Nam Và Nữ - Chơn Lý Khất Sĩ

Nam Và Nữ - Chơn Lý Khất Sĩ
A+ A-






NAM VÀ NỮ

Chơn Lý Khất Sĩ
Chơn Lý Số 8

1.- Quán xét về sự sanh sống của loài người, thì chúng ta nhận thấy rằng: Tiếng nhơn người là một danh từ chỉ cho sự hành vi của sắc thân, có chứa lòng nhơn ái. Nên gọi người là gồm cả thân và tâm. Tâm đây là lấy sự nhơn (lòng nhơn) làm trung tâm điểm; mà lòng nhơn ấy có là tại nơi hành vi, việc làm thiện.

2.- Loài người có, là trước kia do nơi thú tiến hóa ra. Chủng tộc người sanh ra trước nhất tại chân núi Hy-mã-lạp-sơn, hồi ấy là vượn khỉ, giống giàu lòng gia tộc thường cất nhà ổ trên ngọn cây, cả bầy có tới số trăm ngàn.

3.- Về chơn lý chỉ rằng: Từ thuở tứ đại địa cầu mới nổi thì cỏ cây thú do ấm tứ đại sanh ra, từ ít tới nhiều, từ nhỏ tới lớn, bởi nơi sự khổ là gió làm duyên. Thời gian càng đưa tới, mỗi kiếp lại lớn khôn, loài thú hoặc trong đất sanh ra, hoặc trong nước sanh ra, hoặc hóa sanh nơi cỏ cây đồ vật, biến đổi hình dạng do tư tưởng, con này thành ra con kia, hoặc khi đã có rồi thì sanh thai đẻ trứng, hầu hết đều trong loại ngũ sắc đủ hình.

Loài thú, phần đông, chỉ biết sát hại để ăn, giành giựt cho có, dâm dục chơi bời la lối ngông nghêu, lắm con lại tìm sự say sưa bất kể. Loài thú chỉ có tư tưởng biết lo nhớ, và hành động theo ý dục của thọ tình. Chẳng biết sự phân chia tốt xấu khen chê, đen trắng từ trong đen ác tiến lần ra ngoài trắng thiện làm người. Xưa kia loài cọp dữ hung hăng lúc nhỏ, ỷ mạnh làm oai, giết hại ăn nhau, tập ác cho nhau sanh ra thù oán. Khi trở về già bệnh yếu, bị trẻ nhỏ rình đón hăm he mới phải sợ chết mà lìa rừng, trèo lên cây cao và non núi đói ăn bông trái lá hột, ốm yếu nhỏ hình, trở nên khỉ, vượn, gấu, đười ươi. Nhờ sợ chết mà biết ăn năn sám hối, bỏ dữ theo lành, lên ở trên cao; bậc đã lớn tuổi nhiều năm kinh nghiệm, có trí hóa biết thương yêu và hay tha thứ.

Từ lúc chạy bốn cẳng đến khi biết đứng hai chơn hái trái, biết đến trèo leo, về sau đói khát thiếu ăn khi mùa nắng hạn, mới chạy tuốt xuống đồng bằng; vì đói mà tập bươi đất dập hột gieo trồng; vì mưa nắng mà che lùm cất ổ sửa sang nhà cửa; vì nóng lạnh nên đóng khố choàng khăn, bằng bố, bô, vỏ, lá, bàng, cối, vải sồ, khi đau ốm, bởi tại miệng ăn, thì tìm miếng ăn đối trị, nếm thử mùi vị mà chế ra thuốc uống.

Về sự ăn, mặc, ở, bịnh, cần sống, càng chế biến mở mang nên việc làm càng nhiều, ý càng hay, trí càng sáng, theo nẻo vật chất, tham sanh, tiếc thân, gìn của, lại tự cao chưng diện, lông lá đứt rụng lần, không mọc ra dài được. Nhờ ở ăn no ấm thân thể được trắng trẻo phì mĩ, và bởi sự ưa dâm mà trau dồi nên ra bóng sắc.

Sự tấn hóa hay hơn hết về lẽ sống là lòng nhơn thành thiện, biết thương yêu nhau, lập ra gia đình xã hội, trói buộc cho nhau bằng tình nghĩa cang thường luân lý, và đua chen nhau học hành vật chất, quyền thế lợi danh, để mong cầu được cái vui say êm sướng cho xác thịt. Lắm kẻ lại nhắm mắt đánh liều, sống chết tới đâu hay đó, lại đi làm việc hung ác ngang bạo, phá rối sự sống chung của số đông người, mà phải bị lập ra pháp luật, để xử hình răn phạt.

Xưa kia thú dữ ở nơi rừng, chỉ có móng, răng, giết nhau mỗi lần một mạng! Từ khi đã có lập gia đình xã hội, đoàn nhóm, thì lại hay sanh ra giặc giã lớn lao, tàn sát triệu ức mạng người. Có biết làm cơ khí giỏi hay, mà hại thú vật, một lần không số đếm, ấy cũng vì danh lợi mà ra. Lắm kẻ lại vì tình riêng giành giựt, mà sanh ra cướp trộm đánh phá, sự hung ác trở lại hơn buổi ban đầu.

Hồi tưởng lại thuở mới có một hai người, nơi mặt đất bằng, bấy giờ họ rất biết thương yêu nhau che chở cho nhau, rủ nhau đến ở chung, chung sống, cùng nhau đồng hòa sức lực, chống chỏi với mọi tai nạn khủng khiếp, đầy dẫy khắp nơi lúc nào cũng có! Những kẻ ấy đồng cảnh ngộ mà đến ở chung, đồng kinh nghiệm, đồng lòng nhân ái, đồng góp sức gia công, đồng vui tuơi hòa hiệp, nên mới có cõi đời này. Cõi đời của loài người, mà càng thành lập lớn lao đông đúc, thì càng sanh lắm tai nạn chém giết cùng nhau, do đó sự chia rẽ nhiều nơi mới có, và có số chết kia, thì rồi sau lại số sanh nọ càng nhiều hơn, càng nhiều là càng khổ, bởi quá khổ mới có kẻ sáng trí, gọi Phật Trời!

Buổi đầu chưa có người, loài thú ăn thịt uống máu lẫn nhau, gọi là Hồng hoang thượng cổ.

Kế đó sanh nảy loài người lập gia đình, xã hội cõi sống lòng nhơn, gọi là Toại nhân.

Đến sau càng đông nhiều, chen chúc thiếu hụt tranh giành, kẻ thì đi vào sâu trong vật chất, người lại vất bỏ mà lần lượt đến cõi tinh thần, xán lạn vui tuơi vĩnh viễn, chắc thật gọi là văn minh, lành sáng, có học, đạo giáo, bậc Trời, cõi Trời thiện đạo, chư thiên trọn lành trên mặt đất. Sau rốt đời sẽ trở nên cõi Phật, và quả địa cầu, thế giới phải đến lúc diệt tiêu, đặng mà thay đổi tượng sanh trở lại, sau thời kỳ khác, đúng theo lẽ vô thường, khổ não, vô ngã, của không gian và thời gian là võ trụ.

ĐẶC ĐIỂM CỦA NHÂN SANH LÀ NAM VÀ NỮ

Loài người có nam và nữ là bởi nơi thú có đực cái. Thú có đực cái là bởi cây có âm dương tình thọ! Tình thọ có hai, khi ưa vầy, khi muốn khác, do mưa nắng các pháp tương đối đổi thay. Căn thân do thức chủ mà tượng thành lấy trần vật chất làm ra cái có. Hình thể của thân do cây cỏ, thân hình cây cỏ do kẹt đất đá mọc lên. Đầu miệng phía dưới, đuôi miệng phía trên, ăn đất nước nơi đầu là gốc rễ, đem lại nuôi đuôi phía trên là tàng nhánh, để sanh tinh ba trái hột là con. Đến loài thú thì đầu đuôi ngang nhau, tiến đến người thì đầu trên chân dưới. Sự thay chân đổi đầu là bởi khổ, mới tập theo duyên cảnh mà quen lần.

Nam hay nữ, đực hay cái, cỏ hay cây, Trời hay Phật cũng đều gọi là chúng sanh, chung sống, sống chung hay là những loại có sự sống như nhau, ở chung trong bầu võ trụ. Kẻ như đầu, kẻ như chân, kẻ như mắt, kẻ như tai, kẻ như mũi, kẻ như luỡi, kẻ như tay, kẻ như tim, gan, tỳ, phổi, thận, kẻ như da, lông, xương, thịt, máu huyết, tinh ba v.v… gồm tất cả là một cơ thể sống của võ trụ. Cái sống toàn thể ấy gọi là ta, cái ta chung hiệp tất cả như nhau làm một, không thể tách lìa không hề rã đoạn, chẳng riêng tư, không ích kỷ, chẳng phân chia, tức là sự trọn sống, trọn yên vui, trọn không đau đớn khổ sở tai họa. Như vậy thì đâu có sự thương hay ghét, hoặc ta và người, những điều nhỏ hẹp.

Trái lại sự khổ của người là bởi nơi nam và nữ mê muội, và do nơi đó mới có đạo giải thoát cứu khổ ra đời. Sự khổ ấy là lòng thương, sự cứu khổ ấy cũng lòng thương; cái thương sái trật và cái thương trúng phải.

Cây có đực cái nhưng chẳng giao dâm. Thú tình dục khó dằn mà giao cấu. Người ham lạc thú mới chơi bời mang khốn lụy, tự giết hại chôn mình. Trời thì chán sợ xa dâm, và Phật thì tự nhiên không chú ý. Con đường từ không có đến có mà phải khổ, và vất bỏ để được yên vui kêu là đạo. Đạo mà người giác ngộ hiểu rõ sự quí báu, mới thật hành được hiệu quả, kêu là đạo quả. Con đường ấy nơi khoảng giữa của tương đối nam nữ, đực cái, âm dương, hai bờ lề kêu là trung đạo, không thiên vị sa ngã bên nào.

