Học Chơn Lý - Chơn Lý 19 Khất Sĩ

Học Chơn Lý - Chơn Lý 19 Khất Sĩ
A+ A-






HỌC CHƠN LÝ

Chơn Lý Khất Sĩ
Chơn Lý Số 19

Cổ nhân xưa là thú tiến hóa ra. Thú thì không biết làm đặng nuôi mạng sống, chỉ biết làm hang ổ để che mưa nắng, cùng trong khi sanh sản thôi. Thú sanh từ nơi nước đất cỏ cây, và chỉ biết ở, sống, với nước đất cỏ cây, chớ không biết chi hơn nữa.

Bởi không biết phép dưỡng sinh nên sanh nhiều mà sống sót lại rất ít, và chẳng sống dai. Cái sống mà ai cũng tham muốn, vì đó cổ nhân xưa, mới tập cuốc đất cấy cày, gieo giống trồng hột, cất nhà, may áo, nếm thuốc, trị bịnh. Cái tham muốn, cho rằng lúc nào cũng khổ, và vì khổ mới siêng làm. Việc làm lấy nước đất cỏ cây thú người mà làm. Càng làm càng mở mang trí thức, sáng láng khéo hay, chế biến tìm tòi, nơi cái có, cái sống là vật chất. Quanh quẩn trong cái ấy, muôn đời ngàn kiếp chịu khổ nhọc không công. Ở trong ấy có khác nào trong khám ngục, không đường ánh sáng, nơi trong ấy hết làm rồi nghỉ, hết khổ rồi vui, như sự an ủi để hành phạt mãi mãi. Người ta rất dốt, là không biết mình ở đâu, và lẽ thật ra sao đối với không gian cùng thời gian trong võ trụ.

Bởi có sắc thân, mới sanh thọ cảm, bởi có thọ cảm mới sanh tư tưởng, bởi có tư tưởng mới sanh hành vi, bởi có hành vi mới sanh thức trí. Loài người có học là học mưu sống, học nơi vật chất, để tô đắp cho sắc thân, chớ không cần biết đầu đuôi, sau trước, thật giả ra sao? Tuy nuôi thân mà chẳng đặng sống lâu là bởi loài người lúc nhỏ không có đủ trí, cùng phải lắm sự thái quá bất cập cho nên thân ấy chẳng bền dai. Lắm khi tranh ăn vì ham vui sướng, mà họ lại giết hại với nhau, dữ hơn ác thú. Do đó người ta mới bày ra đạo lý, thiện ác phân biệt và tập sống bằng tinh thần, không không của linh hồn, để cho được khoái lạc nhẹ nhàng hơn. Và bắt đầu từ đây người ta cho rằng thiện để sống là cần, vì có sống rồi mới có ăn được. Như thế nghĩa là người ta học thiện, học nơi tinh thần lý trí, mà người ta dứt bỏ cái học trước kia, cái học ác, học nơi vật chất, nơi sự của thân. Tức là người ta đã đến cái học thứ hai vậy. Người ta cho rằng: nuôi tinh thần, cũng như nuôi hột giống, là đúng hơn.

Trước kia loài người học nuôi sắc thân, đối với vật chất như thế nào, thì bây giờ loài người học nuôi tinh thần lý trí cũng y như vậy. Họ so sánh cách tương đối đó, mà họ sống và thật hành. Bên vật chất có bao nhiêu phương pháp thì bên tinh thần cũng có bao nhiêu phương pháp. Mà loài người lại cho là: Đời sống, việc làm, theo lý trí tinh thần, là thanh nhẹ khỏe sướng hơn, và là: ở trên cao bay khỏi mặt đất địa ngục rồi vậy. Hai hạng này đều ở trong giáo lý, phương pháp của thiện ác, có không, thân trí, vật chất tinh thần, chớ chưa biết chi là lẽ thật, chơn lý của sự đời. Thiện và ác là sự phải và trái, hai bờ lề hai bên, của sự thái quá và bất cập. Tuy nhiên hai bờ lề thiện ác, là ở hai bên chớ chưa phải là đạo tuyệt đối nơi chính giữa, nhưng bờ lề ấy, cũng cặp hai bên đường; và chạy đi xa dài theo đường, kêu là tiểu đạo (đường nhỏ). Và nếu không có đường nhỏ hai bên ấy, thì con đường lớn đại đạo nơi chánh giữa, cũng không sao có được. Vậy nên thiện và ác là đời, còn đạo là ở giữa nơi thiện ác sống chết, vui khổ, thiên đường, địa ngục.

Đạo là chơn lý, vì loài người sanh sau, nên không hiểu chơn lý, lẽ thật của đuôi đầu, họ chỉ nhắm mắt đánh liều, lần mò bước đi theo hiện tại, vì thế mà loài người chỉ chấp theo giáo lý. Từ giáo lý ác khổ trược, đến được giáo lý thiện vui thanh, đủ cho họ ăn hưởng no ngon hạnh phúc rồi, vì là miễn cho được yên sướng, chớ họ không muốn tìm chơn lý lẽ đạo chi cả. Loài người rất mê tín, lúc đầu thì mê tín nơi sắc thân vật chất, cái ác, cái chết khổ, vì bởi mới được sanh ra từ trong tứ đại. Về sau khi đã chán sợ cái thấp dơ nguy hiểm, bèn đến sự mê tín nơi lý trí tinh thần cái sống cái thiện, cái vui của trên cao nhẹ sạch. Nhưng rồi chẳng bao lâu họ cũng nhàm chán mỏi mệt, mà té xuống trở lại thấp, rồi từ dưới thấp lại bước trở lên cao. Cũng như một kẻ kia từ hố sâu đi lên chót núi, lại từ chót núi lội xuống hố sâu, mãi mãi như thế, do sự thích ưa và nhàm chán của cái ý, bị trói trăn trong tình dục tương đối mãi mãi khổ nhọc, mà không rồi đâu đến đâu cả.

Nhưng cũng nhờ sự mê tín, khổ sở, thất bại, của hai giáo lý bên lề ấy, mà đến lần được giác ngộ chơn lý lẽ thật, là đạo của võ trụ chúng sanh. Và sau khi thấu lý đạo rồi, thì không còn nương theo giáo lý thấp cao, của sự tới lui hai bên bờ lề kia nữa, mà được nghỉ yên một chỗ, nắm giữ gặp được mực trung là đạo, kêu là đắc đạo. Rồi từ đó ở yên nơi đường giữa, mà đi tới theo lẽ thật chơn lý để được sự kết quả quý báu diệu mầu, nên gọi là đắc quả vậy.

Sau khi thật hành theo chơn lý trung đạo, đã được kết quả, và con đường đã khai vạch đi đó, còn để lại dấu vết về sau, chúng sanh đều được thấy gặp để đi theo, đến nơi Cực lạc, con đường ấy càng ngày càng rộng lớn tỏ rõ, trở nên con đường cái của chúng sanh, chừng ấy tức là thành đạo, hay là đạo đã hoàn thành vững chắc rồi. Từ giáo lý đến chơn lý tuyệt đối, hay là từ pháp lý đến đạo lý tuyệt đối, tức là từ tương đối đến tuyệt đối. Vì giáo lý pháp lý là tương đối có hai bên, mà hễ có hai bên, là chúng sanh hay nhảy qua nhảy lại, khổ sở cho cái ta không định. Vậy nên chỉ có chơn lý lẽ đạo tuyệt đối có một, mới là chỗ yên vui đứng vững lâu dài, mới là con đường của người giác ngộ.

