mười con thú nhỏ có được một con thú lớn. Mười con thú lớn có được một người. Mười người có một người thành Trời. Mười vị Trời có một vị đắc quả Phật.
Cũng như một cái cây có lá một muôn, bông một ngàn, trái một trăm, đến thành hột chỉ có mười và hột tốt lớn thì chỉ có một. Mà qua lớp này thì có lớp khác tiến ra nữa.

25. Vấn : Cõi siêu hình Trời Phật ở tại đâu?
Đáp : Không gian võ trụ bao la, vô số địa cầu thảy là tứ đại, thì thảy in như nhau không khác, nào đợi phải đi đâu! Có thế giới đang có Phật nhiều, có thế giới đang có Trời nhiều, có thế giới đang có người nhiều, có thế giới đang có thú nhiều, có thế giới đang có cây nhiều, có thế giới đang có cỏ nhiều, có thế giới đang có đất nước lửa gió mới tượng. Cũng như nơi loài người có xứ đang có ông già nhiều, có xứ đang có người lớn nhiều, có xứ đang có trẻ em nhiều, có xứ đang có phụ nữ nhiều, có xứ đang có nam nhân nhiều, có xứ người tu đang có nhiều, có xứ kẻ thiện đang có nhiều, có xứ kẻ ác đang có nhiều, có xứ đang vui cười, có xứ đang khóc lóc v.v… nói chẳng hay cùng. Nhưng bởi địa cầu thế giới là do tứ đại mãi lăn xoay, cho nên chốn nào cũng dời đổi không thường, hoặc lâu hoặc mau. Vậy thì, tâm Trời Phật ở chỗ Trời Phật, tâm người thú đến ở chỗ người thú, tâm quỉ ma thì đi lại chỗ quỉ ma. Cũng có kẻ lựa chọn chỗ tốt xấu, hoặc đi qua thế giới khác, hoặc đi xứ khác, nhưng dầu ở đâu đi nữa thì cũng không bền lâu. Tốt hơn là ở chỗ tâm mình, tâm mình tạo quyến thuộc cảnh ngoài, ai ai sự chi dời đổi, mà tâm mình thì phải cho nhứt định mới có yên vui được.

Vậy nên phải lựa chọn cái tâm, bằng được tâm thiện, tâm huệ, tâm chơn thì dầu cảnh nào đi nữa, nó cũng vẫn tìm chỗ thiện huệ chơn của nó, và sẽ luôn luôn chung cùng với quyến thuộc thiện huệ chơn, để hưởng sự yên vui mà thôi.

Trái lại, ác mê vọng thì phải rối khổ chết tiêu và ở đâu đi đâu cũng không được, lại chẳng bao giờ có quyến thuộc thân cận. Đời nó bao giờ cũng lẻ loi, lạnh lùng trong bóng tối, thúi dơ, nặng nề, khổ sở. Sống cũng vậy, mà chết mất thân rồi thì tâm hồn nó cũng vậy, nó ở theo cái tâm của nó.

26. Vấn : Người ta nói địa ngục dưới đất phải chăng?
Đáp : Đức Phật nói rằng giữa ruột trái đất là bộng trống tối đen, lửa cháy, vách sắt, dưới sâu dơ dáy… là quyền giáo ví dụ. Chớ thật ra, thiên đường là thiện đạo, địa ngục là ác đạo, thiện là trên, ác là dưới. Kẻ ác trược là dơ dáy, thấp thỏi, sâu độc. Tham lam là vách sắt, sân dục là lửa cháy, si mê là tối đen, vật chất là đất bao bọc nấm mồ. Muốn dễ hiểu, ta hãy nhìn xem giữa buổi chợ đông thì thấy rõ. Cảnh do tâm, tâm nào thì hạp cảnh nấy, đợi gì sống chết và ở đâu đâu.

27. Vấn : Do đâu mà kẻ nói chết còn, người nói chết mất?
Đáp : Bởi kẻ ác nói liều, kiếp này làm ác vui chơi cho thỏa thích, đời sau sẽ tu cũng không muộn, nên bậc Hiền Thánh dạy rằng: Công lý tương đối của võ trụ vốn công bằng, được bây giờ thì mất về sau, được thân thì mất tâm, được ngoài thì mất trong, thái quá thì bất cập, sanh thì tử. Nếu như đời trước không tu tập phước đức, mà đời nay lại làm tội quá ác thì e sau khi chết, linh hồn cái biết bị quả báo điên khổ mà tiêu tan, thì còn có đâu đời sau nữa mà hòng tu?

Còn như kẻ ác nói ngang: chết là mất, nếu không làm ác vui chơi bời là khờ dại. Bằng như đời trước không làm tội gây nghiệp, kiếp này phước dồn đang hưởng, mà lại quá ác xài nhiều, có ra không vô, thì sau khi chết đi, linh hồn cái biết chưa bị khổ, chưa bị khổ điên chết mất, đến lúc sanh ra đời sau, hết phước mà lại chịu quả báo tội nghiệp thì khổ lắm, chịu sao cho nổi?

Thế nên, kẻ ác nói đoạn thì Phật Thánh chỉ chỗ thường, cho nó biết tu mà nhớ lấy. Còn kẻ ác nói thường thì Phật Thánh chỉ chỗ đoạn, để giác ngộ cảnh tỉnh mà cứu nó về sau. Đời sau kẻ chẳng rõ lẽ ấy, nên mới có câu: “Chết còn, chết mất”, chớ còn mất là tại nơi thiện hay ác của mỗi người gây tạo.