Lòng thương có hai cách, thương mà được yên vui cứu khổ cho nhau; hay là thương mà rối khổ vì nhau, để giết hại lẫn nhau về sau; hay là cái thương tâng hót bên ngoài xác thịt giả dối, và cái thương chắc thật vĩnh viễn trong tâm hồn. Đức Phật khi xưa có dạy rằng: Lòng thương phải có, mà dục vọng thì đừng. Ấy vậy cái thương đây quí báu tốt đẹp biết bao nhiêu.

Con thú ác, giết hại tất cả mà còn thương vợ con nó. Kẻ hung bạo sát nhân nhưng không giết được đàn bà. Nước mất nhà tan, nhưng nhờ sắc đẹp của người đàn bà (cống hồ) mà được khôi phục lại; đó tức là lòng thương của kẻ ác, thương một người rồi thương lần đến những kẻ khác, mà được có lòng nhân, hay là mỹ nhân kế của Đức Khổng Tử, để lập thành nhân đạo, cho đám người xưa hung bạo. Đó là lòng thương tạo nhân đạo của kẻ ác, miễn cho được sống trong lúc hiểm nguy đánh liều sự may rủi khổ sở về sau; cũng gọi là cái thương của người trẻ nhỏ vậy. Thương đây tức là lòng dục vọng, thương ấy giống tựa luỡi đao thương, nó làm cho sống mà chịu đau khổ, nó cứu bây giờ mà hại về sau! Một khi con người đã hiền lành rồi, mà vướng phải sự thương yêu, thì ôi thôi, trở nên dốt nát, ngây cuồng hung bạo trở lại, mà còn chết cả thân tâm, tan hoang cả sự nghiệp sa địa ngục rất dễ dàng. Cho nên gọi cái thương của dục vọng ấy. chẳng phải là sự thương yêu nhau mà là giết hại nhau, hay là cái thương giả dối độc ác là cái thương dốt nát bằng xác thịt dâm cuồng của người hạ trí vậy.

Đối với đời, tham sống, thì cái thương ấy cũng còn khá hơn là sự giết nhau, như thế cũng là phải, nhưng họ còn lầm, kìa như loài thú kia giết nhau nào ai can gián giải hòa; mà khi loài đực dữ chết bớt, chỉ còn loài cái ngoan ngoãn hiền từ; thì tự nhiên sẽ yên ổn hòa bình ngay được, nên trái lại, đối với đạo, về sự khổ của người hiền thì tình dục là lửa địa ngục nguy hiểm lắm, nó giết hại cả thân và tâm lận. Đó tức là cái thương tạm, cái thương mới tập, chớ chưa phải là chắc chắn, tốt đẹp hay lành. Nhưng cũng từ cái thương thấp kém của loại ác thú kia để cho được cái sống trước, rồi sau mới đến được cái thương xót từ bi của người hiền và chư Phật, mà dứt khổ trọn vẹn, ấy là lòng thương có nhỏ mới có lớn, và bởi có được sống mà khổ, mới có tìm vui thêm về sau. Vậy ta nên nhớ rằng:

Thương một người là tập lần thương tất cả, để sống với tất cả không còn tai nạn, chớ không phải chỉ thương yêu riêng mãi một người mà chịu mang khốn khổ. Lòng thương phải trong sạch, cao viễn, hơn ác thú hung hăng, thương là phải cứu khổ cho nhau, thương mà không ích kỷ; lòng thương ấy tức là đạo chánh đẳng chánh giác công bình, thương khắp cả muôn loài vạn vật, để cho ta được học lòng thương ấy tức là đạo ân nghĩa của chúng sanh, tức là sợi dây huyết quản của cái ta, là thân hình võ trụ chúng sanh chung, cũng gọi là linh hồn, sự sống của muôn loài, hay là sợi dây kết chặt thuyền bè giữa biển, ràng trói các cây to để chống chỏi nạn bão to gió lớn. Lòng thương từ bi cũng như vách đá sau lưng, của người đi tới, cũng như dây xích dắt kẻ lạc đàng v.v... có lòng thương từ bi rộng lớn thì mới đến được cái sống, cái yên vui trọn đủ được, chớ sống mà khổ thì cũng không ai muốn sống cả; vì cái khổ tức là một sự ép ngặt, thiếu thốn khó chịu hơn là cái chết.

Vậy nên lòng thương phải nẩy nở, trong sạch, phải cho biết thương, thương phải có học, có kinh nghiệm, chớ chẳng nên thương bướng, thương càng, thương nhục nhã, xấu xa, đê tiện.

Trong đời mà ai chẳng có lòng thương, ai mà chẳng thương mình, mà thương mình là thương tất cả chúng sanh ta và người như nhau, nên gọi lòng thương là bình đẳng tánh, là niệm vô tránh, hay Pháp tạng, A Di Đà Phật vậy.

Có thương yêu mới chung vui hòa hiệp làm một thể sống, sức mạnh bền dài, cũng như thân thể lành lẽ, chẳng bị sứt trầy, khuyết điểm, cũng như làn da bao bọc che đậy kín đáo cả thân mình là chúng sanh. Người mà không có lòng thương thì tệ hơn con thú, ắt giống với cỏ cây đất đá. Nhưng nếu thương sái trật vạy tà thì chẳng có được nhân người gì chút nào cả, cũng như không có lòng thương, chánh nghĩa là muốn giết hại, ghét lắm mà giả bộ gạt gẫm đó thôi… Cho nên một bậc Hiền triết xưa dạy rằng: Nam và nữ là hai kẻ tử thù hễ gặp nhau là công kích, đối chọi, hoặc tìm cách thế mưu độc cám dỗ dẫn dụ, để mà giết hại nhau cho kỳ được, thề cho sa địa ngục tiêu diệt hết mới chịu thôi.

Trong đời, mười vụ kiện có đến chín do vợ chồng, mười kẻ điên, có đến tám vì tình dục. Mười người chết hoặc tự vận, có đến bảy vì ân ái nhục dục. Mười kẻ sa địa ngục A tỳ tiêu diệt thân tâm có đến sáu vì sự dâm. Cho nên Thánh nhơn dạy rằng: Vạn ác dâm vi thủ!

Vậy ta nên nhớ rằng, hơn nữa của sự thất bại là do ái tình mà ra. Ái tình là giặc kiên cố, giặc trong mình phát ra, giặc giết được linh hồn lận! Tức là mũi thương độc ác hơn hết giặc đời đời kiếp kiếp, giặc không hình nguy hiểm giặc không phương chống cự, người gây giặc ái tình ấy, độc hại quỉ quyệt như tinh, như quỉ, hơn yêu! Một khi bắt nhốt được người, thì dầu Trời cũng không cứu gỡ đặng. Chính ái dục là Ma vương mà xưa kia chư Phật còn hãi sợ. Cội Bồ đề sập ngã, muôn kiếp trầm luân, mất nước tan nhà giết hại lẫn nhau muôn điều tàn ác, dốt nát ngây si tham sân độc địa… cũng do tình dục cả thảy! Nên chư Phật Thánh dứt bỏ nó làm đầu, còn Thần Tiên chết đọa, là tại dể duôi hờ hững!

Than ôi! Cõi ái dục lờ mờ đen tối, giáo lý nó như vách sắt lưới đồng, cả trong cõi thú, người, thảy bị trói trăn xử phạt, sai khiến, đọa đày. Thân địa ngục ái ân là nguy nan nhất, kẻ không trí huệ có tránh được đâu? Bao sự thành công sụp đổ kế hoạch giựt cướp nước nhà, ly dị chia rẽ giết giống nòi, hại cả chúng sanh… thảy đều do nơi lợi khí của ái tình. Sanh già bịnh chết, âu sầu, sợ sệt, áo não, đau thương, xa lìa, gặp gỡ cầu mong khổ sở cũng vì nó. Bỏ người làm thú cũng tại nó. Của cải tiêu tan, pháp bảo không còn, chỗ ở bơ vơ, hiền thánh suy sụp cũng do ái dục.

Chính ái dục là nấm mồ địa ngục, mà người sa lọt xuống vào, thì không thể cất đầu. Ở trong hầm ái dục người ta phải mất chủ tâm, không còn biết mình là ai, và ở đâu, đi đâu; phải bị cướp hồn, khiến sai theo mạng lịnh, nô lệ lòn cúi rất xấu xa. Chính ái tình là độc quỉ vô thường, con ma khổ não là thần chủ trị phạt hại nữ nam, nó ở giữa nam và nữ; phép tắc của nó mạnh nhất trong đời, thật là ác độc vô cùng!

Trong đời không có chi xấu xa bằng lòng tư kỷ, lòng tư kỷ lại là ái dục không có sự nhơ nhớp nào hơn ái dục! Không có sự giấu kín ẩn khuất lén lút nào hơn ái dục! Không có chi thấp thỏi dơ dáy bẩn thỉu linh hồn, nặng nề mệt nhọc hơn là ái dục. Người thú liên quan, vong ân bội nghĩa, điên đảo tỉnh say, lát cười lát khóc, dua bợ nịnh hót, hết ghét rồi thương, như trẻ con xẩn bẩn, là cà, nhột nhạt, hổ thẹn vô ích tai hại, chi cho bằng ái dục. Ác của ái dục là giết hại chúng sanh. Tội của ái dục là lỗi phận sự với chúng sanh. Sự ngang bạo của ái dục là cứng cổ, bất tuân lời Phật Thánh, bậc cha thầy, ngỗ nghịch, vô đạo. Than ôi! Ngàn đời muôn kiếp chúng ta đã sống và mang ơn đất nước cỏ cây thú người Trời Phật, muôn loại sống cho ta, ta làm khổ hại muôn loài do từ đâu mà ta có? Thế sao ta lại bái quỵ, tôn thờ nuôi riêng ái dục, vô hình bông lông tội lỗi. Ái dục giết hại cả nữ nam chớ có tha gì một ai? Lắm kẻ hiểu lầm là sự che chở cứu vớt nương nhau, nên cho là hạnh phúc lại gọi là sự an ủi vui hay khoái lạc. Phải! Rất an ủi hay khoái lạc, mà chỉ được bây giờ, chốc lát, trước mặt giả dối thôi, chính nó làm cho ta mất tấn hóa trong muôn đời, dấy sanh tham sân si bất tận. Cái vui ái dục là cây cột đồng bào lạc bên trong đốt lửa, để nướng thiêu, kẻ tội nhân bị trói tay chân vào, là thành tro mạt của trong địa ngục đó, chớ nào phải là sự nhàn lạc của thiên đường thiện đạo, hay là an lạc của Niết bàn, xứ Cực lạc, cõi Tây phương Phật quốc.