Muốn đến với chơn lý phải do hai cách:

1.- Từ ác đến thiện và giác ngộ.
2.- Nhờ sự dứt bỏ ác thiện, bằng cách tĩnh tâm yên lặng, quán xét mà nhận thấy! Đây là cách đi tắt khỏi đàng nấc thang thiện, hay là ngón tay chỉ là sự thiện. Vì hết làm thiện mệt mỏi đến nghỉ ngơi, yên lặng, tự nhiên là chơn lý. Vậy nên gọi là chơn lý sau pháp thiện. Hay cũng nói: Chơn lý là lẽ thật yên lặng tự nhiên của buổi đầu, là nguồn gốc của sự phát sanh ra vạn vật chúng sanh và các pháp, lại cũng là chỗ đến của vạn vật, chúng sanh và các pháp.

Chơn lý không phải nói vắn tắt, là cái lẽ thật yên lặng tự nhiên ấy mà hiểu được. Mà cần phải biết lẽ thật nguyên nhân nguồn gốc của chúng sanh vạn vật và các pháp, từ trong cái yên lặng tự nhiên sanh có ra bằng cách nào? Cách đi tới ra sao? Và sẽ đến đâu? Cái yên lặng tự nhiên trước là sao? Và cái yên lặng tự nhiên sau này là sao? Có hiểu như thế chúng sanh mới đi trúng đường và đến nơi kết quả được.

Đức Phật khi xưa, ngồi dưới gốc cây bồ đề chánh giác, sưu tầm nguồn gốc của chúng sanh vạn vật và các pháp, mà thấu đạt được cái thật của sự đời. Ngài biết được từ đầu nguyên nhân, đến nơi cuối rốt, và do đó Ngài mới nói chỉ ra muôn ngàn pháp, để đi tới cho trúng mục đích. Chư Tăng đệ tử Ngài cũng y như thế, các vị ấy cố nhập định, vào trong cái yên lặng, để tĩnh trí mà tham thiền, thẩm xét lẽ đầu đuôi, và tự tạo ra phương pháp, để đi cho trúng cách, được mau đến chỗ nghỉ yên. Bởi thế ta mới thấy trong lịch sử có đoạn này: Một vị Tỳ Khưu nhập định bay lên các cõi Trời, tìm các vua Trời và vị Ngọc Hoàng thượng đế, mà hỏi nguyên nhân của tứ đại từ đâu, và sẽ đến đâu. Chơn lý ấy như thế nào? Làm cho không ai trả lời được cả. Vì lẽ các bậc Trời, người, là còn ở trong pháp, trong giáo lý, chớ chưa giác ngộ chơn lý. Các bậc ấy cũng sanh ra từ nơi tứ đại, thì làm sao mà biết được tứ đại từ đâu, và đến đâu, hay như thế nào? Sau rốt vị sư ấy đi hỏi Phật, Đức Phật dạy rằng: "cũng như sau khi ngươi xả định, là tứ đại, chúng sanh vạn vật và các pháp từ đó sanh ra, và cũng như ngươi nhập định trở lại, là chỗ trở về, chỗ đến của tứ đại, vạn vật, chúng sanh và các pháp kia vậy". Câu nói vắn tắt ấy, thật là hoàn toàn đúng chơn lý, câu nói ấy chỉ rõ võ trụ, không gian và thời gian, bao trùm cả tứ đại, vạn vật, chúng sanh và các pháp, ở bên trong. Câu nói ấy, chỉ rõ lẽ sanh diệt của những địa cầu tứ đại, và từ nơi tứ đại mà sanh ra vạn vật, vạn vật sanh chúng sanh, chúng sanh sanh các pháp, các pháp sanh võ trụ chơn lý, võ trụ chơn lý sanh ra tứ đại vọng xoay tròn…

Khi xưa chỉ có các vị Tỳ Khưu ấy là bậc tu thiền định mới tìm xét chơn lý võ trụ, mà đi hỏi Phật như thế, và sau một lời nói của Phật, là vị ấy được giác ngộ thấy biết rõ ràng, không còn hoài nghi phóng tâm gì nữa cả; như chai nước đã đựng đầy, không còn lưng thiếu vọng động. Cũng y như thế, thấu chơn lý thì đắc đạo, là đắc chánh định và kết quả, của bậc giác ngộ thượng trí. Người giác ngộ chơn lý cũng như kẻ đau, mà được biết rõ nguyên nhân của chứng bịnh mình, biết rõ các bộ phận trong thân thể, biết rõ các món thuốc, và biết rõ tánh vị thuốc tất cả, nên chẳng đợi mượn cầu ai, tự mình lấy uống vào thì hết bịnh liền. Bậc thượng trí cũng y như thế, có khác hơn là kẻ ngây si, chẳng biết thân mình tạng thể ra sao nên thường bị hư hại. Chẳng biết nguyên nhân của chứng bịnh mình, nên thường bị trúng độc. Chẳng biết mình bịnh gì, nên chữa trị không lành. Chẳng biết rõ các vị thuốc nên hay dùng lộn, bịnh càng thêm nặng. Chẳng biết tánh thuốc nên mới pha trộn món kỵ, khi uống vào thì chết. Kẻ ấy phải nhờ người khác chỉ bảo, chăm nom lo sóc; tánh mạng mình giao cho người khác, may nhờ rủi chịu, sống chết đều ở nơi tay người, sợ nỗi người ghét hại, đến đỗi phải chiều chuộng lạy bái dâng của nạp tiền, để cầu cho người thương, mà ban ơn nhỏ phước cứu tử huờn sanh; thờ người hơn cha mẹ, và ai ai cũng là cha mẹ của mình hết, bảo sao nghe vậy, mê tin theo người bày chỉ, nhắm mắt đánh liều tới đâu hay đó, chớ nào có biết việc chi đâu!

Mà sự thật cũng phải như vậy! Đức Phật là bậc cao siêu thượng trí, và chư đệ tử đích đáng của Ngài cũng là cao siêu thượng trí, mới chịu tham thiền thấu chơn lý mà đắc đạo mầu, chớ đối với chúng sanh, thì có được đâu, phần đông là kẻ chỉ ưa thích sự khổ vui, đâu cần biết học. Mảng lo ăn uống cái tham lam, để cho sân giận sình nổi, sanh ra đủ chứng si mê, hư thúi trong tạng phủ của mình, mê sảng điên cuồng, hoặc đuối hơi hấp hối, không còn cử động trí hóa chi chi… cho nên dầu đối với đức Phật đại tài kia đi nữa, cũng không có thể trì huỡn, ở đó giảng giải nói rành với bịnh mê sảng gần chết. Thôi thì cứ đưa cho thuốc uống mau mau, đợi khi bịnh bớt nhẹ rồi, mới phải lúc ân cần dạy dỗ chỉ bảo, cho họ giác ngộ; hoặc sau khi hết đau rồi, là họ sẽ tự giác ngộ lấy họ!

Phải như vậy! Đối với chúng sanh si mê như thế thì đức Phật dạy bảo liền làm sao cho được, mà không, phải là: làm phù thủy, làm thiên thần, họa phù, đọc chú bắt ấn, để làm thuốc cho họ uống, để làm cho họ mê tín như sự bắt hồn, rồi sau đó sẽ lần lần giảng dạy, y theo chơn lý mới được. Những kẻ ấy họ tin Phật như thần, như thánh linh thiêng, là một hạng mê tín theo việc làm.