28. Vấn : Tiêu diệt cả thân tâm bằng cách nào?
Đáp : Kẻ ác, trẻ con rủ nhau làm thiện là ít ai hưởng ứng. Bằng hô lên làm ác, giết trâu bò thì lại rất đông nhiều, không kêu cũng tới, không mời cũng bu, một dao thêm một dao, một mạng thêm một mạng; lại còn khen hay khoe giỏi, vi cánh càng to, thiếu chi người xu bợ. Cũng như kẻ lượm đất liệng lên không, có trớn rất mạnh, rất cao, hết trớn thì đứng lại và rồi rớt xuống, càng to lớn nặng nề, càng sa nhào mau lẹ, đã lún sâu mà còn tan rã mất hình hài. Kẻ ác cũng thế, lúc đầu thì bạo phát và sẽ bạo tàn kế đó. Trước tập ác với thú, ác lần tới người, ác với kẻ xa, rồi lại ác với người gần, là đồng bọn nó. Nó bị phản bội, thế lực tan rã, nó bị thương, bơ vơ, đói khát, tàn tật… mà bởi tánh ác đã quen cao, không hạ thấp xuống được, mới sanh tức khí, bất mãn, khổ giận, lại bị trả thù, ai ai đều ghét. Cái khổ làm cho nó ngây khùng mất trí, khổ quá bủn rủn mất cả hành vi cử động, gần như thú, chơi với thú, ghét loài người. Khổ nữa và thêm sự hành phạt cuồng điên, mất cả tư tưởng, ghét thú, mến cỏ cây, ở nơi lùm bụi; và rốt cuộc sự điên khổ, đói bịnh hành phạt, làm cho đứt luôn thọ cảm, hết biết, mất biết, không còn biết; cái biết kết tập lâu ngày tan mất! Kẻ ấy quá khùng điên không giảm, làm mất thọ cảm, không còn biết cỏ cây thú người và sự nhập thai, ăn uống chi cả, thì thân tâm tiêu diệt, tiêu cả bóng hình. Cảnh khổ ấy gọi là địa ngục vô gián a-tỳ. Kẻ ác vương mang thì không còn phương nào ai cứu chữa, và cũng khó lại gần nó, mà nào có ai thương tiếc gì nó đâu?

KHỔ ĐIÊN CÓ HAI CÁCH
Kẻ ác điên khổ thì tiêu diệt. Còn người thiện vì lo, vì quá học mà điên, thì như đi nhảy cấp sụt thang, điên sảng chỉ một thời gian thôi. Bởi nhờ hiền lương, có kẻ thương yêu săn sóc, chăm nom chiều chuộng ở gần, nên chẳng bao lâu được tỉnh lại lần, như đứa trẻ tập biết lần lần khi mới lớn.

Nhiều bịnh điên, nhứt là khổ vì tình dục, chính khổ ái ân là lưỡi kiếm giết tâm hồn, diệt tiêu cái biết, đau đớn vô ngần. Kẻ khổ điên vì tình mà làm ác thì mau chết lắm, nhưng nếu thiện lành là còn cứu chữa được. Thế nên Phật dạy: Tình dục là cửa địa ngục a-tỳ!

29. Vấn : Nếu vậy ai cũng có thể tiêu diệt hết sao?
Đáp : Đừng giựt mình, hãy làm thiện là tấn hóa và nuôi sống mãi vậy. Lẽ sanh diệt tạo hóa có chi lạ, thân cũng vậy mà tâm cũng vậy. Chớ nếu càng sanh mà không diệt thì xưa nay đất đâu mà chứa hết chúng sanh? Nào riêng loài người; loài thú, cây cỏ kia, sao không ai nghĩ đến mà thương xót cho nó. Làm ác giết người, người chết thân mà còn tâm, trái lại mình cái tâm đã chết, hột giống tâm đã đứt, còn thân thì sau sự vay phải trả, phải đền bù bằng cái chết. Thế rõ ràng là mình tự giết thân tâm mình đó! Sự thật, xưa nay nào ai dám nghĩ đến, hoặc nhắc cho lẽ ấy, nhưng sao ta làm ác lại lo hoài và nhớ mãi, chỉ ngó tới mà chẳng tin rằng là có sự lui. Trong đời đâu có lẽ tốt hảo tuyệt đối cho riêng ta vậy.

30. Vấn : Làm thế nào mới thành Phật và sống đời đời?
Đáp : Không khó! Một con thú mới tái sanh ra làm người, chỉ biết ăn, kiếm ăn để sống và rồi chờ chết; nhưng lâu ngày nhàm chán mệt mỏi. Một hôm đi ra đường gặp kẻ đói khó hơn nó, nó liền bố thí cái dư của nó giúp người. Nó được lời cảm ơn và khuyến khích, nó vui mừng sung sướng, nó no mát nhẹ nhàng, nó thấy hay hay mới lạ, và từ đó nó ham bố thí, quên mình mà nghĩ đến người. Mặc cho kẻ khác chê cười ngu dại, nó siêng làm việc cho kẻ chung quanh, để được vui trong tâm và làm gương trong cõi đời về sau cho trẻ nhỏ. Nhờ vậy mà thân tâm nó càng được trong sạch, yên lặng và sáng suốt lần lần. Nó gặp được sự ích lợi thanh cao, chơn thật, nó hiểu được con đường sống có ý nghĩa. Nó làm phải cho một gia đình, người ta coi nó như cha. Nó giúp cho cả làng tỉnh, người ta kỉnh nó như quan. Nó thương yêu cả xứ, người ta mến nó như vua. Ai cũng muốn gần nó, nương dựa dưới sự mát mẻ, êm ái của nó. Khi trọn phận sự của kiếp người, bằng xác thân vật chất thì nó chết, nó đi nghỉ mệt ở núi non mà ôn nhớ lại những sự lành, để cho tâm hưởng ăn no đầy khoái lạc.