Tình dục do tư ý vọng tà của mỗi người, chớù nào ai dạy, do nơi thú tánh tập nhiễm, chớ nào ai đốc xúi? Trời Phật nào có bảo? Thần tiên nào có sai? Cha mẹ nào đi ép buộc?…

Ta nên biết rằng: Người ta có trí hơn muôn vật, người là phải đến Trời và bước lên Phật. Ai đi trước tới trước, bỏ lớp thấp vượt lên cao, để cho chúng sanh về sau, có chỗ trống mà bước tới, chớ sao lại choán chỗ của lớp người hoài, mà lo giành ăn giựt lộn. Lớp người hiện tại đây dầu có thành Trời đi hết, thì về sau cũng có lớp thú tiến lên, cớ sao đứng lại chận đường kẻ sau, mà bỏ đoạn đứt rời khoảng trước, đến đỗi quá mê say nói càn rằng: không Trời Phật đạo đức chi chi.

Lắm kẻ lại khen hay thuyết nuôi gà đẻ trứng, lấy hột để dành con, đặng lập ra bầy lứa to đàn, theo thói lăng loàn cho người lợi dùng máu thịt.

Lắm người bị mưu sâu kế độc của dục tình, làm cho yếu hèn nhu nhược, ngây khờ, để phải chịu sai khiến thúc giục dưới mạng lịnh của kẻ bày mưu.

Kẻ thì lo giữ đất, người lại tính tạo con, than ôi, loài người đang được bấy nhiêu, mà còn hung ác dốt nát, đất chật, thiếu ăn; sao lại tính sanh thêm cho nhiều đông quá, để làm giặc cuớp giết nhau chết hết đặng liều mình. Sao lại muốn mê dốt hơn là ham học. Nếu muốn học, muốn nên, thì có đâu đầy đồng náo nhiệt như vậy.

Than ôi! Cõi đời chúng sanh rối loạn, khổ nạn tơi bời có phải lỗi kẻ dại tham kia quá nặng hay chăng? Hỡi ai là người đốc xúi sanh con để tiêu nhà hại nước, liệt nhược tâm hồn, chủng loại! Ai là người bày xúi loạn luân vô đạo người thú như nhau, bắt người làm vật, tạo lạc thú nơi cõi thân người, đặng mà lùa ví hét la đánh đập, chém giết coi chơi sao đành như thế?

Thượng đế háo sanh, là trọng mạng sống không giết hại nào bảo ai bỏ học buôn dâm. Thượng đế kia mà còn sợ dâm, nhờ bỏ dâm mới làm Thượng đế, sao ta hơn gì Thượng đế, mà dể duôi, lại đổ lỗi cho Trời nói Trời sanh vầy là bảo vậy. Vả lại loài người ăn hại phá khuấy, chớ có ích chi cho lẽ tạo muôn loài, mà tính việc kể công bào chữa, nói cho ai nhờ?

Chơn lý chỉ thật đúng y như vậy, người có trí chúng ta há đi còn viện lẽ, và mãi đi làm gương tệ xấu, cho kẻ nhỏ nhít tối tăm nương theo, đặng hại họ, ghét vì họ lắm hay sao? Dầu chúng ta không nghĩ đến mình, thì cũng phải còn ngó lại cho mai hậu chúng sanh, ngỏ đặng đền ơn trong muôn một với chớ, mà xin đừng nói giễu buộc tội kẻ không sanh.

Phật Trời kia, há chẳng phải là đấng hy sinh quên mình để lo học lo tu, bỏ mình không làm cái máy sanh sản, để ngày sau nên đạo dạy lại cứu đời. Phật Trời ráng cứu độ, ta nỡ nào đi đốc xúi giết hại, hoặc làm gương hay còn dùn thẳng mà lắm nỗi khen chê. Nếu Trời Phật không phải ác, thì tội gì mà chúng ta chẳng chịu về y theo các Ngài, dầu chúng ta có thấy khác đi nữa, thì cũng nên tin rằng: Tại mình học chưa tới, kinh nghiệm chưa đầy, khổ tai chưa gặp, nên chưa hiểu ra lẽ phải đó.

Nếu vậy, chúng ta phải tập lần nam và nữ xa nhau, tập lần trừ đoạn dục tâm, bao giờ chắc mình trong sạch, mới sẽ làm quen và coi nhau là chúng sanh, chỉ có một tiếng chúng sanh thôi, chớ không có phân chia giai cấp, nữ nam đực cái dầu là đối với tất cả loại hạng nào. Nên hãy thâu hẹp các giáo lý minh mông cuồng quẩn, mà đi ngay thẳng đến một đường thiện tránh ác, lánh khổ tìm vui, để giữ gìn giới luật, đua chen giới luật, nâng cao đạo đức tinh thần. Có tôn kính bậc trọn lành, giới nhiều hơn giới ít, mới đem lại cho chúng ta sự kết quả yên vui được. Chỉ có giới luật mới phải là giai cấp thiện, là pháp trừ giặc dục, là pháp giải hòa diệt tránh, để đem cõi đời trở lại chánh chơn tịnh định.

Vấn: Tình thương phát khởi từ đâu? Và sẽ đến đâu?
Đáp: Nước bao giờ cũng trở về với nước nên gọi là lòng thương. Đất bao giờ cũng trở về với đất, nên gọi là lòng thương. Lửa gió cũng thế. Gồm cả tứ đại, tan rồi hiệp do lẽ không rời cũng gọi lòng thương. Lòng thương là lành, sống, an vui hòa hiệp, cũng kêu là đạo. Trong ấy cái lớn che chở cái nhỏ, cái nhỏ nương nhờ cái lớn, nên gọi lòng thương do đạo ân nghĩa mà ra. Cây lớn che chở cỏ nhỏ, cỏ nhỏ nương nhờ cây lớn, mà sanh ân nghĩa, lòng thương yêu quyến luyến thân thuộc.

Loài thú cũng có ân nghĩa lòng thương giống theo cây cỏ, nhưng bởi gần gũi đụng chạm cảm xúc tình dục mới sanh con. Loài người nếu khác hơn là: nên thi ân bất cầu báo, còn kẻ thọ ân thì nên làm ân lại kẻ khác nữa, chớ đừng trông mong trả ân lại cho người đó. Cho nên theo giáo lý của Phật thì cha không nên nuôi con, khi con đã mười tám tuổi. Và con không nên nuôi cha, khi cha đã được bốn mươi tám tuổi. Nghĩa là con lớn thì tự làm lấy mà ăn, hoặc tự đi tu mà nhờ lấy. Còn cha già bốn mươi tám tuổi thì đi tu giải thoát, để sống nhờ chung trong giáo hội tăng già, lâu năm sẽ có đệ tử đông giúp đỡ. Như vậy là cha không đòi nợ con, để cho con rảnh rang, tấn hóa kịp theo người, để tránh khỏi cái nạn cha chết thì con đã già xẩn bẩn vì nhau mà dốt tệ. Lại diệt bỏ sự quyến luyến, để tránh cho sự ông đầu thai làm cháu nội luân hồi.

Cũng như ta cho người này vay, thì người này lại cho người khác vay, chớ đừng đòi nợ, bắt trả, buộc lời, là tham ác. Đó là chơn lý tiến hóa của thời gian, chỉ có tới chớ không lui. Như vậy thì không bao giờ có sự khổ, ấy là bởi đi xuôi thuận. Ví như một giòng nước chảy xuôi, mà con kiến lội ngược thì khổ. Cái cây cắm một chỗ thì gãy chìm. Cọng cỏ, trôi xuôi thì yên vui, và sẽ ra đến biển cả, lớn lao, sống đời, nảy nở. Ấy là cọng cỏ tiến hóa vậy.

Cũng như cha nuôi con 18 năm, con nuôi lại cháu 18 năm, như vậy là nuôi con tức đền ơn cha mẹ, trả nuôi lại người khác thì mới đủ. Nhược bằng con nuôi lại cha thì nuôi trả, không được trọn, vì cha già chết sớm, mà còn lại khổ vô ích vì nhau. Chơn lý ấy để trừ tham, diệt khổ, dạy cho người hiền, tấn hóa để an vui, chớ với kẻ ác thì dùng không được. Còn đối với bậc trí huệ lớn lao thì tất cả chúng sanh là cha mẹ muôn đời, ta phải báo hiếu chung bằng sự dạy dỗ đạo lý. Như vậy là ta phải tu hành cho thành đạo đắc quả trước, rồi mới độ họ sau, chớ không đền trả bằng cơm áo sanh con. Vì chúng sanh là học trò, bổn phận phải lo ăn học, để thi đậu rồi, mới đứng ra chỉ giáo lại cho các kẻ ân nhân. Mục đích của sanh ra là học, và những kẻ nuôi cơm áo kia, là ý họ muốn cho ta học, muốn cho ta nên, muốn cho ta sau này dạy lại họ nẻo sáng, chớ nào phải cho vay, đòi trả nợ, lấy lời. Bởi hiểu ra như thế, nên sự lo tu là không phụ lòng mong mỏi của chúng sanh kia mà lại nên ta nên người, nên cho cả thảy. Cõi đời được vậy thì tiến hóa hạnh phúc tốt đẹp vô cùng.