Còn hạng mê tín thứ hai, theo lời nói của Phật mà cho rằng lời nào cũng hay hết, cũng dùng được hết, lời nói nào cũng nghe theo, nghe bằng cách xáo lộn một màu, xô đùa một thứ. (Không biết rằng pháp Phật là lời phương tiện, tùy duyên giáo hóa cho đủ các bậc thấp cao tật bịnh, không nhứt định, chẳng chấp một lớp một mực nào!) cứ hiểu lầm rằng: kinh nào, pháp nào của Phật nói ra là cũng dùng chung cho một hạng. Khác nào một người bịnh này, mà uống tất cả các thứ thuốc trị muôn ngàn chứng bịnh khác! Mê tín mà tưởng lầm rằng: thuốc dầu chẳng hay trị chứng này, cũng hay trị chứng khác, cứ uống cả vào tất cả lành chứng bệnh của mình, thế là kẻ ấy lậm thuốc.

Cũng như có kẻ quá mê tín, tin quàng xiêng vào các kinh sách đủ thứ, cùng tất cả những lời nói của các bậc danh nhân (dầu là thánh hiền tiên Phật), kẻ ấy rồi sẽ phải đảo điên trí óc! Kẻ mê tín nơi sự linh nghiệm thần thông, và nơi pháp lý trí huệ của Phật cũng y như thế. Ít có ai là người biết mình bịnh nhẹ, tỉnh táo, biết hỏi ông Thầy, nguyên quán sự học của ông Thầy, hỏi xem nguyên căn của bịnh mình, hỏi xem trong tạng phủ, hỏi học tánh thuốc, của bao nhiêu thứ thuốc, hỏi trước rồi sẽ uống và trị bịnh mình sau, để cho được sự biết rõ chánh tín giác ngộ, rồi sẽ thật hành. Người mê tín thì không bao giờ được thấu chơn lý và giải thoát. Kẻ mê tín mà được thiện là rất ít, phần nhiều hễ mê tín, thì tham sân si tội ác chứa đủ điều, đã tham sân si thì đâu có chịu sự quán xét phân biệt, mà chẳng nuôi lòng ngã ái, để tự mình đi xuống và mãi thụt lùi.

Chúng sanh ai cũng vậy, sự lành mạnh bình an như thường là quý báu hơn hết, mà nào họ có biết đến đâu? Sự lành mạnh bình an như thường là lẽ chánh hơn hết, của thân cũng như của tâm, thế mà người ta không chịu hiểu, để chỉ cần tìm lo sự vui cùng khổ là lẽ ngoài phụ thuộc. Họ chỉ tìm mãi cái cực nhọc, trói buộc, của vui và khổ. Hết vui khổ ác nơi vật chất, xác thân, rồi lại đến lo vui khổ thiện nơi tinh thần lý trí. Họ là những kẻ bị trói buộc, tự mình tạo sự trói buộc lấy mình mãi mãi, như kẻ bị ở tù trong khám tối, mà chẳng bao giờ chịu giữ sự tốt đẹp, của lành mạnh bình an như thường, là hay hơn hết thảy các pháp.

Họ không biết rằng chơn lý sanh ra các pháp, và các pháp là chỉ gom về chơn lý có một. Cũng như mặt trời sanh ra các ánh sáng và các ánh sáng là chỉ gom về mặt trời có một. Mà các pháp, là để chỉ cho chúng sanh thấy chơn lý. Cũng như ánh sáng là để chỉ cho chúng sanh thấy mặt trời. Và tại sao chúng sanh không đến với mặt trời, chơn lý, để làm Phật, mà chỉ giữ nắm lấy ngón tay pháp, ánh sáng và ở mãi đó làm chi. Những kẻ quá mê tin vì pháp là không hiểu được lời dạy của Phật. Phật dạy người ta phải thấu chơn lý, phải đến ở với chơn lý. Phải làm Phật y như Ngài, chớ Ngài nào có bảo chúng sanh phải mê tín tôn Ngài độc nhất, tin Ngài độc đoán? Phật nào bảo lạy bái hoặc tôn thờ, hay giữ gìn pháp lý lời nói phương tiện của Ngài, một cách khư khư, mờ quáng? Sự mê tín cũng có thể làm cho kẻ ác được thiện, cho kẻ quá nặng nề thấp thỏi của bước đầu. Chớ kẻ mê tín thì không bao giờ được giác ngộ trong đời hiện tại. Bởi thế nên bậc thượng trí muốn giác ngộ, thì phải lìa xa mê tín, không còn bị nhốt trói trong thiện ác phước tội thì mới ngộ đạo và thoát khổ.

Vậy chúng ta nên phải biết rằng: Mỗi một câu pháp lý là một ngón tay của Phật, đưa ra để chỉ cho ta thấy chơn lý lẽ thật, đặng đến với chơn lý lẽ thật. Cũng như chiếc bè, là để đưa ta qua biển, đến bờ bên kia, chớ không phải ta đứng giữ mãi chiếc bè, để chịu chết khổ giữa biển, còn thiệt hại hơn là ở bên bờ bên này nữa vậy. Thế nên chúng ta thờ Phật là để theo Phật, theo Phật là để thành Phật y như Phật, mà đừng mãi mãi xin theo hầu bên Ngài, ắt Ngài chẳng vừa lòng. Nghĩa là nhờ một pháp để tìm chơn lý, và phải đến với chơn lý mà bỏ pháp ấy. Chớ đừng giữ pháp làm kẻ mê tín chấp lầm. Và cũng không phải là đi học hoài, cho đủ hết các pháp của chư Phật đã nói ra, để tổn phí thì giờ và điên đảo rối loạn. Mà phải do nhờ một lời nói phương tiện xứng hạp, làm chìa khóa mở cửa kho tàng bảo vật từ xưa tức là nhờ lời nói ấy mà tỏ ngộ chơn lý, rồi từ trong chơn lý sanh nảy ra biết bao pháp lý, không tận không cùng.

Nghe pháp là để cho biết Phật, biết Phật là biết chơn lý. Người biết chơn lý là biết hết thảy chư Phật. Vậy chúng ta ai ai nên cần phải biết chơn lý, hơn là sự mê tin, tin vái cầu Phật, cho rằng Phật pháp là báu, mà chẳng biết cái báu tại đâu và ra sao! Sự thật chơn lý là lẽ thật tự nhiên như vậy, chớ tự nó không có gì là báu! Có thật quý báu chăng nữa, là bởi tại chúng sanh quá thiệt hại, theo đường lầm lạc sái quấy, mà phải bị đau sầu, hôm nay mới gặp thấy, cho là quý báu đó thôi; vì trong đời thảy đều là tai hại sái quấy cả, các pháp thiện ác có rồi đâu?

Người hiểu chơn lý là người không phải bịnh nặng, không phải bị ai đầu độc, bảo chi nghe nấy. Người tìm học chơn lý, không phải là kẻ quá ác hay quá mê si đần độn, hoặc chết gấp bây giờ. Người biết được chơn lý, thì nắm được chủ quyền trên thiên hạ, khỏi phải lòn cúi nơi ai ai cả, mà tất cả phải như nhau thôi. Kẻ ấy mạnh hơn hết, và chư Phật sẽ khỏi mất công vì kẻ ấy nữa!

Người biết chơn lý cũng như người thợ làm bánh, tự họ biết đó là bao nhiêu thứ bột gì? Bao nhiêu thứ đường gì? Cách thức làm bánh ra sao? Họ tin chắc, biết chắc tự làm mà ăn; Không dùng các thứ bánh khác.

Người giác ngộ chơn lý, không tin ai hết, cũng chẳng tin lấy mình, mà là chỉ tin theo chơn lý thôi. Người đã giác ngộ chơn lý rồi thì khỏi cần tha độ, mà là tự độ và độ tha cho kẻ khác.

Chúng ta phải tìm học chơn lý và trong khi học pháp, nghe pháp, là phải cho hiểu chơn lý. Kẻ nghe pháp của Phật mà không hiểu được ý nghĩa Phật dạy, hoặc như đem pháp ấy nói ra vào một trường hợp khác biệt, để cho sái lạc xa ý nghĩa, như vậy là hủy mạ giáo pháp Phật; bởi để người ta hiểu lầm mà khinh chê Phật.