Trước khi nó chết, sau khi nó chết, đang khi nó chết, cũng có nhiều kẻ chết. Họ chết sau sự khổ nạn, họ tìm nó và đến ở chung với nó, để nhờ nó an ủi dạy dỗ tâm hồn. Lần lần xã hội siêu hình của nó càng đông, nơi đây nó làm vị vua Trời bởi người ta tôn, cũng như ông thầy giáo bước lần lên Đốc học.

Kẻ thiện lành dầu câm cũng biết nói, nói lời lành ai cũng mến. Kẻ ác dầu học giỏi cũng như câm, vì nói chẳng ai nghe. Nơi đây nó tập nói, lần lần sáng trí hoàn toàn giác ngộ, thấu chơn lý và đắc đạo. Nó bước đi thêm một bước, để dạy đạo giải thoát Niết-bàn, và đi giáo hóa khắp nơi cùng xứ. Cho đến khi thành đạo to lớn, có người thay thế, nó bèn nhập định hưu trí nghỉ ngơi (Niết-bàn Như Lai). Đến đây, cái biết cứng đầy, no vui sống mãi, nghỉ dưỡng đời đời, trường sanh bất diệt. Hình bóng của biết đã trở nên một sức mạnh không tan, sắc vàng chói rực, muôn loại kỉnh thờ, gương lành giáo lý phóng khắp cùng nơi, đời đời sống mãi, quét sạch bụi hồng.

Đó là từ thú đến người, đến Trời, đến Phật, mỗi bước đi lên, không tự cao
chấp lầm đứng nghỉ, ấy cũng chỉ từ nơi cái thiện mà nên được.

Vậy chúng ta hãy ráng noi theo gương lành này đặng diệt trừ hết ác, làm tất trọn lành, thương dạy cả chúng sanh chung, bình đẳng bác ái, không lựa nhỏ lớn sang hèn, thì mới chắc mong thành Phật sống đời, yên vui không còn rối khổ.
Vậy thì ai ai cũng nên là Phật hết.

1. Vấn : Cái gì gọi là chúng sanh?
Đáp : Cái thức, cái biết chúng sanh tên dùng.

2. Vấn : Cái gì sống chết hình thành?
Đáp : Cái biết, sống, chết hiểu rành an vui.

3. Vấn : Cái gì sanh biết trong đời?
Đáp : Đất nước lửa gió không rời biết sanh.
Từ chưa biết, đến biết rành,
Do nhơn duyên tập trưởng thành khéo sao.

4. Vấn : Hình dạng của biết thế nào?
Đáp : Thọ cảm mới tượng, khác nào khói sương.
Kịp khi tư tưởng có sanh
Như làn khói đặc hình thành rõ hơn.
Hành vi do biết làm nền,
Giai đoạn thức trí, biết bền lâu tan,
Giác chơn biết thật vững vàng,
Đời đời bất hoại sắc vàng Phật thân.

5. Vấn : Hình thể biết thấy được chăng?
Đáp : Có thể thấy được công năng việc làm.
Là khi tâm định yên an,
Nhìn cách sống, biết rõ ràng thấy nghe.
Trí ta vắng lặng không dè,
Tiếng nói muôn loại tâm nghe rõ ràng

6. Vấn : Tại sao biết linh diệu năng?
Đáp : Khi biết vắng lặng thường hằng thảnh thơi.
Điển thu hút pháp khắp nơi,
Để rồi hiển lộ ra nơi việc làm.
Biết yên định có thần thông,
Như đèn mà sáng, nhờ không gió lùa.

7. Vấn : Sao biết có nhiều tên như,
Thọ, hành, thức, giác từ nào đúng danh?
Đáp : Chính cái giác tên đành rành,
Biết là sáng suốt, thiện thanh không lầm.
Thọ, tưởng, hành ... biết mới sanh,
Cũng như cái hột còn xanh chưa già.
Hột non, lép cũng hột mà,
Liệt kê từng đoạn, biết ta trưởng thành.
Cái biết mới kêu là thọ cảm, cũng gọi là tình.
Cái biết khá hơn kêu là tư tưởng, cũng gọi là ý.
Cái biết lớn rộng nữa kêu là hành vi, cũng gọi là thân.
Cái biết cứng chắc hơn kêu là thức trí, cũng gọi là khẩu.
Cái biết già kêu là giác, cũng gọi là tánh, hay tâm chơn.
Tình thọ và ý tưởng, cũng gọi là tâm vọng.
Thân phàm, khẩu thức, trí phàm,
Tâm vọng điên đảo, khổ nàn nhân sanh,
Do đó mới có pháp hành,
Để nuôi tánh giác viên thành Phật thân.

8. Vấn : Cái biết có sống chết chăng?
Đáp : Nuôi thì nó sống, làm xằng diệt tiêu.

9. Vấn : Cái gì nuôi sống biết điều,
Cái gì giết nó, xin nêu rõ ràng?
Đáp : Thiện vui nuôi biết lớn, an,
Ác khổ đưa biết vào đàng tử sanh.