Cũng như người mà che chở cứu giúp tai nạn cho kẻ yếu đuối nữ nhi, thì chớ nên vì công cán ấy mà ép buộc vợ chồng đền trả, để vì tham nhỏ mà khổ lụy muôn đời. Đừng vì tà tâm mà sanh nhục dục để hại nhau; nếu vì tánh xấu, thì chớ cứu người đặng giết người thà để cho họ chết thân mà sống tâm, được yên vui hơn và mình thì được còn sống. Chớ nếu lấy việc cứu mà kể ơn, và bắt buộc đền trả, phải chịu làm vợ con, thì ác xấu lắm, và chết khổ cả thảy như nhau vậy.

Bởi thế cho nên từ xưa Liễu Hạ Huệ thà không làm ơn, hơn làm ơn mà phải bị hại cả thảy vì tình. Còn Triệu Khuôn Dẫn không nhận sự đáp nghĩa bằng vợ chồng mà cho rằng ăn cướp của người ăn cướp, bất lương giựt của bất lương, thì ra kẻ gian ác như nhau; ta đã bị mang tiếng xấu, ta và người đều chết khổ, thì là hại chớ không có cứu chút nào. Phải vậy thì chúng ta chớ nên giả bộ thi ân, dục lợi, cầu tình, mà mang khổ. Ví bằng kẻ nữ nhi yếu đuối, có thọ ân cứu tử của ai, thì phải nghĩ cách sao, khi gặp kẻ khác có tai nạn, mà giúp đỡ lại họ, chớ đừng ích kỷ buộc tình sái quấy. Đàn bà lắm kẻ tham ganh, chỉ muốn cho một người đàn ông làm chồng, để ủng hộ mình trọn đời. Như vậy là tội lỗi lớn đối với cả chúng sanh, và tai hại chung. Còn đàn ông có người quá hẹp lượng, trọn đời chỉ lo nhớ tưởng, che chở cho một người đàn bà làm vợ, để chịu sái quấy khổ sở. Thật là xấu xa ích kỷ tội ác thay cho tình dục, uổng cho kiếp thân trai thong thả mà vô dụng, tiếc cho đời thân gái yếu đuối, mà đi lại làm yêu ma tinh quái hại đời. Nếu chẳng vậy thì ta là trai không tà vọng, phải đem thân này dạo khắp, mà phổ tế quần sanh, để cho được danh nêu bia sử. Còn gái chẳng lăng loàn, thì giữ phận tiết trinh, qui tùng theo tất cả kẻ đàn anh, trong mỗi khi có điều tai ách, chớ chẳng phải đợi riêng một người mà chịu chết, hay là mở cửa rước bọn gian dâm, mà để tiếng xấu ngàn năm, gái mà tùng đức trinh lương mới đáng gọi là khuôn mẫu trong thiên hạ. Vậy ta nên nhớ rằng: loài người chúng ta cao thượng, thì khi cứu là cứu cho tất cả, mới không còn khổ, còn nhờ là nhờ với tất cả, mới không còn nạn, mà nên dứt hẳn sự tà dâm.

Ấy vậy, tình thương là đạo ân nghĩa; là sự sống chung, trong sạch, cao thượng hơn hết; là từ bi bác ái đại đồng võ trụ; chơn lý của vạn vật muôn loài. Lòng thương sanh ra các pháp và chúng sanh. Lòng thương là đấùng tạo hóa, là vì cái này cái kia sanh ra cái nọ. Chúng ta nương lấy nó sẽ đến quả Phật Niết bàn, đến cõi ấy thì lòng thương mới tắt nghỉ. Lòng thương có cao có thấp, có sạch có dơ, có trúng có trật. Thương ngay thẳng là đến Niết bàn sống mãi, thương tà vạy là sa địa ngục diệt vong. Lòng thương của cỏ, của cây, của thú, của người, của Trời, của Phật khác nhau, có nhỏ có lớn, càng nhỏ càng khổ, càng lớn càng vui kêu là đạo. Lòng thương vốn sẵn có trong đời, hoặc đã có, hoặc đang có, hoặc chưa có, chớ chẳng có cái không thương. Cho nên kẻ ác gian đến đâu, cũng có ngày lòng thương nảy nở, mà thương yêu kẻ khác, và nó sẽ tiến từ thấp tới cao, từ khổ đến vui, thật là vô cùng linh diệu.

Vấn: Từ đâu có sự cưới gả của loài người?
Đáp: Nếu không dây cát đằng dẻo dai đeo quấn níu lại, thì cây tùng cao cứng phải bị gió gãy; bằng không cây tùng thì dây cát đằng phải bị sự chà xát vày bừa tan rã bởi thú hung. Ấy vì lẽ sống nương nhau, trao đổi dung hòa tâm ý, mà loài thú bắt chước cỏ cây, thú ác nhưng nhờ dâm dục mà trở nên hiền yếu. Miễn là được sống mà nhắm mắt thả lần vào trong cái khổ tối tăm. Do đó, người xưa có con trai mới lớn, sợ bước chơn vào rừng đời nguy hiểm ác độc, gió giông tăm tối, với tánh dốt nát cang cường mà phải gãy như cây tùng kia, hay chết như thú nọ, cho nên cha mẹ mua kiếm giống cát đằng, đem về trồng cho leo mọc là cưới vợ sanh con. Lại nữa, gái tơ như tằm non yếu, nhỏ nhoi, nhu nhược, dẻo mềm, tựa thể cát đằng; nếu không nơi leo mọc, tránh sao cho khỏi nạn tan xác rã hình với đời hung tợn! Nên trước khi chết, cha mẹ tìm nơi gởi gắm với tùng tơ. Thế nên xưa nay kẻ thương con gái thì phải cưới chồng, người tiếc con trai thì lo cưới vợ, tùy theo tánh cách. Miễn được sống thì thôi, không cần thấy xa hiểu rộng dốt nát tối tăm, lâu đời quen tục, tự mình tạo khổ, lại đổ cho đời, hoặc nói tại thân, cam đành ráng chịu, không phương trốn tránh, chẳng biết gốc khổ vì đâu.

Lắm kẻ nào biết gì nhân đạo giáo lý, tham danh mà gả cưới, vì lợi mà cưới gả, lắm trai bất tài nhu nhược, lắm gái trắc nết lăng loàn, vì khao khát dục tình muốn cho thỏa mãn, khi thỏa mãn rồi hoặc chưa toại ý, mà sanh lắm sự bôn dâm, cắm xỏ, ngoại tình; hoặc vì sắc đẹp, văn hay, lời êm tiếng dịu mà tư tình lén lút, trên bộc trong dâu. Càng quen càng bắt chước, lâu ngày thành sự tốt cho trẻ con, không cần cha mẹ, chẳng kể bà con, hỗn độn luôn tuồng trở lại như hồi lớp trước, để tìm chết, tìm khổ, tìm sự thất bại không thường, khóc điên, tự vận.

Có kẻ trai thì quì lụy gái vì sắc vì tiền.
Có kẻ gái phải quì lụy trai vì danh vì lợi.
Lắm trai thờ gái mà gọi nam nữ bình quyền.
Lắm gái hư thân quên phận lại xưng nữ nam đồng đẳng.


Vẫn hay rằng chúng sanh bằng như nhau về sự sống, nhưng nếu thời ly loạn, thì gái phải cầu trai, bằng không có nam thì nữ đều chết hết, chớ sao lại tôn trọng tự cao vóc mình bồ liễu!

Có người lại quá ngây si, đem mình so sánh, ví như thú dữ cọp beo chim chuột, cùng là xưng mình cây cối cỏ hoa, nỡ quên giá trị của loài người, mà gán tên cỏ cây thú ác, vào mình, đặng bắt chước hành vi theo chúng nó; mà nào có ai dám nhớ, nhắc đến Phật Trời hòng so sánh mình với Trời Phật để đi lên, bước tới. Than ôi! Đời vật chất đua tranh, tinh thần xao lãng, nào còn ai biết được chơn lý, lời dạy của thánh hiền, để đến nỗi phải chịu nạn chiến tranh thảm hại.

Buổi xưa, chồng vợ mà có là do sự bất đắc dĩ đó thôi. Khi nào do nhơn duyên tai nạn của một gái thơ, trai anh hùng ra tay giải cứu, cảm vì ơn cứu tử mới gá nghĩa đền ơn, do đó vợ chồng mới được trăm năm bền bỉ. Sự tự do hôn nhơn là khi nào có sự ơn nghĩa như vậy thì không cha mẹ nào được phép ép buộc dời đổi, để phải mang tiếng phi nghĩa bội ân, mà gọi rằng nam nữ bất thọ thân; vì sự cứu tử gặp nhau, ấy là nhơn duyên sẵn dành xui khiến. Hôn nhân do ân nghĩa, mà Phật, Thánh còn chê sái trật thay, huống chi là đời sau, gái trai đi rong trêu ghẹo!

Vả lại xưa kia một cuộc hôn nhân, là phải có đôi đàng ưng thuận, bậc lớn tuổi đôi mươi chứng kiến, do nhờ các bậc lão thành, xem coi trai có đủ tài che chở hai người, gái phải trinh lương tứ đức, biết giữ phận tam tùng, thì mới chắc được yên vui đầm ấm. Nhược bằng do ý riêng tà vạy của trai gái nhỏ dại, chẳng được học, kinh nghiệm, thấy xa kia, thì sau này khổ họa, và liên lụy, đến cả mẹ cha gia đình xã hội. Cho nên mặc dầu cưới gã cho con chẳng phải cho mình, mà thương con là cha mẹ phải lo giùm, trừ ra có ân nghĩa lớn lao cùng nhau thì cha mẹ mới là vui thuận, mà phải cho phép kết hôn.