Vậy nên mỗi người tự tìm học thẩm xét, và bằng có nghe pháp học pháp, là để thật hành kinh nghiệm đến với chơn lý, nắm chơn lý mà đắc đạo. Đừng chấp pháp, hãy liệng bỏ pháp lại sau lưng, cho kẻ khác đi sau được học, mà mình thì không chứa giữ một pháp nào cả.

Chúng ta phải qua khỏi cái học ác buổi đầu, để đến với cái học thiện thứ hai, và lần lên cái học chơn lý thứ ba rốt ráo. Ở trong lớp ác, chúng ta dốt với cái thiện. Ở trong lớp thiện chúng ta dốt với chơn lý. Vậy chúng ta phải đến với sự học chơn lý; người biết chơn lý là sẽ biết rõ tất cả thiện ác, vì người biết chơn lý là đã ở ngoài vòng giả dối của thiện ác, nên chi dòm ngó vào trong, là sẽ được thấy biết rõ ràng.

Đức Phật xưa thấu chơn lý mới đắc đạo, có được danh hiệu là Sĩ Trung Thắng, là Thế Gian Giải, là Thiên Nhơn Sư, là Vô Thượng Sĩ, là Thiên Thượng Tôn… là bởi Ngài đã thấu chơn lý, biết khắp trong đời, không một vấn đề nào mà Ngài không giải quyết được!

Chơn lý là lẽ thật, không phải thấp cao gì cả. Nhưng chúng sanh thì thật khó hiểu, khó hiểu chớ chẳng phải cao xa. Vì mảng bị hoặc nghiệp che áng, vọng động liền liền, còn đâu có được giờ phút rảnh rang yên tịnh phủi sạch nợ duyên, hòng nhớ hiểu xét ra chơn lý? Mãi quanh quẩn trong trần, họ không còn biết chi hơn khác được: thoạt mới nghe đến chơn lý cho là huyễn hoặc, sanh dạ hoài nghi, lắm khi ngơ ngác, chẳng hiểu một tí gì cả!

Nếu như có một người kia, nhận thấy sự biến ảo của đời, biết là giả dối, và định ý sẽ tìm cái thật, muốn hiểu lẽ thật lần lần của tất cả sự vật. Kẻ ấy quay về con đường lẽ thật, ắt sẽ đến chơn lý ngay, không còn bợ ngợ.

Chơn lý ở nơi vọng sự cũng như cái thật ở nơi mỗi cái giả, cái trúng phải ở nơi mỗi cái trật quấy, thật là mênh mông không bờ bến của sự học, dầu người ta có lập ra bao nhiêu trường để dạy học, cũng không hết bài học.

Người thấu hiểu chơn lý, nào phải là người mầu nhiệm khác lạ chi chi…? Chính là một người tầm thường, một người như bao nhiêu người khác, nhưng nhờ đứng ra ngoài sự giả dối, được ở trong cảnh thật mà biết rõ cái thật, và khi nhìn ngó vào trong cảnh giả, người thấy ai ai lầm lạc mê muội là chỉ bảo dắt dùm. Lời nói của người, thiên hạ tin nghe, và thấy ích lợi nên mới cho là Pháp bảo quý giá vô cùng.

Chơn lý không có lạ, đối với người ở trong cái thật, và hành vi đã được đúng theo sự thật ấy. Học chơn lý cũng y như các khoa học của thế gian, nhưng chỉ đi ngay vào cái thật, cái trước mắt rõ rệt, cái trường tồn vĩnh viễn, chớ không ôm đeo theo cái bọt bào huyễn ảnh giả dối vô ích, cái không công.

Cũng như người thợ cất nhà, trước dựng giàn trò, rồi sau đến cất nhà, cất nhà là việc làm kết quả, còn giàn trò phải dở bỏ tan hoang. Cho nên cái học bước đầu thiện ác trong trần thế, cũng như học cất giàn trò, và đến với học chơn lý mới là đúng phép cất nhà kia vậy.

Thế thì sự học phải đi tới, học để mở trí đặng bước tới, học cho hiểu chút ít một đôi pháp, rồi đi ngay tới chơn lý rốt ráo, chớ chẳng phải là sự đủ rồi, đứng một chỗ hay học mãi lòng vòng: như con kiến bò quanh quẩn mãi theo vành xe, nó đến nghỉ tạm nơi từng mắt của căm xe, mà chẳng chịu đi theo một cây căm, để vào tuốt trong trụ cốt ổ hang là nhà của nó. Nó đi lạc là bởi sự ham vui chuyền níu ngó tới mãi, mà chẳng chịu dòm ngang, lay hoay giỏi hay nơi đó mà quên cửa nhà xứ sở.

Chơn lý như mặt trời, pháp lý như đèn sao, thế sự như hang tối. Vậy nên cái học của chúng ta là học chơn lý, thấu chơn lý mới gọi là thật học. Học trường đời là như sự học mới tập của bước đầu, cái học lo nuôi sống sắc thân, tạo tác giả vật, chấp giữ cõi đời, sự việc hữu tình hiện tại. Lối học ấy chưa phải lối học cứu cánh giải thoát kiếp khổ cho loài người.

Khi xưa, dưới gốc cây bồ đề chánh giác, đức Phật nói lý Hoa Nghiêm, làm cho bậc Trời người ngơ ngác, chẳng hiểu chi cả. Kinh Hoa Nghiêm là chơn lý của Phật giác ngộ, là lẽ thật rất thường, thế mà khi đem cái thường thật ấy nói ra thì không ai hiểu. Ấy bởi chúng sanh quá say đắm, lạc lầm, chấp lấy cái thấy nghe nơi tội lỗi làm quen tâm trí, cho đó là thật của mình, là chánh phải trúng hay thì nào có nghe được lời chơn thật ngay thẳng của Phật! Vì vậy Phật Ngài mới phân ra ba thừa giáo lý, hạ pháp thấp xuống, chìu chuộng nâng đỡ, dìu dắt chúng sanh đi lên từ nấc, cho đến đất bằng chơn lý hay Phật thừa, vì bởi chúng sanh càng nặng, càng lún, càng sâu, và quen rồi với cảnh sâu ấy; Lại ít kẻ biết ra là mình đã quá tội lỗi thâm sâu, đối với công lý đất bằng, hay chơn lý lẽ thật. Và có kẻ biết rõ, thì lại bởi xét mình quá thấp sâu dơ nặng, mà nhìn lên thấy Phật càng cao, cao mãi càng sợ, sợ hoài. – Nào có ai chịu nghĩ rằng: mình và Phật như nhau, ai cũng là người cả, ai cũng là Phật cả, ai cũng ở trong cái thật, mạnh giỏi bình an như thường như nhau, cũng đứng đi trên đường mặt đất, nào phải khác lạ gì? Họa chăng có khác nhau, là bởi chúng sanh hay tìm vọng những cái phi thường, để đến nỗi lạc loài khốn họa, nên phải trở lại kêu cứu cùng Phật. Thấy Phật tự nhiên mà lại quý báu hơn mình, còn mình đã quen tánh khổ lao chao, một khi muốn yên lặng trở lại, không biết phải làm sao nên kiên tâm trì chí, khổ tâm rèn tập lần lần trở lại.

Đối với chơn lý lẽ thật, hay kinh Hoa Nghiêm thì không có chi là sự học cả, vì cái thật nó đã sẵn có trước mặt ta rồi. Cái thật ở nơi mọi chỗ, thế mà chúng sanh nào có thấy chi đâu, từ ác đến thiện, từ nhỏ đến lớn, họ chỉ thấy cái ta, là sự vật thôi, dầu thần nhãn, thiên nhãn cũng không thấy được chơn lý, huống chi là nhục nhãn mắt phàm tăm tối.