10. Vấn : Cái biết sống là thế nào?
Cái chết của biết ra sao sự tình?
Đáp : Cái biết không thấy bóng hình,
Nhưng khi biết sống thì mình vui an.
Tỉnh táo, mạnh mẽ, thanh nhàn,
Tìm xét sáng suốt, biết đang về nguồn.
Cái biết chết là điên cuồng,
Tâm mê tán loạn, mất luôn biết rồi.
Biết có các pháp trong đời,
Biết chết điên đảo, rã rời hoại tan.

11. Vấn : Trong thân biết ở chỗ nào?
Đáp : Chỗ nào cũng có, nhưng không rõ ràng.
Chỗ xao động biết hiện thân,
Ở ngay chỗ động, khi cần có ngay.

12. Vấn : Khi ngủ biết ở chỗ nào ?
Đáp : Đã là ngủ nghĩ thì nào biết chi,
Khi say, khi ngủ biết gì,
Như người hửi thuốc, biết thì mê say.
Nhà đóng cửa thì không ai,
Biết được người chủ ở ngay chỗ nào,
Bao giờ của mở lao xao,
Thì sẽ biết được chỗ nào tại đâu.
Trước khi thân ngủ lúc đầu
Thân yếu xuội, hơi thở sâu điều hòa,
Thiếp theo hơi thở vào ra,
Nên có kẻ nói ngủ là biết đang,
Ở chỗ hơi thở nhịp nhàng,
Nhưng nghĩ kỹ, tim vẫn đang đập mà,
Máu vẫn chạy, ngủ mớ la,
Như vậy biết đâu phải là chỗ hơi (thở).
Xác thân như chiếc xe hơi,
Máy là sự sống, biết thời chủ nhân.
Trước kia sống sanh biết lần,
Khi đã có biết chia phần làm hai
Cũng như cây và hột này,
Trước có cây, sau hột rày tượng sanh,
Trước cây sau hột đành rành,
Cây chết còn hột việc thành xưa nay.
Cho nên biết, thân là hai,
Thân chết cái biết nối dài thân sau.
Biết là sự sống nhiệm mầu,
Tinh ba, chủng tử nhịp cầu tái sanh.


13. Vấn : Tại sao lại có chiêm bao?
Đáp : Chiêm bao nhiều cách khác nhau,
Khi thức, khi ngủ, lúc nào cũng mơ,
Nhớ chuyện quá khứ vẫn vơ,
Tương lai chưa đến cũng tơ tưởng hoài.
Hiện tại cảnh ngộ lá lay,
Hơn thua, còn mất, việc ngoài, việc trong.
Cái thấy nào cũng là không,
Là mộng ảo, huyển cảnh trong kiếp người.
Vô thường ẩn hiện trong đời,
Vạn vật các pháp vốn thời đổi thay.
Đến đi, còn mất nối dài,
Đối diện sống chết mới hay huyển bào.
Trong giấc ngủ cũng chiêm bao,
Thân còn mê mệt, thức lao xao tình,
Biết hành động theo ý mình,
Thấy ra tất cả cảnh tình chung quanh.
Đôi khi mộng cũng hiển linh,
Thấy trời thần Phật sự tình ít thôi.
Vì ta với họ khác thời,
Không cùng cảnh giới, xa vời thấp cao.
Phần nhiều khi ngủ chiêm bao,
Do ngoại cảnh tác động vào nơi thân.
Hoặc do các pháp tưởng sanh,
Ngủ mà như thức, nên thành chiêm bao.
Các sự mộng mị chen vào,
Biết tự hoạt động, thân nào biết đâu.
Chiêm bao thức ngủ như nhau,
Không đáng tin cậy, nên mau làm lành,
Ngăn ngừa việc ác phát sanh,
Chắc chắn ta được mộng lành vui an.

14. Vấn : Chết rồi cái biết đi đâu?
Đáp : Nó theo nghiệp lúc sống đâu khác gì.
Cờ bạc tìm cờ bạc đi,
Uống rượu đến chốn nhâm nhi men sầu.
Ác thiện cũng thế khác đâu,
Đạo đức tìm chốn nhiệm mầu trú tâm.
Kết quả yên vui tỉnh trầm,
Hay rối khổ, do hướng tâm sinh thời.

15. Vấn : Khi ta từ giả cuộc đời,
Thân ta còn đó, biết thời đi đâu?
Hình dạng cái biết ra sao?
Đáp : Lúc chết như ngủ quên nào biết chi.
Đến khi sực tỉnh thôi thì,
Xương thịt đã cứng, hơi thì không ngơ.
Mới biết mình đã chết rồi,
Thôi thì cái biết nổi trôi thọ tình.
Với người thiện nhẹ vui thanh,
Với kẻ ác, khổ phải đành mà thôi.
Do gieo giống lúc sinh thời,
Nhân nào quả nấy, đầy vơi tự mình.