Xưa cũng có lắm kẻ chí dốc lo tu học hoặc giúp đời, mà trọn đời không gần ái dục, cho rằng vì nó mà dốt nát, hư tâm, thất bại, nên có kẻ thà chịu chết với tâm hồn trong sạch theo chí hướng, mà chẳng tà dâm. Có người đã già mà chẳng biết đàn bà. Có nhà vua vì dân mà không chịu có con. Còn đối với Phật Thánh, khi gặp một xác chết thì vui mừng giùm cho mặt đất, nhổ bớt được một cây gai khổ, và hầu mong cho kẻ ấy sanh ra kiếp khác, nơi mặt đất xán lạn vui tươi, hơn là ở chốn hiểm nguy này. Trái lại khi gặp một tiệc hôn nhân, một đôi trai gái đi nắm tay nhau, là các ngài lo buồn mà than rằng: Cõi đời hạnh phúc đã điêu tàn, Ma vương trổ mặt, đạo đức sẽ bay xa. Thế mà đời nay người ta lại nói, kiếm vợ để giữ nhà, lấy chồng để sắm áo, sanh con để dưỡng già… những câu nói ấy thị loài người như con vật, thế mà ai nấy lại quen tai. Bởi vậy cho nên Phật Thánh dạy rằng: quỉ thì hay dâm, tinh thì hay rút tủy, yêu thì lại phá nhà, mà các loại ấy, chúng ta hằng nghe thấy nơi cửa miệng rủa chửi của người ta, trong khi bị nóng đốt khói lửa xì hơi, từ trong ra ngoài đó vậy.

Than ôi! Tình dục là sự oan trái, biết đâu từ xưa kia kẻ yếu hèn bị sự giết hại, họ mới sanh ra loại cái để trả thù loại đực, bằng cách cám dỗ hạ mình, vừa là để sống cho dễ dàng, bắt loại đực cung phụng, và phá tan công nghiệp, giết lần thân tâm mà trả hận. Dầu ta có nói rằng nam nữ sống chung, để trau sửa tâm nhau, để nhắc chừng cho nhau, nam sẽ được thiện, nữ sẽ được trí, thì còn kết quả là các đứa con kia, sanh để làm gì? Loài người ích lợi cho ai? Khi lớn nó sẽ ra sao? Nếu là không biết mục đích trả lời, thì cái tôi tớ khổ nhọc không công ấy, há chẳng phải là quả báo hành phạt của tội tà dâm kia sao, mà đi chối cãi? Lắm kẻ chữa mình bằng cách, sợ mất giống người trên mặt đất, là lời nói túng.

Đành rằng: có thấp mới có cao, kẻ dưới mãi đi lên, người trên thì đi lên nữa, trong đời không bao giờ mất hết một chủng loại nào. Nhưng nếu trước kia, trên mặt đất này cỏ nhiều, cây thú ít; kế đến cây nhiều, cỏ thú ít; kế đến thú nhiều, cỏ cây ít; kế đến người nhiều, cỏ cây thú trời Phật ít. Mà nay lại được Trời nhiều, người thú cỏ cây ít hay là Phật nhiều mà Trời người thú cỏ cây lại ít hơn, thì chúng ta phải biết rằng: Cõi đời mặt đất này mà Trời nhiều, hay là Phật nhiều đang ở, thì hạnh phúc an lạc biết dường nào. Ai mà lại chẳng cầu mong cho được trở nên xứ Phật. Chớ như cõi khám ngục bao vòng, thì sung sướng gì mà ham, và Phật Thánh nào ở đó cho được, mà ở đó dạy có ai nghe?

Thế nên xưa nay bậc Trời Phật, thấy ai giải thoát được xích xiềng là mừng giùm cho người ấy, mà ngoảnh lại thương xót kẻ còn đang bị trăn cùm trói buộc, mà phải đành rơi giọt lụy, vì nếu nói mãi không nghe, thì đi chỗ khác chớ ở đó làm chi, thế mà trong đời có lắm người đợi khi có việc mới kêu cầu réo, sao cho bằng tốt hơn là trước phải răn mình lánh họa chẳng là hay hơn hết.
NAM VÀ NỮ
Tác giả: Đức Tổ Sư Minh Đăng Quang
NT TUYẾT LIÊN chuyển thơ 2021
---o0o---

1.Quán về sự sống loài người
Thì ta thấy tiếng nhân người danh xưng
Chỉ cho hành vi sắc thân,
Có lòng nhơn ái, có tâm thương đời,
Việc làm thể hiện tình người,
Nhân làm tâm điểm sống đời thiện lương.
2,Loài người có do trước tiên
Từ nơi thú tiến hóa lên làm người
Sinh tại Hy Mã Lạp Sơn
Giống vượn, khỉ có tình thương bầy đàn
Số đông lên tới trăm ngàn
Cất nhà xây tổ cho đàn trên cây.
3,Chơn lý chỉ nguyên nhân nầy
Địa cầu mới nổi cỏ cây hình thành
Muôn loài có do ấm sanh
Bởi nơi sự khổ vận hành làm duyên
Từ ít nhỏ tới nhiều hơn
Thời gian đưa tới, lớn khôn lên dần.
Loài thú từ đất sanh thân
Hoặc từ trong nước hóa sanh thành hình.
Do tư tưởng biến đổi hình,
Con này có thể biến thành con kia.
Sanh thai, đẻ trứng ô kìa
Đủ hình, ngũ sắc không lìa ấm sanh.
Loài thú phần đông đua tranh,
Sát hại sanh mạng, giựt giành với nhau.
Dâm dục, chơi bời ngông nghêu,
Say sưa bất kể sống liều hại thân.
Thú có tư tưởng, thọ tình,
Từ trong đen ác, tiến lần thiện thanh.
Đến người có được tính lành,
Chứ khi còn thú hung hăng oai hùng,
Ỷ mạnh hiếp yếu dữ hung,
Ăn nhau để sống, dẫu cùng loại nhau
Khi già bệnh yếu thế lần,
Nên bị trẻ nhỏ đón rình hăm he.
Sợ chết lìa rừng, kết bè,
Lên non núi sống trái hoa đở lòng,
Trở nên ốm yếu nhỏ hình,
Nhờ sợ chết, biết theo lành, thương nhau.
Sống nhiều năm tuổi trí cao,
Thương yêu, tha thứ, giúp nhau làm lành.
Từ bốn cẳng, đến hai chân,
Biết trèo hái trái, nhưng dần thiếu ăn,
Xuống đồng bằng, tập gieo trồng,
Vì mưa nắng, tập che lùm ổ hang,
Vì nóng lạnh, đóng khố choàng,
Khi đau ốm bởi miệng ăn, thì tìm,
Nếm cây cỏ, chế thuốc thang,
Dần dần tiến bộ sửa sang cửa nhà.
Vì sự sống nên người ta,
Mở mang chế biến, thật là khéo hay.
Càng tiến bộ, càng đổi thay,
Thân thể xinh đẹp, trí tài thông minh.
Hay hơn tiến hóa tâm linh,
Hướng về lẽ sống gia đình thiện thanh.
Buộc nhau bằng nghĩa, bằng tình,
Cang thường luân lý, học hành đua chen,
Phát triển vật chất, thế quyền,
Mong cầu vui sướng, nên thiên lối tà.
Sống chết vun đắp cái ta,
Muốn cho mình được thành ra ngang liều,
Phá rối sự sống số nhiều,
Lập ra pháp luật để điều hành chung.
Xưa kia thú ở nơi rừng,
Móng, răng giết hại chỉ từng mạng thôi.
Có gia đình xã hội rồi,
Hay sanh giặc giã theo hồi số đông.
Triệu ức mạng người diệt vong,
Lạm dụng cơ khí để mong lợi nhiều,
Cướp trộm đánh phá đủ điều,
Ác hung trở lại lớn nhiều hơn xưa.
Hồi tưởng lại thuở ban sơ,
Ít người nên họ thương nhau thật lòng,
Rủ nhau ở chung số đông,
Hòa chung sức lực đề phòng thiên tai,
Chia sẻ kinh nghiệm trí tài,
Vui tươi hòa hiệp, đời này có ra,
Cõi sống hạnh phúc chan hòa.
Nhưng khi đông đúc lại là hơn thua,
Sanh lắm tai nạn khó ngừa,
Chia rẻ chém giết hơn xưa rất nhiều.
Càng đông, càng khổ, càng liều,
Đến khi quá khổ có nhiều ý hay,
Nghĩ ra điều thiện, đường ngay,
Người mà như thế chính ngai Phật Trời.
Buổi đầu chưa có loài người,
Thú ăn thịt, uống máu tươi đồng loài,
Hồng hoang thượng cổ xưa nay,
Kế đó sanh nảy ra người toại nhân.
Lập ra cõi sống chân thành,
Sau đông đúc mới tranh giành thua hơn.
Kẻ thích lợi, người tham danh,
Người lại tìm đến tinh thần cõi cao.
Lành sáng văn minh biết bao,
Cõi trời thiện đạo dạt dào vui tươi.
Sau rốt có Phật ra đời.
Tiến đến giai đoạn cõi đời diệt tiêu.
Vũ trụ thay đổi theo chiều,
Sanh, trụ, hoại, diệt, tàn, tiêu đúng thời.
Không gian, thời gian chuyển dời,
Vô thường, khổ não đồng thời không ta.