Tất cả các pháp là để đến với Hoa Nghiêm.
Tất cả giáo lý là để đến với chơn như.
Tất cả sự học là để đến với chơn lý.


Vậy chúng ta nên học chơn lý! Chơn lý tức là trường đại học của bậc thượng trí! Mà muốn học, ắt chúng ta phải giải thoát những buộc ràng, lìa nhà cửa thế tục, xa cha mẹ trần gian, thân phải trong sạch, tâm được yên lặng, thì trí mới huệ sáng, nghĩa là phải xuất gia giải thoát làm Khất sĩ, nhập đạo tràng Giáo hội, vừa học vừa tu, học tu tuy cực nhọc hơn buổi ăn chơi, chớ thật là trung dung mạnh khỏe, và một kiếp tu hành, ngàn đời rảnh khổ, một thời ngộ đạo, vạn thuở an vui.

Đúng chơn lý, ai cũng là Khất sĩ, xin học. Và đi xin ăn học chơn lý là quý báu hơn cả.

Chơn lý là thật học, trường học là Giáo hội Du Tăng Khất sĩ đi học cùng khắp xứ, chớ không phải lớp học ở một chỗ, một bài, mà được toàn học. Trường học là chơn lý, nơi đây có nghĩa là học dài học mãi, học không chán, không lui, là sự học có đầu có đuôi, có khoảng giữa, có mục đích, có ích lợi, cái học không bao giờ gián đoạn, học đến đâu cũng không hết không rồi, nên gọi là trường học chớ không phải cái nhà, cái bàn, một lớp, nơi một chỗ một.

Chơn lý là trường học chung của tất cả, chơn lý không phải là đời hay đạo. Chơn lý không phải là tông giáo hay đảng phái, chủ nghĩa, giáo phái nào? Chơn lý không phải là một vị Phật, một vị Trời nào! Chơn lý không phải là tên chơn lý, lẽ thật gì cả; chỉ mượn danh từ tạm gọi để phân biệt, nên kêu là chơn lý thôi! Cũng như tiếng Phật, nghĩa tạm phân biệt là sự giác ngộ vậy. Chơn lý là võ trụ, là đại đồng của chúng sanh tất cả. Trong chơn lý không có sự mê tín nơi duy vật, duy thức, hoặc duy tâm. Không có sự mê tín nơi người, nơi giáo lý, nơi linh nghiệm, nơi sự vật chi chi… và cũng không vất bỏ một cái gì cả. Đúng chơn lý là tự nhiên, cái tự nhiên sống mãi đời đời. Cái chơn lý tự nhiên ấy là trường học của tất cả chúng ta vậy!

Thế nên tất cả chúng ta phải đi học. Có ra khỏi nhà đi học mới được chánh tín, hầu kết quả chánh định. Chơn lý tức là giải thoát, thoát khỏi nhà đời, bước qua trường đạo. Cõi Phật là võ trụ đại đồng, nơi ấy đựng chứa biết bao pháp lý, mặc sức cho người xin học. Chúng ta phải nên ráng lên lớp ấy để học hết.

HỌC CHƠN LÝ
Tác giả: Đức Tổ Sư Minh Đăng Quang
NT. TUYẾT LIÊN chuyển thơ
---o0o---