16. Vấn : Cái biết bao lớn ra sao?
Đáp : Khi ta ngước lên hư không
Tức thì cái biết cũng đồng bao la.
Lúc lựa từng hạt cát ra,
Biết là hạt cát mà ta đang tìm.
Khi xỏ chỉ vào lổ kim,
Cái biết nhỏ xíu như kim khác nào.
Thấy vật trước mắt ra sao,
Thì cái biết cũng in nhau khác gì.
Tai nghe, mũi hưởi, nếm chi,
Biết chính là tiếng, mùi gì không sai,
Lưỡi nếm vị biết đắng cay,
Thân sờ đụng vật biết ngay cứng mềm.
Ý nhớ người biết ghét thương,
Trí phân biệt, biết tỏ tường các duyên.
Gặp màu xanh, đỏ, trắng, vàng,
Biết nhận rõ sắc đỏ, vàng, trắng, xanh.
Thấy vật tròn dài biết rành,
Ý tưởng cận viễn, dữ lành biết ngay.
Vũ trụ vạn biệt, thiên sai,
Cái biết rõ hết trong ngoài, gần xa.
Lúc chú ý, chỉ một mà,
Biết gần, thì không biết xa mọi điều.
Biết nhiều khổ não thêm nhiều,
Không biết không khổ là điều nhớ ghi.
Muốn dứt khổ phải toàn tri,
Loạn ma, định Phật, biết gì cho an.
Muốn cái biết sống vững vàng,
Phải năng định tỉnh biết hằng an vui.
Biết thiệt thọ, biết thảnh thơi,
Gọi tên giác ngộ đời đời chơn thân.

17. Vấn : Cái gì được gọi là ta ?
Lại còn phân định thành ra mấy phần?
Đáp : Tư kỷ bổn ngã là nhân,
Sở chấp mê muội là phần tương quan,
Ai cũng tự đắc, kiêu căng,
Tự tôn, tự đại cho rằng ta hay.
Ta là cái biết muôn loài,
Tùy nơi trình độ hiển bày khác nhau.
Trình độ nào, biết ra sao ?
Không ai sái trật, biết sao luận bàn.
Nếu có người biết hoàn toàn,
Cũng không nhìn nhận ta đang là gì.
Cái ta biến hiện tùy nghi,
Không có sở trụ lấy gì thấp cao.
Chúng sanh không định muôn màu,
Cái ta muôn vạn biết đâu mà lường.
Khi vầy khi khác vô thường,
Mãi cố chấp nên không phương kiếm tầm.
Càng rối loạn, càng lạc lầm,
Chúng sanh chưa có cái tâm cho mình.
Phật có cái ta viên minh,
Cái ta chơn ngã anh linh nhiệm mầu.

18. Vấn : Cái biết nhập thai cách nào?
Đáp : Biết như làn khói ra vào trong thân.
Thân thể ta vốn trống không,
Có lỗ hơi, gió ra vào thông thương.
Thì biết nhập thai sự thường,
Nhưng ta nên rõ, biết nương thai bào,
Nếu không tinh huyết làm sao,
Tượng hình sinh sản, thai bào trống không,
Đủ duyên giao hiệp tương đồng,
Tinh huyết đầy đủ sanh thân con người.

19. Vấn : Hồn là chi ? Phách là chi ?
Đáp : Hồn phách hay thần thức linh,
Người ta ám chỉ thân hình biết, tôi.
Tuy khác tên chỉ một thôi,
Còn pháp chỉ rõ khúc nôi danh từ,
Trình độ mỗi lúc khác như,
Thọ, tưởng, hành, thức, giác từ danh xưng.
Hiểu nơi lý rộng dung tình,
Chấp theo sự việc tối tăm hẹp hòi.
Nên gọi là linh hồn thôi,
Tạm cho ta hiểu, để rồi tiến lên.

20. Vấn : Thông thường mấy cách sanh thân?
Đáp : Tất cả bốn cách sanh thân trong đời.
a. Có linh hồn nhập thai rồi,
Do nơi cây thú lâu ngày khổ nguy,
Nên sau khi chết liền đi,
Tìm nơi nương gá chờ khi, nơi người,
Như choán chỗ, như chờ thời,
Tự nhập thai, hoặc bị người kéo lôi,
Nhập thai trước trong bụng người,
Để đặng trả oán hoặc thời đền ơn.
b. Thai tượng không có linh hồn,
Tinh cha huyết mẹ tích dồn có đây.
Như hột giống cây sanh cây,
Giống thú sanh thú, người sanh giống người.
Đầy đủ các duyên đúng thời,
Do đó hình tượng thai người có ra.
Có khi tư tưởng mẹ cha,
Mong muốn nên có thai bào tượng nên,
Có người nhờ sự linh thiêng,
Khấn nguyện cầu vái chăm chuyên lâu ngày,
Khi linh ứng sẽ có thai,
Cha mẹ mong ước hôm nay phỉ nguyền.
Cha mẹ sinh con tùy duyên,
Có tứ đại, có đủ duyên sanh người.
c. Thai không có giao dâm, nơi
Thần thông linh hiển, tiên trời gá duyên,
Các Ngài dùng tư tưởng riêng,
Đi nhập duyên trước, gá duyên ta bà,
Thai này không cần tinh cha,
Mà vẫn có được chính là phép linh.
d. Linh hồn không nhập thai sanh,
Là do nơi bậc trọn lành kết duyên.
Không hạp nhơ uế cái triền,
Từ lòng bi mẫn đến miền nhân gian,
Vì thương đời khổ lầm than,
Không mê trần cảnh lạc đàng trầm luân.
Chờ lúc khai hoa sinh thân,
Mới thị hiện đến có phần diệu hay,
Có điềm trân quý hiển bày,
Sanh thân viên mãn có ngay phúc phần.