ĐẶC ĐIỂM NHÂN SANH LÀ NAM VÀ NỮ

Loài người có nữ có nam,
Nơi thú đực cái là mầm tái sanh,
Cây có âm dương thọ tình,
Các pháp tương đối chuyển mình đổi thay.
Tình thọ theo duyên có hai,
Ưa vầy, muốn khác đổi thay hình thành.
Căn thân, thức chủ tái sanh,
Lấy trần vật chất tạo thành căn thân.
Thân cây cỏ có các phần,
Miệng dưới là rễ, đuôi trên là tàng,
Rễ hút đất nước chuyển sang,
Để nuôi tàng nhánh đã, đang hột thành,
Tinh ba trái hột cây sanh,
Tiến đến thú, đuôi đầu thành ngang nhau.
Đến người thay đổi hay sao,
Đầu trên chân dưới nhìn vào lịch xinh.
Bởi khổ tập theo duyên tình,
Thay trên đổi dưới cho mình tiến lên.
Trong bầu vũ trụ vô biên,
Có cái chung sống không riêng loài nào,
Gọi tên chúng sanh như nhau,
Cũng cùng một thể kết giao thâm tình,
Kẻ như đầu, kẻ như mình,
Như tai, như mũi, nhiều phần kết chung,
Thành một thể sống đại đồng,
Không riêng tư, chẳng rẽ phân ta người.
Nữ nam có mặt trên đời,
Do nơi mê muội khổ đời phải vương,
Sự khổ ấy là lòng thương,
Sự cứu khổ cũng lòng thương đại đồng.
Cái thương trúng phải mênh mông,
Cái thương sái trật vướng vòng khổ nguy.
Có đạo cứu khổ kịp thì,
Ra đời chỉ lối an nguy tỏ tường.
Cây có đực cái âm dương,
Không giao dâm, rất bình thường như nhau.
Đến thú tình dục dạt dào,
Khó dằn giao cấu thuận nhau thú tình.
Tiến đến lớp người nhân sinh,
Ham lạc thú, tự giết mình hại thân.
Trời thì chán sợ xa dâm,
Phật thì tự tại giữa dòng nhân gian.
Từ không đến có là đàng,
Có mà phải khổ bỏ ngang nhẹ lòng,
Vất bỏ để được thong dong,
Gọi đạo giác ngộ thoát dòng tử sanh.
Đạo quý ở chỗ thực hành,
Thực hành hiệu quả được thành tựu nên,
Kêu là đạo quả vững bền,
Ở nơi khoảng giữa hai bên bờ lề.
Đường trung đạo không chấp nê,
Âm dương, nam nữ, bên lề không theo.
Thương có hai cách khác nhau,
Thương để cứu khổ, giúp nhau thoát nàn,
Tạo cho nhau sự bình an,
Cái thương chắc thật vững vàng bền lâu,
Tốt đẹp quý báu biết bao.
Đừng thương để giết hại nhau vì tình,
Thương phải có, dục vọng đừng,
Từ bi, bác ái, đại đồng chánh chơn.
Con thú ác còn biết thương,
Vợ con của nó bảo tồn cho nhau.
Sát nhân hung bạo thế nào,
Nhưng không giết được tâm giao của mình.
Nhà tan, nước mất hãi kinh,
Nhưng nhờ sắc đẹp mà chinh phục người.
Mượn cái thương để dạy người,
Nhân đạo cho kẻ chưa rành chữ thương.
Tập cho người ác biết đường,
Thương một người, đến biết thương nhiều người.
Đánh liều may rủi đầy vơi,
Có lòng thương tạm để rồi khổ đau,
Thương ấy giống tựa lưỡi dao,
Những người gần gủi thế nào cũng nguy,
Cái thương dục vọng nhất thì,
Sa địa ngục, sự nghiệp thì tiêu tan.
Cái thương dốt nát, thương càn,
Của người hạ trí bình an tạm thời.
Cái thương ấy đối với đời,
Cho người tham sống qua hồi khổ đau.
Kìa loài thú khi giết nhau,
Nào ai can gián vẫn mau hòa bình.
Đối với đạo thì dục tình,
Là lửa địa ngục, hại mình mất tâm,
Thương thấp kém, thương lạc lầm,
Cái thương mới tập, chưa lành, chưa hay,
Thương như thú, tạm sống này,
Rồi sao mới đến như người hiền nhân.
Phật thương chúng sanh trọn phần,
Cái thương dứt khổ, thêm phần an vui.
Thương một người đến nhiều người,
Thương công bình, khắp muôn người sống chung,
Chánh đẳng chánh giác đại đồng,
Thương để cứu khổ, thương không vạy tà.
Như dây huyết quản thân ta,
Sợi dây kết chặt cái ta tâm đồng,
Đồng tâm chống chỏi bảo giông,
Đồng tâm tương trợ với lòng từ bi,
Giúp người vượt khỏi hiễm nguy,
Có được cái sống, cũng vì được thương.
Nhưng thương phải biết cách thương,
Có học, kinh nghiệm, không thương vạy tà.
Thương bướng, thương càn, xấu xa,
Thương thiếu kinh nghiệm lại là khổ đau.
Trong đời ai cũng thương nhau,
Gọi bình đẳng tánh, pháp cao Di Đà,
Thương trúng cách, thương hiệp hòa,
Làm một thể sống có ta, có người,
Thân thể lành lẽ vui tươi,
Không khuyết điểm, được mười mươi vẹn toàn.
Người mà không có lòng thương,
Tệ hơn con thú cùng phường cỏ cây.
Hiền triết xưa dạy thế này,
Nam và nữ chính là hai tử thù,
Gặp nhau tìm đủ kế mưu,
Cám dỗ, dẫn dụ, giết nhau thỏa lòng,
Thề sa địa ngục diệt vong,
Hại nhau chết hết vừa lòng đối phương.
Thế mà giả bộ nói thương,
Mười vụ kiện, có chín thường hôn nhân,
Mười điên hết tám vì tình,
Mười người tự vận ái ân bảy người,
Mười sa địa ngục chơi vơi,
Có đến sáu trên đời vì sự dâm.
Cho nên thánh nhân dạy rằng:
“Vạn ác dâm vi thủ” hằng biết ra.
Vậy nên ta phải nhớ là,
Thất bại cuộc sống bởi đa ái tình,
Ái tình là giặc trong mình,
Giết chết tâm thức tự mình phát ra,
Đời đời kiếp kiếp oan gia,
Gặp nhau quyết hại, không tha một người,
Một khi bắt nhốt được rồi,
Thần tiên không thể cứu người bị vây.
Ma vương tài phép giỏi hay,
Dùng ái dục để buộc ai mê mờ.
Thần tiên đọa, do hửng hờ,
Cội bồ đề ngã mịt mờ vô minh.
Chư Phật xưa còn hãi kinh,
Đặt điều cấm giới dâm tình đầu tiên.
Than ôi ! Ái dục đảo điên,
Thú người thảy chịu oan khiên đọa đày.
Không trí huệ, khó tránh thay,
Địa ngục ân ái kéo dài khổ đau,
Giết giống nòi, hại biết bao,
Đều do ái dục chuyển mầu đau thương.
Bỏ người làm thú cùn đường,
Thần thánh suy sụp không phương tu hành.
Ái dục, địa ngục sẳn dành,
Sa chân vào đó phải đành mất tâm.
Nô lệ, lòn cúi, lạc lầm,
Con ma khổ não đang cầm quyền năng,
Là Thần trị phạt nữ nam,
Nó ở chính giữa đang làm đảo điên,
Phép của nó mạnh vô biên,
Thật là ác độc kinh thiên trên đời.
Tư kỷ xấu nhất trong đời,
Tư kỷ ái dục là nơi độc hành,
Ái dục mới là chính danh,
Nhơ nhớp, ẩn khuất, hôi tanh, nặng nề.
Thấp thỏi, bẩn thỉu ê chề,
Danh từ không thể liệt kê đủ đầy.
Người thú liên quan tỉnh say,
Lỗi phận sự với cha thầy, tổ tiên.
Ngổ nghịch vô đạo không hiền,
Giết chúng sanh, tạo oan khiên nhọc nhằn.
Khi cười, khi khóc lăng xăng,
Vui chơi chốc lát, trói trăn ngàn đời.
Chịu ơn đất đai Phật, Trời,
Không lo trả nghĩa, lụy nơi ái tình,
Vẩn vơ mình tự buộc mình,
Cho là hạnh phúc, gạt mình tương lai,
Sanh tham sân si nối dài,
Những người có trí thấy ngay hiện tình.
Vui ái dục, vui phù sinh,
Cột đồng bào lạc, lửa nung thiêu người,
Đâu được nhàn lạc vui tươi,
Như thiên đường thiện hay nơi niết bàn.
Dục tình tư ý vọng tham,
Thú tánh tập nhiễm, ai làm bảo ai.
Thần tiên nào có khiến sai,
Cha mẹ đâu ép, đâu nài chúng ta.
Người có trí hơn vật mà,
Bước lên trời Phật đó là thắng duyên.
Bỏ thấp lên cao tự nhiên,
Để cho trẻ nhỏ có đường tiến lên,
Giữ mãi một lớp không bền,
Đừng nên cố chấp nói trên không đường.
Lại có kẻ theo lập trường,
Nuôi gà đẻ trứng, nuôi con để nhờ.
Lắm kẻ nhu nhược ngây khờ,
Bị lầm kế độc phỉnh phờ khiến sai.
Kẻ lo giữ đất sắp bày,
Người lo tạo tử nối thay cho mình.
Làm giặc giết nhau, liều mình,
Sao không chịu học để mình được khôn.
Than ôi ! cõi đời loạn cuồng,
Chúng sanh khổ nạn do nguồn gốc tham.
Ai người đốc xúi sanh con,
Ai người bày biểu con đường vô luân,
Bắt người làm vật đày thân,
Đánh đập chém giết, sao đành người ơi.
Thượng đế trọng mạng sống người,
Chớ không giết hại bảo người buôn dâm.
Thượng đế kia còn sợ dâm,
Nhờ bỏ dâm mới được làm người trên,
Loài người dể duôi sao nên,
Đổ cho Trời đất, người trên định rồi,
Sanh vầy, bảo vậy thế thôi,
Biện luận bào chữa để rồi kể công.
Làm gương tệ hại tối tăm,
Không lo tu học nên danh cứu đời.
Thương đời Phật dạy hết lời,
Phật ráng cứu độ, sao người làm ngơ.
Phật trời sao không tôn thờ,
Học theo gương thiện để nhờ tấm thân.
Dẫu thấy lạ nên tin rằng,
Mình học chưa tới, khả năng chưa nhiều,
Kinh nghiệm chưa có bao nhiêu,
Khổ tai chưa gặp, lắm điều tối tăm.
Nếu vậy chúng ta tập lần,
Nam và nữ đừng sống gần với nhau,
Đoạn trừ dục ái trần lao.
Bao giờ trong sạch, xá chào làm quen.
Coi nhau chúng sanh một tên,
Không phân nam nữ trên nền luật răn.
Thâu hẹp giáo lý mênh mông,
Đi ngay nẻo thẳng cùng đồng tiến thân,
Nâng cao đạo đức tinh thần,
Tôn kính các bậc trọn lành nêu gương.
Giới nhiều hơn giới ít hơn,
Pháp trừ dục vọng mở đường chánh chơn,
Cho cõi đời tốt đẹp hơn,
Giai cấp, giới luật, thiện nhơn, quả lành.
Vấn :
Tình thương khởi từ đâu sanh,
Rồi đến rốt cuộc hành trình về đâu?
Đáp:
Nước đầu nguồn, nước giếng sâu,
Nước không thay đổi một mầu trinh nguyên.
Đất, lửa, gió cũng tùy duyên,
Trở về nguồn cội tinh tuyền ban sơ,
Dù có tan hiệp bất ngờ,
Lòng thương kết, không bao giờ rã tan.
Lòng thương lành, sống bình an,
Kêu là đạo đức, buộc ràng nghĩa ân.
Nhỏ nương lớn, lớn phải cần,
Chở che cái nhỏ được phần an vui.
Thú có ân nghĩa như người,
Do nơi cảm xúc để rồi sanh con.
Làm người trên trước khác hơn,
“Thi ân bất (cầu) báo”, thọ ơn truyền trì.
Đừng mong trả ân làm chi,
Hãy đem ân phước chuyển di nhiều người,
Theo lời Phật dạy thảnh thơi,
Nuôi con mười tám năm thời là xong.
Cha già cũng chớ cầu mong,
Bốn mươi tám tuổi khởi lòng xuất gia.
Sống trong Giáo hội Tăng già,
Lâu năm sẽ có đàn na hộ trì.
Đừng mong đòi nợ con chi,
Để con thong thả kịp khi giúp đời.
Tránh nạn xẩn bẩn chiều mơi,
Con già, cha chết một đời dốt thay.
Dứt bỏ sự quyến luyến hoài,
Tránh cảnh cha chết đầu thai cháu rồi.
Ta cho người này vay rồi,
Người này giúp kẻ khác hồi khó khăn.
Chớ đừng vay trả lăng xăng,
Tính lời, bắt trả là căn luân hồi.
Chơn lý tiến hóa theo thời,
Nước chảy xuôi, chẳng chảy dòng nghịch lưu.
Con kiến lội ngược khổ ưu,
Cây cắm một chổ gảy tiêu cây rồi,
Cọng cỏ trôi xuôi yên vui,
Ra đến biển cả sống đời lớn lao.
Cha nuôi con 18 năm sau,
Con nuôi lại cháu dạt dào nghĩa ân.
Nhược bằng con nuôi song thân,
Làm sao trả hết công ân của người.
Cha già chết sớm. Than ôi !
Làm sao trả nghĩa cho người đủ đây.
Lại thêm vô ít loay hoay,
Làm sao trả được công tày biển non.
Chúng sanh là cha mẹ chung,
Báo ân bằng sự tu hành độ tha.
Với người ác chưa được mà,
Tu hành mới báo ơn là trọn xong.
Không bằng cơm áo no lòng,
Mà bằng pháp bảo mới mong trọn tình.
Lênh đênh bao kiếp phù sinh,
May gặp pháp bảo tâm minh trí mầu.
Người muốn cho ta nên mau.
Dạy họ nẻo sáng chớ nào trả vay.
Hiểu được như vậy quý thay,
Ta người đều được, không ai phụ lòng.
Con đường tu tập mực trung,
Tấn hóa tốt đẹp vô cùng an vui.
Cũng như có biết bao người,
Cứu người buộc trả kiếp đời phu thê.
Vì tham mà khổ ê chề,
Vì lòng tham dục, khổ kề bên ân.
Thà để họ chết mất thân,
Còn hơn là cứu để dần chết tâm.
Cứu kể ơn, buộc trả ơn,
Thì ác xấu lắm, chẳng nhơn chút nào.
Không chết trước cũng chết sau,
Cả hai cái chết như nhau khác gì.
Tích xưa nước Lỗ còn ghi,
Không bắt chước Huệ [1], làm chi lụy mình.
Mình chưa giữ được tâm minh,
Thà không cứu giúp, hơn mình hại nhau.
Còn Triệu Khuôn Dẫn chí cao,
Giữ gìn tiết tháo, không nao vì tình,
Cho rằng cướp của cướp sinh,
Bất lương giật của [2], thì mình bất lương.
Bị mang tiếng xấu thế thường,
Ta người đều khổ chứ thương cách gì,
Đều là hại chứ cứu chi,
Nên ta phải nhớ chớ đi buộc tình,
Ân cứu tử, có giữ gìn,
Người khác gặp nạn thình lình giúp nhau.
Đó là cách sống thanh cao,
Đừng đem tình dục buộc nhau trọn đời.
Làm vậy lỗi lớn với đời,
Đàn ông có kẻ trọn đời chỉ lo,
Một người nữ nhân khuôn phò
Để chịu sái quấy khổ lo riêng mình.
Tội ác thay cho dục tình,
Thân trai thong thả mà thành xấu xa,
Gái yếu đuối, làm yêu ma,
Khiến trai vô dụng thật là uổng thay.
Nếu chẳng vậy ta là trai,
Không tà vọng, đem thân này làm gương,
Phổ tế quần sanh mười phương,
Danh nêu bia sử quê hương trọn tình,
Gái thì giữ phận tiết trinh,
Quy tùng tất cả khi mình lâm nguy,
Chớ đợi riêng một người thì,
Trăm năm tiếng xấu, cũng vì tình thương.
Gái mà tùng đức trinh lương,
Khuôn mẫu thiên hạ, người thường khâm khen.
Làm người cao thượng bậc trên,
Thì khi cứu khổ không riêng người nào.
Nhờ với tất cả anh hào,
Không nên cố chấp, buộc vào một ai.
Chơn lý tình thương muôn loài
Cao thượng trong sạch, đẹp thay đại đồng.
Lòng thương là sự sống chung,
Là đấng tạo hóa mực trung yên bình.
Cái này có, cái kia sanh,
Chúng ta nương đó sẽ thành Phật tiên.
Lòng thương ngay thẳng diệu huyền,
Thương tà vạy, địa ngục miền diệt vong.
Thương của Trời Phật đại đồng,
Thương như người thú, trong vòng trầm luân.
Càng nhỏ, càng khổ gian truân,
Càng lớn càng hạnh phúc yên tinh thần.
Lòng thương có sẳn trong trần,
Đã có, đang có, có dần đẹp thay.
Kẻ ác gian cũng có ngày,
Lòng thương nảy nở đến vài người thân,
Và rồi sẽ tiến lần lần,
Từ thấp đến chỗ cao dần được vui,
Linh diệu vô cùng ai ơi.
Tình thương lớn sẽ đến nơi yên bình.
Vấn :
Từ đâu có sự cưới gả của loài người ?
Đáp:
Cũng vì để sống nương nhau,
Yếu mạnh nâng đở, tùng cao cát đằng,
Dung hòa tâm ý tinh thần,
Thú ác nhờ có dâm mà hiền hơn,
Miễn được sống, dù chưa khôn,
Nhắm mắt tìm lối dù còn tối tăm.
Do đó người xưa sợ rằng,
Con trai mới lớn tánh hung hăng liều,
Tìm giống cát đằng cho leo,
Trao cho bổn phận để điều phục tâm.
Gái tơ yếu non như tằm,
Tìm nơi nương tựa để nhằm tồn sanh.
Trai cưới vợ, gái sanh con,
Nương nhau để sống qua cơn khổ nàn.
Mẹ cha mới được tâm an,
Tìm nơi gởi gắm nữ nam có phần.
Miễn được sống, chứ không cần
Thấy xa hiểu rộng tối tăm lâu đời.
Nếp quen tự chịu khổ thôi
Nào biết gốc khổ tự nơi tâm mình.
Trong đời lắm kẻ tham danh
Vì lợi cưới gả mà đành khổ con,
Trai bất tài, gái lăng loàn
Thỏa mãn tình dục mà còn bôn dâm,
Lụy vì sắc, cảm vì tình
Lời êm, tiếng dịu, tư tình văn hay.
Quen bắt chước thành lâu ngày
Thói hư con trẻ chẳng nài mẹ cha.
Luông tuồng, hổn độn, xấu xa
Như hồi thuở trước để mà khổ điên.
Trai quỳ lụy gái vì tiền,
Vì danh, vì lợi, gái hiền lụy trai.
Trai thờ gái, lấy chiêu bài,
Bình quyền nam nữ thật tai hại mà.
Gái quên thân phận tùng gia,
Nữ nam đồng đẳng để mà tự do.
Trong cuộc sống chẳng so đo,
Nếu thời ly loạn sao lo được mình.
Trai thời Bắc chiến, Nam chinh,
Cớ sao tôn trọng vóc hình nữ nhi.
Có người lại quá ngây si,
Nỡ quên giá trị thức tri loài người.
Gán cho là tên của tôi,
Cọp beo chim chuột đồng thời cỏ cây.
Bắt chước tánh thú thấp thay,
Đem mình so sánh với loài thú hung.
Hành vi bắt chước theo cùng,
Cỏ cây thú dữ quên mình là ai.
Sao không so sánh Phật trời,
Để mà tập tánh như người hiền nhân.