Cổ nhân là thú tiến dần
Thú thì chưa biết làm ăn nuôi mình.
Chỉ làm hang ổ che thân
Phòng khi mưa nắng, lúc cần sản sinh.
Thú từ tứ đại hóa sanh
Chỉ biết ăn, sống, trung thành cỏ cây.
Không biết dưỡng sinh thường ngày,
Nên sanh nhiều, chẳng sống dai mấy người.
Sau tập cuốc đất, trồng cây
Cất nhà, may áo, thêm bài thuốc thang,
Cũng vì khổ mới siêng làm,
Càng làm, càng được mở mang trí tài.
Việc làm sáng láng khéo hay,
Tìm cách chế biến mỗi ngày tiến thêm.
Tiện nghi cái sống nâng lên,
Cho tuổi thọ được tăng thêm lâu dài.
Nhưng nào ai biết, ai hay
Quanh quẩn trong ấy không ngày thoát ra.
Khác nào khám ngục hành hà
Muôn đời ngàn kiếp khổ mà không công.
Trong ấy vui khổ xoay vòng,
Như sự an ủi cho lòng nhẹ vơi,
Rồi tiếp tục chịu khổ đời,
Vì dốt nát, không biết nơi ra vào.
Lẽ thật cuộc đời ra sao,
Võ trụ, thế giới trước sau không rành.
Có sắc thân, thọ cảm sanh,
Có thọ cảm mới hình thành tưởng tri,
Có tư tưởng, có hành vi,
Việc làm kinh nghiệm thức tri cao dần.
Người học, là học mưu sinh,
Chế tạo vật chất cho thân tiện dùng.
Thật, giả không biết cân phân,
Đầu đuôi sau trước có phần ngu ngơ.
Tuy nuôi thân chẳng được lâu,
Lắm khi tranh đoạt mong cầu sướng vui.
Nên người họ lại giết người,
Dữ hơn ác thú, lúc thời cổ nhân.
Sau có người trí thiện hơn,
Bày ra đạo lý biện phân ác lành.
Tập cho cái sống thiện thanh,
Xem nhẹ vật chất, tinh thần không không.
Bắt đầu biết thiện là cần,
Vì cần sống, nên miếng ăn hiền hòa.
Như thế nghĩa là người ta
Lìa xa học ác để mà nuôi thân,
Bước lên cái học tinh thần
Học nuôi hột giống là phần đúng hơn.
Trước kia học ác nuôi thân,
Giờ học thiện, nuôi tinh thần khác đâu.
So sánh tương đối thấp cao,
Để có cách sống nâng cao lên dần.
Bao nhiêu phương cách nuôi thân,
Bấy nhiêu phương cách để cần nuôi tâm.
Bấy giờ người nhận ra rằng
Sống theo lý trí tinh thần khỏe hơn.
Xa rời địa ngục thấp hèn,
Vượt lên cao khỏi đất bằng khổ vui.
Nhưng ! còn trong giáo lý luân hồi,
Đối đãi thiện ác có rồi đến không.
Thân trí, vật chất, tinh thần,
Chớ chưa biết được lý chân cuộc đời.
Thiện ác, phải trái song đôi,
Thái quá, bất cập chưa rồi, chưa xong.
Con đường chính giữa thanh trong,
Hai bờ thiện ác song song bên đường,
Gọi tiểu đạo, đường nhỏ luôn,
Nếu không có nhỏ, lớn nương đâu thành.
Đại đạo chính giữa quang minh,
Chính nhờ đường nhỏ song hành hai bên.
Vậy nên thiện ác là nền,
Đạo nơi chính giữa vượt trên cõi đời,
Giữa nơi thiện ác khổ vui,
Thiên đường, địa ngục có thời như không.
Đạo là chơn lý không không,
Từ thuở khởi thỉ, đạo trong chơn thường.
Loài người sanh sau vấn vương,
Không hiểu chơn lý nên thường chấp nương,
Giáo lý ác khổ là đường,
Phương tiện tiến đến cảnh thường vui thanh.
Được sống hạnh phúc yên lành,
Không cần tìm hiểu đạo lành lý chân.
Mê tin vật chất sắc thân,
Bởi từ tứ đại sanh lần các duyên.
Cái ác, cái khổ, cái hiền,
Về sau chán sợ bước lên tinh thần.
Cái sống, cái thiện, cái chân,
Nhưng rồi cũng chán bước lần trở lui,
Hết cao đến thấp luân hồi,
Dưới thấp chán sợ lần hồi bước lên,
Đến chót núi tột cao trên,
Lại từ chót núi té liền hố sâu.
Mãi mãi như thế mong cầu,
Thích ưa nhàm chán dẫn đầu ý căn.
Tình dục tương đối trói trăn,
Luân hồi khổ nhọc trầm thăng nhiều đời.
Nhưng nhờ mê tín khổ đời,
Mới được giác ngộ từ nơi bên lề.
Khổ sở thất bại não nề,
Mới ngộ chơn lý hết mê cuộc đời.
Sau khi thấu lý đạo rồi,
Không nương giáo lý, chấp vào có không.
Gặp được nắm giữ mực trung,
Kêu là đắc đạo ung dung nhiệm mầu.
Ở đường giữa, không thấp cao,
Đi tới chơn lý quả mầu tự tâm.
Sau khi thực hành đạo trung,
Thấy được kết quả dấu chân ban đầu.
Chơn lý trung đạo nhiệm mầu,
Người trước khai vạch, người sau thực hành,
Đến nơi cực lạc tịnh thanh,
Con đường chánh đại quang minh thanh nhàn.
Gọi thành đạo hay đạo thành,
Nhờ nơi giáo lý mà mình hiểu ra.
Hay từ tương đối nhận ra,
Đến được chơn lý mới là cao trên.
Vì giáo lý có hai bên,
Chúng sanh chấp có mà quên con đường.
Nhảy qua lại theo pháp nương,
Cái ta không định nên thường khổ tai.
Chơn lý là đạo không hai,
Là chỗ đứng vững lâu dài yên vui.
Chánh đạo tuyệt đối thành rồi,
Con đường giác ngộ cho người hữu duyên.
Đến chơn lý có hai phương,
Ác, thiện, giác ngộ là đường xưa nay.
Thứ hai không đi dông dài,
Chọn con đường tắt đi ngay tâm mình.
Tâm yên tịnh, vọng không sanh,
Quán xét tỏ rõ các hành tự nhiên.
Tự nhiên yên lặng diệu huyền,
Đó là chơn lý tự nhiên buổi đầu.
Nguồn gốc các pháp ban đầu,
Cũng là chỗ đến lý sâu vô cùng.
Nói vắn tắt, khó hiểu thông,
Phải dùng văn tự mới mong am tường.
Chúng sanh mới đi trúng đường,
Có được kết quả không lầm, không sai.
Nguồn gốc các pháp xưa nay,
Vốn từ yên lặng sanh rày các duyên.
Từ trong yên lặng tự nhiên,
Các pháp sanh khởi nhân duyên thế nào.
Cách đi tới ra làm sao?
Đến điểm cuối chót thế nào là xong?
Cái yên lặng trước là sao?
Tự nhiên yên lặng lúc sau khác gì?
Phật xưa ngồi dưới gốc cây
Sưu tầm nguồn gốc pháp từ đâu sanh.
Thấu đạt sự thật mong manh
Từ thành đến hoại có không vô thường,
Sanh già đau chết lẽ thường,
Nói ra các pháp chỉ đường chúng sanh.
Chư Tăng đệ tử y hành,
Tìm nơi thanh vắng tỉnh tâm tham thiền,
Thẩm xét lẽ thật căn nguyên,
Tạo ra phương pháp tùy duyên cuộc đời.
Miễn sao đến chỗ nghĩ ngơi,
Tự nhiên yên lặng cuộc đời thanh trong.
Lịch sử xưa có đoạn rằng:
Tỳ khưu nhập định bay lên cõi trời,
Gặp vua trời hỏi khúc nôi
Nguyên nhân tứ đại con người từ đâu?
Chơn lý ấy như thế nào?
Dẫu cho thượng đế không sao trả lời.
Vì lẽ các bậc vua trời,
Chưa ngộ chơn lý, cuộc đời chưa thông,
Các Ngài từ tứ đại sanh,
Làm sao biết được ngọn ngành xưa nay.
Sư ấy tìm đến Như Lai,
Được Phật hoan hỷ chỉ bày cội căn.
Khi xả định tứ đại sanh,
Chúng sanh, các pháp thường hằng biến thiên.
Khi người nhập định tham thiền,
Ấy là chỗ đến các duyên dứt rồi.
Lời dạy chỉ rõ khúc nôi,
Câu nói vắn tắt đủ rồi lý chơn.
Câu nói ấy đã bao trùm,
Tứ đại, vũ trụ, duyên nhân các loài.
Lẽ sanh diệt tự xưa nay,
Chúng sanh các pháp không ngoài lý chơn.
Duyên hợp vọng sự xoay tròn,
Duyên tan các pháp hoàn toàn là không.