21. Vấn : Bốn cách sanh có khác chăng?
Đáp : Về sắc thân không khác nhau,
Về bẩm chất, tính cách, chậm mau không đồng.
Đứa trẻ cây sanh độn đần,
Thú sanh đứa trẻ ác hung, ngu khờ.
Người ác tái sanh xấu xa,
Người thiện sanh, tánh hiền hòa dễ thương.
Thần tái sanh, trẻ khác thường,
Lanh lợi, quỷ quyệt, tính cường bạo hơn.
Tiên Thánh sanh, trẻ đẹp hơn,
Đức tánh quý lạ khác hơn người thường.
Cha mẹ sanh, trẻ bình thường,
Dạy đâu biết đó chậm hơn, trung bình.
Những đứa trẻ lúc mới sanh,
Để nơi chỗ vắng biết đành chết luôn.
Nếu có sống như không hồn,
Không người dạy, biết không tồn tại lâu.

22. Vấn : Khoa học nói không hồn đúng chăng ?
Đáp : Khoa học là môn chuyên sâu
Giải thích lý luận qua điều chứng minh.
Môn siêu hình học tâm linh,
Người ít chú ý nên nhìn khác đi.
Chơn lý Phật pháp vô vi,
Cái nhìn thông suốt tuệ tri pháp trần.
Khoa học nghiên cứu chuyên cần,
Hiểu được thế giới một phần ít thôi.
Phật học cái biết rộng khơi,
Thấy trong võ trụ bao đời duyên nhơn.
Khoa học nằm trong lý chơn,
Giáo pháp của Phật quả nhơn tỏ tường.
Siêu hình học biết có hồn,
Đó là cái sống ở trong thân mình,
Từ chưa biết đến nên hình,
Biết như người chủ cộng sinh kiếp người.
Cỏ cây còn có biết thay,
Người chưa thấy biết bởi vì chấp thân.
Trồng cây quên cái mình cần,
Cây chết còn hột, mất thân còn hồn.
Cây sanh hột, thân sanh tâm,
Đó là chơn lý ngàn năm vẫn là.
Vã lại, bốn cách sanh ra,
Nếu nói tứ đại chính là sống đây,
Bảo đất đá nói chuyện đi,
Thử xem có được? Cái gì diễn ra,
Nếu nói không biết thì a,
Ai đang nói đó, ai người hiểu đây.
Chính cái biết hạt giống nầy,
Là duyên tiến hóa, kiếp nầy kiếp sau.
Nếu nói sống, không biết nào,
Thì chỉ đáp đúng khoảng đầu sanh thân.

23. Vấn : Xin hãy giải rõ một lần,
Thân sanh tâm, tâm sanh thân lẽ nào?
Đáp : Thân sanh tâm giai đoạn đầu,
Trên đường tiến hóa, tâm hầu sanh thân.
Như cây có trái hạt nhân,
Sau đem hạt giống gieo trồng có cây.

24. Vấn : Vậy có phải linh hồn nầy,
Sống và tiến hóa đến thành Phật chăng?
Đáp : Có sống có chết đổi thay,
Nhưng lớp khác vẫn ngày ngày tấn lên.
Học trò thi, có thành công,
Cũng có người rớt, như trong mười người.
Rớt nhiều đậu ít mà thôi,
Nhưng rồi cũng có nhiều người bước lên.
Mười cọng cỏ có được một thành cây.
Mười cái cây có được một sanh thú.
Mười con thú nhỏ có được một con thú lớn.
Mười con thú lớn có được một con sanh người.
Mười người có một người thành Trời.
Mười vị Trời có một vị đắc quả Phật.
Như cây có lá một muôn,
Bông một ngàn, trái một trăm là nhiều.
Đến thành hột chẳng bao nhiêu,
Hột cứng chắc, chỉ một vài phần trăm.
Mùa này, mùa khác xoay vần,
Năm nào cũng có hạt mầm ươm gieo.

25. Vấn : Cõi siêu hình Trời Phật ở đâu ?
Đáp : Võ trụ vô số địa cầu,
Tứ đại bình đẳng không đầu, không đuôi.
Lăn xoay nên có đổi dời,
Lâu mau, nhiều ít tùy nơi tâm mình.
Có thế giới, có chúng sinh,
Hàm linh vạn vật tùy trình độ tâm.
Phật, trời, người, thú, nữ, nam,
Ông già, người lớn, trẻ em hiện hành.
Thiện ác, cười khóc có sanh,
Tùy tâm cảm ứng mà thành nhân duyên.
Tâm trời Phật ở cảnh hiền,
Tâm người thú chiêu cảm miền nhân gian.
Tâm quỷ ma cũng tìm đàng,
Tìm cảnh giới hạp kết đoàn sống chung.
Lựa chọn cao thấp mực trung,
Nơi này nơi khác tựu trung không bền.
Chỉ tâm mình chỗ vững yên,
Tâm tạo quyến thuộc cảnh duyên cuộc đời.
Sự ngoài dời đổi tùy thời,
Tâm mình nhứt định, cõi đời bình yên.
Vậy nên phải chọn tâm điền,
Tâm thiện, chơn, huệ vui yên tinh thần.
Dẫu trong cảnh nghịch gian truân,
Tâm định giữ được cảnh chân như mình.
Trái lại mê muội vọng tình,
Khổ sở, tăm tối, lạnh lùng, lẽ loi,
Sống đã vậy, mất thân rồi,
Tâm hồn cũng hướng theo nơi vọng tình.
Một đời khổ sở điêu linh,
Sống trong cảnh giới vô minh thăng trầm.