Than ôi !
Đời vật chất mãi đua tranh,
Tinh thần xao lảng, sao thành lạc bang.
Còn ai ghi nhớ lời vàng,
Ai hiểu chơn lý con đàng sống chung.
Khi xưa cưới vợ, gả chồng,
Sự bất đắc dĩ, anh hùng (cứu) mỹ nhân.
Cảm kích gá nghĩa đền ơn,
Đạo nghĩa chồng vợ, keo sơn vững bền.
Rằng nam nữ bất thọ thân,
Gặp nhau cứu tử, ấy phần nhân duyên.
Phật thánh còn chê không hiền,
Ngày nay nam nữ tự tìm quấy thay.
Xưa kia hôn nhân sắp bày,
Đôi đàng ưng thuận xem rày kỹ cương.
Trai tài, gái đức trinh lương,
Biết giữ đạo phận, biết đường lễ nghi.
Mới chắc giữ được gia quy,
Sống có đạo đức truyền trì gia phong.
Nhược bằng tuổi trẻ bốc đồng,
Sau liên lụy đến cả trong gia đình.
Thương con cha mẹ hết tình,
Lo con vui được, thì mình mới an.
Xưa có kẻ sợ buộc ràng,
Cho rằng ái dục là đàng khổ nguy.
Phát tâm học đạo vô vi,
Giữ tâm trong sạch lo đi giúp đời,
Lập chí hướng theo Phật trời,
Vua vì dân không tử, đời mến danh.
Bậc Phật thánh lúc vi hành,
Gặp một xác chết vui mừng lắm thay.
Mặt đất nhổ được cây gai,
Cầu người chết được sanh ngay thiên đường.
Sanh kiếp khác yên vui hơn,
Trái lại gặp tiệc hôn nhơn thì buồn.
Than rằng cõi đời điêu tàn,
Ma vương trổ mặt, đạo càng xa bay.
Thế mà người ta đời nay,
Lại nói kiếm vợ, để hay giữ nhà.
Sanh con thì để dưỡng già,
Lấy chồng sắm áo ... lại là quen tai.
Việc làm, cách sống ngày ngày,
Ví người như vật chớ hay ho gì.
Phật Thánh dạy, nên khắc ghi,
Quỷ hay dâm dục, tinh thì hại ta.
Yêu thì lại hay phá nhà,
Các tiếng ấy, miệng người ta chửi hoài.
Khi bị sân hận đoạ đày,
Xì hơi khói lửa ra ngoài khổ đau.
Than ôi ! Oan trái thuở nào,
Sanh ra loại cái, hại nhau khổ nàn.
Lợi dụng sống cho dễ dàng,
Cám dỗ loại đực phá tan nghiệp nhà.
Bắt cung phụng chẳng buông tha,
Giết lần tâm thức, khó mà rộng dung.
Nói rằng nam nữ sống chung,
Nhắc nhau trau sửa, để cùng tiến thân.
Nam được thiện, nữ được khôn,
Thì hỏi kết quả tử tôn làm gì ?
Loài người có ích lợi chi,
Con cháu khi lớn, nó thì ra sao ?
Không biết mục đich thế nào ?
Bao sự tính toán khổ lao nhọc nhằn.
Khi thành, khi bại lăng xăng,
Há chẳng phải quả báo hành phạt răn,
Của tội tà dâm nhố nhăng,
Mà đi chối cải, cho rằng mình hay.
Lắm kẻ bào chửa thế này,
Không sanh mất giống, lời này nói ngang.
Đành rằng trên cõi trần gian,
Có cao thấp, có dưới trên ra vào.
Không mất một chủng loại nào,
Nếu trước kia, thuở ban đầu sơ khai,
Cỏ cây, thú, người tiến hoài,
Khi nhiều, khi ít, tùy loài, tùy duyên.
Tiến hóa là pháp nhân duyên,
Đổi thay sau trước, dữ hiền chuyển xoay.
Thế giới trong giai đoạn này,
Cõi đời mặt đất mà may mắn nhiều.
Phật Trời cảnh giới phong nhiêu,
Hạnh phúc an lạc, là điều ước mong.
Đời như khám ngục bao vòng,
Vật chất bao phủ khó mong thanh nhàn.
Sung sướng chi đâu mà ham,
Phật muốn cứu độ mà làm sao đây.
Bậc Phật trời mà thấy ai,
Giải thoát xiềng xích, các ngoài hỷ hoan.
Nhìn lại thương kẻ còn đang,
Bị trăn, bị trói mà hàng lụy rơi.
Thế mà có kẻ trong đời,
Đến khi khổ nạn có lời vái van:
Cầu Phật độ cho bình an,
Khi chưa gặp nạn, hãy toan lo mình,
Gieo trồng phước huệ tiền sinh,
Mai sao có nạn thì mình thảnh thơi.
Tóm lại.
Luận nói hay dở trong đời,
Nữ nam đề cập kiếp đời nhân sinh.
Hai yếu tố chính hình thành,
Thế giới, xã hội bức tranh cuộc đời.
Lợi và hại hai mặt thôi,
Nếu nhìn tổng quát trường đời ngán thay.
Tổ không có ý chê bai,
Xem thường rẽ, chỉ mượn bài học chung.
Cho ta thấy biết tận cùng,
Nguyên nhân cái khổ trầm luân kiếp người.
Lòng vị kỷ chính là nơi,
Biến lòng thương, khiến đầy vơi cõi trần.
Người mê đắm chịu luân trầm,
Trời thì chán sợ xa dâm khỏe rồi.
Phật thì tự nhiên thảnh thơi,
Cho ta hiểu rõ cuộc đời phù sinh.
Xóa phần tiêu cực trong mình,
Xem nhẹ tự ngã, trọn tình vị tha.
Nhân tố chính để chúng ta,
Xây dựng cõi Phật hay là cõi thiên.
Biết phát triển mặt lợi riêng,
Tích cực phụng sự lợi quyền nhân sinh.
Cho cuộc đời được yên bình,
Cho lòng thương trải trên tình nữ nam./.