Tăng xưa là bậc tinh ròng,
Chuyên tu thiền định quán tầm lý chơn.
Tìm Phật hỏi rõ nguồn cơn,
Sau lời Phật dạy lý chơn hiển bày.
Giác ngộ các pháp xưa nay,
Như chai nước đã đựng đầy không lưng.
Cũng như thế thấu lý chơn,
Là đắc chánh định, không còn xuyến xao.
Người giác ngộ như kẻ đau
Mà được biết rõ thế nào nguyên nhân,
Biết các bộ phận trong thân,
Biết thuốc đối trị, chẳng cần cầu ai.
Tự mình uống vào hết ngay,
Không còn khổ sở loay hoay đau sầu.
Bậc thượng trí có khác đâu,
Biết mình có bệnh, pháp mầu dược linh.
Chỉ thương cho các chúng sanh,
Ngây si chẳng biết bệnh mình ra sao.
Chẳng biết nguyên nhân từ đâu,
Nên thường trúng độc hèn lâu không lành.
Chẳng biết vị thuốc pháp hành,
Chẳng biết tánh thuốc dùng lầm bệnh thêm.
Có khi mất mạng cũng nên,
Phải nhờ người khác chăm nom lo dùm.
Mạng mình người khác cầm căn
May nhờ rủi chịu phập phồng lo âu.
Sợ người ghét hại mưu sâu
Đến đổi chiều chuộng cúi đầu mới yên.
Cầu người nghĩ đến nhân duyên,
Ban ơn cứu tử, phước dường hườn sanh.
Thờ người hơn cha mẹ sanh,
Bảo sao nghe vậy mê tin người bày,
Nhắm mắt đánh liều nào hay,
Tới đâu hay đó trong tay người cầm.
Sự thật là vậy muôn năm,
Nếu không giác ngộ ngàn năm luân hồi.
Đức Phật bậc giác ngộ rồi,
Chư Tăng thượng trí quán soi tham thiền,
Thấu được các pháp do duyên,
Thấy ra chơn lý tự nhiên ban đầu.
Chúng sanh thì có được đâu
Phần đông chỉ biết mong cầu muốn ham.
Mảng lo ăn uống tham lam,
Sân giận sình nổi phải cam chịu hành.
Hư thúi tạng phủ trong mình,
Điên cuồng mê sảng không còn tỉnh tâm.
Đức Phật thương kẻ lạc lầm,
Chỉ cho phương pháp vừa tầm chúng sanh.
Đưa thuốc trước uống cho lành,
Đợi khi bớt bệnh ân cần dạy răn,
Con đường giác ngộ làm tăng,
Tu theo chánh pháp siêng năng định thiền.
Thấy rõ các pháp nhân duyên,
Rõ biết chơn lý tự nhiên ban đầu,
Với người thượng trí căn sâu,
Sẽ được giác ngộ đạo mầu tự tâm.
Như vậy đối với chúng sanh,
Si mê chưa sáng Phật đành tùy duyên,
Làm phù thủy, làm chư thiên,
Họa phù, đọc chú trị liền chứng mê.
Tạo niềm tin, họ quay về,
Sau dùng chánh pháp trừ mê dần dần.
Kẻ ấy tin Phật như thần,
Như thánh linh hiển chỉ cần tin theo.
Còn hạng mê tín thứ hai,
Tin lời Phật nói là hay nhất rồi.
Dùng chung một pháp một bài,
Đâu biết lời Phật chỉ bày tùy duyên,
Giáo pháp có tiệm có huyền,
Tùy cơ phương tiện giáo khuyên độ đời.
Đừng quá mê tin vào nơi,
Kinh sách đủ thứ, cùng lời danh nhân.
Sẽ phải đảo điên tinh thần,
Pháp nào cũng học không cần nghĩ suy.
Bệnh mình nặng nhẹ thuốc gì,
Hỏi thầy cho rõ bệnh chi, thuốc nào.
Học hỏi tánh thuốc ra sao,
Hỏi trước rồi sẽ uống sau trị lành.
Cũng vậy tất cả chúng sanh,
Phần nhiều mê tín tham sân đủ điều.
Nuôi lòng ngã ái tự kiêu,
Không chịu học hỏi chấp liều pháp môn.
Làm sao thấy được lý chơn,
Tự mình đi xuống thấp hơn, tự mình.
Chúng sanh sao chẳng tự tin,
Như thường lành mạnh an bình quý hơn.
Lành mạnh bình an chánh chơn,
Nơi thân tứ đại, tâm hồn chúng sinh.
Nhọc nhằn cầu cạnh pháp linh,
Sự vui cùng khổ ngoài mình ích đâu.
Hết vui khổ thân phong trần,
Đến lo vui khổ tinh thần trí tâm.
Họ là những kẻ sai lầm,
Tự mình trói buộc giam cầm mình thôi.
Kẻ chấp như bị tù đày,
Ở trong khám tối chịu hoài đắng cay.
Sao chẳng chịu tỉnh biết ngay,
Sự tốt đẹp của thường ngày bình an.
Các pháp từ chơn lý sanh,
Để rồi các pháp quy thành lý chơn.
Ánh sáng từ mặt trời sanh,
Quy về một mối tinh quang mặt trời.
Pháp là phương tiện tạm thôi,
Chỉ cho sanh chúng thấy nơi cội nguồn.
Giáo lý chỉ là pháp nương,
Pháp như tay chỉ con đường giác chơn.
Đến với chơn lý cội nguồn,
Làm người giác ngộ như thường bình an.
Phật nào có bảo chúng sanh,
Tin Ngài độc đoán, thờ Ngài độc tôn,
Giữ gìn pháp lý kim ngôn,
Khư khư mờ quáng không hơn người mù.
Sự mê tín lợi bước đầu,
Kẻ ác được thiện mặc dầu còn mê.
Lớp tạm cho kẻ nặng nề,
Người quá mê tín khó bề tiến xa.
Bậc thượng trí đã hiểu ra,
Lìa xa mê tín mới là thông minh.
Sống tự nhiên, được yên bình,
Vượt qua phước tội thì mình thảnh thơi.
Giác ngộ mới thoát luân hồi,
Giữ tâm yên lặng định nơi việc làm.
Chúng ta nên phải biết rằng,
Mỗi câu pháp lý, ý người chỉ trăng.
Thấy được ánh trăng vĩnh hằng,
Đó là mục đích Phật tăng độ người.
Như bè đưa qua biển khơi,
Chứ không phải đứng giữ nơi chiếc bè.
Để chịu chết giữa biển đời,
Còn thiệt hại lớn hơn nơi bờ này.
Học Phật để đừng hiểu sai,
Thờ Phật để có gương Ngài tu tâm.
Tu tâm là để đắc thành,
Chơn như toàn giác không lầm, không mê.
Chớ đừng hầu hạ cận kề,
Nghĩ rằng đã được hết mê, hết lầm.
Nương một pháp để tìm tâm,
Là tìm chơn lý sẵn trong muôn đời.
Ngộ rồi phải bỏ pháp thôi,
Chớ đừng giữ pháp để rồi mê luân.
Chấp pháp chẳng thấy lý chân,
Hay là học mãi kiếm tầm pháp hay.
Của chư Phật đã diễn bày,
Điên đảo tâm trí phí hoài thời gian.
Chỉ cần một pháp thuận an,
Làm chìa khóa mở kho tàng tự nhiên.
Tỏ ngộ chơn lý diệu huyền,
Từ trong chơn lý pháp thiêng sẳn dùng.
Pháp lý không tận, không cùng,
Ai người giác ngộ lấy dùng tự do.
Nghe pháp mục đích để cho,
Biết Phật, chơn lý sẵn kho bảo tàng.
Mà đừng vái Phật cầu Tăng,
Cho là quý báu, chẳng năng tu hành.
Có thật quý báu đi chăng,
Là do sanh chúng lạc lầm quá lâu.
Trôi lăn biển khổ, nguồn sầu,
Hôm nay thấy gặp báu châu của mình.
Thiện ác có do duyên sanh
Nương pháp thiện ác như cầu qua sông.
Người hiểu chơn lý là không,
Mê tin thái quá mà không biết gì.
Bị người đầu độc hiểm nguy,
Bảo chi nghe nấy còn gì tự do.
Tìm học chơn lý để cho,
Hiểu được chơn lý, mà lo tu hành.
Người có sức mạnh yên bình,
Chư Phật cũng khỏi nhọc phiền vì ta.
Người biết chơn lý như là,
Người thợ làm bánh đứng ra thực hành.
Bột, đường cách thức làm nhanh,
Tự mình làm được không ăn bánh người.
Ngộ chơn lý cũng vậy thôi,
Không tin ai hết để rồi chỉ tin.
Chơn lý vũ trụ yên bình,
Hiểu được chơn lý thì mình tự tu.
Tự độ, độ tha vân du,
Khỏi cần tha độ cho dù Phật tiên.
Tu học chơn lý diệu huyền,
Nghe học pháp để tự tìm lý chơn.
Nghe pháp không hiểu thiệt hơn,
Hoặc đem pháp nói vào trường hợp riêng.
Không đúng ý nghĩa nhân duyên,