26. Vấn : Địa ngục dưới đất phải chăng?
Đáp : Quyền giáo ví dụ chỉ rằng,
Giữa ruột trái đất tối tăm lửa hừng.
Chớ thật ra cảnh do tâm,
Tâm nào cảnh đó thăng trầm tự nhiên.
Địa ngục ác khổ triền miên,
Thiên đường thiện đạo, cảnh duyên nhẹ nhàng.
Chợ đông một buổi rộn ràng,
Cần gì tìm đó, rõ ràng không sai.
Nhìn vào ta sẽ thấy ngay,
Đợi gì sống chết, cảnh ngoài, cảnh trong.

27. Vấn : Do đâu kẻ nói chết còn,
Người nói chết mất ví von thế nào?
Đáp : Do bởi kẻ ác nói liều
Kiếp này làm ác thỏa điều ăn chơi.
Đời sao tu cũng được thôi,
Nên bậc Hiền Thánh có lời dạy răn:
Công lý võ trụ công bằng,
Lẽ tương đối, vẫn thường hằng hiển nhiên.
Đời sau muốn được vui yên,
Bây giờ phải biết tu hiền thiện nhân,
Buông lung ăn chơi sướng thân,
Chắc rằng sẽ bị mất phần tâm linh.
Được ngoài thì sẽ mất trong,
Sanh thì tử, mãi trong vòng trầm luân.
Thái quá thì bất cập gần,
Kẻ làm ác, biết và thân không còn.
Linh hồn quá khổ đảo điên,
Làm sao có được duyên mà hòng tu.
Kẻ ác vui chơi lu bù,
Rằng không hưởng thụ là ngu trên đời.
Như đời trước có vun bồi,
Kiếp này đang hưởng phước đời xa xưa.
Phải biết đang hưởng phước thừa,
Còn phước hưởng, nên khổ chưa đến mình.
Nhân quả như bóng theo hình,
Tái sanh hết phước, khổ mình chịu thôi.
Lòng từ bi Phật thương đời,
Nói thường, nói đoạn cho người biết tu.
Tùy theo căn tánh trí ngu,
Tùy duyên giáo hóa cho dù nhọc thân.
Chết còn, chết mất chớ lầm,
Làm thiện hay ác có phần quả sau.

28. Vấn : Tiêu diệt thân tâm cách nào ?
Đáp : Kẻ ác, con trẻ rủ nhau làm lành,
Không ai tán trợ xung quanh.
Bằng kêu làm ác sát sanh trâu bò,
Nhiều người hưởng ứng giúp cho,
Không kêu cũng tới, cùng lo hô hào,
Một dao lại thêm một dao,
Một mạng thêm mạng, trước sau đông vầy.
Lượm đất ném lên không đây,
Hết trớn rớt xuống lún lầy nát thân.
Kẻ ác trong lúc tạo nhân,
Quả đến bạo phát, bạo tàn không xa.
Ác với thú, tới người ta,
Rồi đến ác với kẻ xa người gần,
Đồng bọn xa lánh không thân,
Thế lực tan rã thêm phần bơ vơ.
Cái ác làm nó ngây khờ,
Làm việc không biết ngu ngơ điên cuồng.
Khổ nữa mất tư tưởng luôn,
Ghét người, ghét thú như tuồng cỏ cây.
Cái khổ hành phạt lâu ngày,
Hết biết, mất biết khổ thay lạc lầm.
Kẻ ác vương mang nhiều năm,
Như ngục vô gián luân trầm đọa sa.
Người thương cũng khó gần mà,
Không phương cứu chữa thật là thảm thay.
Khổ điên có hai cách này.
Kẻ ác điên khổ có ngày diệt tiêu.
Người thiện vì học quá nhiều,
Vì lo nhớ nghĩ như người sụt thang,
Điên sảng chỉ một thời gian,
Được thương, chăm sóc dần an tinh thần.
Điên vì tình dục lụy thân,
Chính khổ ân ái giết lần tâm linh,
Tình dục lưỡi kiếm vô hình,
Diệt tiêu cái biết ngục hình dấn thân.

29. Vấn : Nếu vậy sống trong cõi trần,
Rồi ai cũng phải có lần diệt tiêu ?
Đáp : Đừng hoảng hốt, đừng sợ nhiều,
Hãy lo làm thiện tránh điều ác ngay.
Lẽ thật tạo hóa xưa nay,
Sanh mà không diệt các loài cộng sinh,
Đất đâu chứa hết chúng sanh.
Đường thiện tiến hóa sẵn dành người khôn.
Mình giết người, người chết thân,
Còn mình hạt giống thiện tâm mất rồi.
Tới lui trong nẽo luân hồi,
Chịu sự vay trả đền bồi chết thân.
Rõ ràng mình tự giết mình,
Có ai nghĩ đến, hoặc mình biết ra,
Thiện là tiến, ác lui mà,
Đâu có ưu ái riêng ta tốt lành,
Nhân quả báo ứng đành rành,
Vay trả, thiện ác, trược thanh do mình.