[1] Điển tích Liểu Hạ Huệ sống ở Lỗ quốc vào thời Xuân Thu (770-476 trước Công nguyên). Ông nổi tiếng là người có khả năng chống lại cám dỗ về sắc dục.
Một phụ nữ vô gia cư đã tìm nơi trú ẩn trong một đêm đông lạnh. Liễu Hạ Huệ lo ngại rằng cô ấy có thể chết vì lạnh, nên ông đã để cô ngồi trên đùi, quấn áo mình quanh người của cô và áp chặt cơ thể của cô vào mình. Họ đã ngồi như vậy suốt đêm và ông đã không làm bất kỳ điều gì không đứng đắn.
Đây là một câu chuyện khác cũng xảy ra tại Lỗ quốc: Có một người nam sống một mình, bên cạnh nhà là một góa phụ cũng sống một mình. Khi nhà người góa phụ bị sập trong một đêm bão tố, cô đã gõ cửa nhà người nam để xin trú ẩn. Anh đã không cho cô vào. Người phụ nữ nói: “Sao anh không thể giống Liễu Hạ Huệ, ông ấy đã dùng thân mình sưởi ấm cho một phụ nữ bị lạnh? Không ai nghĩ rằng ông ấy đã làm sai cả.” Anh ấy đáp: “Liễu Hạ Huệ có thể mở cửa, nhưng tôi không thể. Tôi đang học theo Liễu Hạ Huệ bằng cách không mở cửa.”

[2] Ăn cướp của người ăn cướp, bất lương giật của bất lương.
DANH MỤC - CHƠN LÝ KHẤT SĨ

DANH MỤC - CHƠN LÝ KHẤT SĨ

1. Vũ Trụ Quan 31. Hạt Giống
2. Ngũ Uẩn 32. Sợ Tội Lỗi
3. Lục Căn 33. Trường Đạo Lý
4. Thập Nhị Nhân Duyên 34. Nguồn Đạo Lý
5. Bát Chánh Đạo 35. Con Sư Tử
6. Có Và Không 36. Đi Học
7. Sanh Và Tử 37. Đời Đạo Đức
8. Nam Và Nữ 38. Đại Thừa Giáo
9. Chánh Đẳng Chánh Giác 39. Xứ Thiên Đường
10. Công Lý Vũ Trụ 40. Vị Hung Thân
11.Khất Sĩ 41. Phật Tánh
12. Y Bát Chơn Truyền 42. Học Để Tu
13. Ăn Chay 43. Đạo Phật
14. Nhập Định 44. Tu Và Nghiệp
15. Bài Học Cư Sĩ 45. Pháp Tạng
16. Cư Sĩ 46. Vô Lượng Cam Lộ
17. Tâm 47. Quan Thế Âm
18. Tánh Thủy 48. Đại Thái Thức
19. Học Chơn Lý 49. Địa Tạng
20. Trên Mặt Nước 50. Pháp Hoa
21. Chánh Pháp 51. Thờ Phượng
22. Chánh Kiến 52. Pháp Chánh Giác
23. Tam Giáo 53. Số Tức Quan
24. Tông Giáo 54. Sám Hối
25. Thần Mật 55. Chơn Như
26. Giác Ngộ 56. Hòa Bình
27. Khuyến Tu 57. Lễ Giáo
28. Đi Tu 58. Đạo Phật Khất Sĩ
29. Ăn Và Sống 59. Khổ Và Vui
30. Chư Phật 60. Pháp Học Cư Sĩ


Đánh giá bài viết

4.98/32 rates

Post a Comment

Cảm ơn Đạo Hữu đã đóng góp. Chúc Đạo Hữu một ngày an lạc! A Di Đà Phật