30. Vấn : Làm sao thành Phật anh linh
Đời đời được sống yên bình an vui ?
Đáp : Con thú tái sanh làm người,
Kiếm ăn để sống chờ thời bỏ thân,
Lâu ngày mệt mõi bất cần,
Một hôm gặp kẻ khó khăn hơn mình.
Sớt phần dư, sẻ chút tình,
Được lời cảm tạ nó mừng biết bao,
Tâm nghe mát mẻ, ngọt ngào,
Hay hay, mới lạ dạt dào yêu thương.
Nó ham bố thí cúng dường,
Siêng làm việc thiện, biết thương nhiều người.
Sống làm gương tốt cho đời,
Thân tâm an lạc, rạng ngời niềm tin.
Làm phải cho một gia đình,
Người ta quý mến như tình cha con
Giúp cho làng tỉnh sống còn,
Mọi người kính trọng như quan cầm quyền.
Giúp cho cả xứ bình yên,
Người người mến đức, vương quyền thiên ân.
Ai ai cũng muốn được gần,
Hưởng sự mát mẻ thêm phần yên vui.
Khi trọn phận sự kiếp người,
Mãn duyên xả bỏ cuộc đời phù du.
Tâm nương cảnh tịnh ôn nhu,
Lòng nghe khoái lạc, đức thù thắng thay.
Trước khi bỏ xác thân này,
Đang khi chết hoặc sau khi chết rồi.
Cũng có nhiều người lìa đời,
Sau sự khổ nạn, chết thời không an.
Tìm đến ở chung đạo tràng,
Nhờ sự dạy dỗ vững an linh hồn.
Lần lần xã hội siêu hình,
Càng thêm đông đảo ấm tình tương thân.
Nơi đây nó như chủ nhân,
Như ông thầy giáo tiến lần lên mau,
Như vua trời, hưởng phước thiên,
Xa gần cảm mến kết duyên vui vầy.
Thân giáo người người kính yêu,
Thiện lành nói ít cũng chiêu cảm người.
Lời lành thiện như hoa trời,
Tán dương ca ngợi đức người tu chân.
Kẻ ác nói cũng như câm,
Dù có học giỏi cũng bằng như không.
Nơi đây nó tập nói lần,
Mở mang trí sáng, lý chân hiểu rành.
Đắc đạo là đắc nhân tâm,
Tiến thêm bước nữa, xa gần gieo duyên.
Dạy đạo giác ngộ chân thường,
Khắp nơi cùng xứ theo gương tu hành.
Đến khi cảnh giới đạo thành,
Trí đầy, tâm đủ viên thành Như Lai.
Có đoàn hậu tấn trí tài,
Đến lúc nghĩ dưỡng, lâu dài trường sanh.
Đến đây cái biết viên thành,
Kim cang bất hoại chúng sanh tôn sùng.
Ánh quang minh chiếu khắp cùng,
Sáng soi thế giới sạch không yên bình.
Từ thú mỗi bước đăng trình,
Đến người, trời, Phật thiện lành kim cang,
Không tự cao, dừng nghĩ ngang,
Đây là gương sáng cho hàng hậu nhân.
Diệt hết ác, tất trọn lành,
Thương đời, thương cả chúng sanh muôn loài.
Bình đẳng, bác ái không hai,
Không lựa lớn nhỏ, không nài hèn sang,
Mới mong giác ngộ hoàn toàn,
Mới mong thành Phật thoát đàng tử sanh.
Yên vui trọn sáng, trọn lành,
Người người quý kính chí thành noi gương.
Ai ơi ! chánh pháp chơn thường,
Hãy nên làm Phật, pháp vương đời đời./.



Tác giả: Đức Tổ Sư Minh Đăng Quang
NT. Tuyết Liên chuyển thơ

-----oo0oo-----
Nguồn: www.daophatkhatsi.vn
DANH MỤC - CHƠN LÝ KHẤT SĨ

DANH MỤC - CHƠN LÝ KHẤT SĨ

1. Vũ Trụ Quan 31. Hạt Giống
2. Ngũ Uẩn 32. Sợ Tội Lỗi
3. Lục Căn 33. Trường Đạo Lý
4. Thập Nhị Nhân Duyên 34. Nguồn Đạo Lý
5. Bát Chánh Đạo 35. Con Sư Tử
6. Có Và Không 36. Đi Học
7. Sanh Và Tử 37. Đời Đạo Đức
8. Nam Và Nữ 38. Đại Thừa Giáo
9. Chánh Đẳng Chánh Giác 39. Xứ Thiên Đường
10. Công Lý Vũ Trụ 40. Vị Hung Thân
11.Khất Sĩ 41. Phật Tánh
12. Y Bát Chơn Truyền 42. Học Để Tu
13. Ăn Chay 43. Đạo Phật
14. Nhập Định 44. Tu Và Nghiệp
15. Bài Học Cư Sĩ 45. Pháp Tạng
16. Cư Sĩ 46. Vô Lượng Cam Lộ
17. Tâm 47. Quan Thế Âm
18. Tánh Thủy 48. Đại Thái Thức
19. Học Chơn Lý 49. Địa Tạng
20. Trên Mặt Nước 50. Pháp Hoa
21. Chánh Pháp 51. Thờ Phượng
22. Chánh Kiến 52. Pháp Chánh Giác
23. Tam Giáo 53. Số Tức Quan
24. Tông Giáo 54. Sám Hối
25. Thần Mật 55. Chơn Như
26. Giác Ngộ 56. Hòa Bình
27. Khuyến Tu 57. Lễ Giáo
28. Đi Tu 58. Đạo Phật Khất Sĩ
29. Ăn Và Sống 59. Khổ Và Vui
30. Chư Phật 60. Pháp Học Cư Sĩ

Đánh giá bài viết

4.98/32 rates

Đăng nhận xét

Cảm ơn Đạo Hữu đã đóng góp. Chúc Đạo Hữu một ngày an lạc! A Di Đà Phật