Hủy mạ giáo pháp Phật truyền dạy ra.
“Tin ta mà không hiểu ta,
Ấy là bày báng, ấy là khinh chê”.[1]
Mỗi người phải tự tìm về
Cội nguồn chơn lý, đừng mê pháp huyền.
Nắm chơn lý đủ nhân duyên,
Đến với chơn lý đạo thiền tỏ thông.
Liệng bỏ pháp lại sau lưng,
Cho người hậu học biết chừng đi theo.
Mình không chứa giữ pháp nào,
Từ cái học ác buổi đầu tiến lên.
Thứ hai học thiện tu hiền,
Đến học chơn lý là duyên sau cùng.
Ở lớp ác ta chưa thông,
Dốt với cái thiện ở trong cuộc đời.
Đến lớp thiện, lại dốt nơi
Dốt với chơn lý để rồi tìm lên.
Cái học chơn lý làm nền,
Người biết chơn lý hiểu luôn ác hiền.
Chơn lý ở ngoài nhân duyên,
Ngoài vòng dối giả ác hiền tỏ ngay.
Phật xưa thấu được pháp này,
Có đủ thập hiệu [2] đức Ngài Thế Tôn.
Bởi Ngài đã thấu lý chơn,
Khắp trong thế giới giả chơn cuộc đời.
Chơn lý là lẽ thật thôi,
Không cao, không thấp, nhưng người không thông,
Vì bị hoặc nghiệp áng tâm,
Hoặc mãi quanh quẩn trong trần biết chi.
Thoạt nghe sanh dạ hoài nghi,
Cho là huyển hoặc lắm khi ngây khờ.
Nếu như có một người kia,
Thấy sự biến hóa của đời khổ vui.
Sẽ tìm cái thật cuộc đời,
Tốt nhất là tự tìm nơi chính mình,
Thấy con đường thật đăng trình,
Ắt sẽ đến chốn an bình tự nhiên.
Vọng sự có sẳn lý chơn,
Cái thật từ chỗ giả hình nhận ra.
Cái trúng ở nơi trật mà,
Từ trật quấy, kinh nghiệm là thành công.
Nên sự học thật mênh mông,
Bao nhiêu trường lớp cũng không hết bài.
Người hiểu chơn lý không sai
Như bao người khác, đứng ngoài sự duyên.
Ở trong cảnh thật hiện tiền,
Nhìn thấy tỏ rõ giả duyên cuộc đời.
Thấy ai lầm lạc chơi vơi,
Dùng phương tiện chỉ dắt người lầm mê.
Lời nói thiên hạ tin nghe,
Thấy được ích lợi, mới là pháp vương.
Chơn lý không có khác thường,
Với người thật biết, theo đường thật đi.
Học chơn lý cũng giống y,
Các môn khoa học của người thế gian.
Nhưng chỉ đi theo một đường,
Vào cái chân thật trường tồn vĩnh miên.
Không ôm đeo cái ảo huyền,
Nhận ra cái thật, cái chơn như là.
Cũng như người thợ cất nhà,
Trước dựng giàn tạm sau là thi công.
Đến khi cất nhà thành công,
Giàn trò giở bỏ mới xong căn nhà.
Cái học cũng giống như là,
Bước đầu thiện ác cũng là tạm thôi.
Học với chơn lý xong rồi,
Cái học thiện ác cũng thôi không dùng.
Thế thì sự học phải thông,
Học để mở trí, đặng hòng bước lên.
Học đôi pháp, tới lý chơn,
Rốt ráo sự học, không vòng quẩn quanh.
Như kiến quanh quẩn theo vành,
Nghĩ tạm từng nấc nơi vành bánh xe.
Chẳng chịu đi thẳng căm xe,
Vào trong trụ cốt là nhà an yên.
Đi lạc bởi ham vui chuyền,
Không nhớ mục đích cùng quên cửa nhà.
Chơn lý như mặt trời xa,
Pháp lý ánh sáng như là trăng sao.
Thế sự hang tối âm u,
Chúng ta phải học đi từ bước lên.
Trước học nuôi sống sắc thân,
Tạo tác giả vật chúng sanh cuộc đời.
Lối học ấy giả tạm thôi,
Phải học cứu cánh thoát đời phù du.
Khi xưa dưới gốc vô ưu,
Phật nói giáo lý Hoa Nghiêm thượng thừa,
Trời người ngơ ngác hiểu chưa ?
Hoa Nghiêm chơn lý Phật thừa chánh chơn.
Đem cái thường thật ân cần,
Nói không ai hiểu, bởi lầm chấp quen.
Không hiểu được pháp chánh chơn,
Phật đem giáo lý chia phân ba thừa.
Tùy duyên có pháp thấp vừa,
Dắt từng bước đến Phật thừa tối cao.
Chúng sanh càng lún, càng sâu,
Nhìn lên thấy Phật càng cao, cao vời.
Nào ai có biết có hay,
Chúng sanh, chư Phật ai ai cũng người.
Đứng đi trên đất thường thôi,
Sống trong cái thật, ở nơi cái thường.
Chúng sanh tìm cái phi thường,
Hay tìm vọng động nên thường khổ nguy.
Thấy Phật tự nhiên huyền vi,
Còn mình quen tánh một khi muốn dừng,
Chịu khổ cực rèn tập lần,
Kiên tâm trì chí để tâm lặng dần.
Đối với chơn lý thật chân,
Hoa Nghiêm tối thượng không cần học chi.
Cái thật sẵn có mọi khi,
Mọi nơi, mọi chỗ có gì khác đâu.
Thế mà chúng sanh mong cầu,
Học ác, học thiện đâu đâu cũng tìm.
Chỉ thấy cái ta trước tiên,
Sự vật che áng đương nhiên mê lầm.
Dầu thần hay thiên nhãn thông,
Không thấy chơn lý cái không yên bình.
Huống chi nhục nhãn mắt phàm,
Làm sao thấy rõ lẽ chơn trở về.
Học các pháp đến Hoa Nghiêm,
Học giáo lý để đi tìm chơn như.
Tất cả sự học kinh thư,
Rốt ráo để hiểu như như chơn thường.
Chúng ta nên học lý chơn,
Là trường đại học thượng nhân bậc thầy.
Muốn học phải giải thoát ngay,
Những mối ràng buộc gia tài, tình thân.
Giới thân phải giữ trong ngần,
Tâm định yên lặng trí lần mở mang.
Xuất gia khất sĩ làm tăng,
Người vào giáo hội tinh cần học tu.
Học tu cực nhọc buổi đầu,
Sau được mạnh khỏe vui câu thanh nhàn.
Một kiếp tu hành yên an,
Ngàn đời rảnh khổ nghiệp trần không vương.
Một thời ngộ đạo chơn thường,
Vạn thuở an hưởng niết bàn tự tâm.
Đúng theo chơn lý người nên,
Xin ăn tu học quý hơn ngọc ngà.
Trường học giáo hội tăng già
Không ở một chỗ, ta bà vân du.
Trường học chơn lý tối ưu,
Học mãi không chán, không lui, học dài.
Không phải chỉ học một bài,
Mà được toàn học, được đầy đủ đâu.
Là sự học có đuôi đầu,
Học không gián đoạn, học lâu, không ngừng.
Chơn lý trường học đại đồng,
Không phải bàn, lớp, ở trong một nhà.
Là trường học của chúng ta,
Không phải đời đạo mà là của chung.
Không phải đảng phái, pháp môn,
Chơn lý không phải độc tôn Phật trời.
Tạm gọi tên chơn lý thôi,
Danh từ phân biệt chỉ nơi rốt cùng.
Cũng như tiếng Phật chỉ chung,
Ai người giác ngộ đều dùng như nhau.
Chơn lý không có thấp cao,
Thiên về duy vật, hoặc vào duy tâm,
Duy thức cũng chẳng tin lầm,
Không tin sự vật không lầm chấp chi.
Cũng không vất bỏ cái gì,
Đúng chơn lý vạn vật thì tự nhiên.
Tự nhiên sống mãi trường miên,
Trường học chơn lý tự nhiên muôn loài.
Thế nên tất cả ai ai,
Cũng phải đi học hiểu bài mới khôn.
Có được niềm tin chánh chơn,
Kết quả chánh định đúng chơn lý rồi.
Giải thoát ra khỏi nhà đời,
Bước qua trường đạo học lời chơn không.
Chơn lý võ trụ đại đồng,
Nơi ấy đựng chứa dung thông ta người.
Mặc sức xin pháp học lời,
Chúng ta nên phải tới nơi lớp trường.
Học hiểu chơn lý bình thường,
Bình an lành mạnh như thường, như chơn./.

[1] Tăng Nhất A Hàm
[2]. Sĩ Trung Thắng, là Thế Gian Giải, là Thiên Nhơn Sư, là Vô Thượng Sĩ, là Thiên Thượng Tôn .v.v...
DANH MỤC - CHƠN LÝ KHẤT SĨ

DANH MỤC - CHƠN LÝ KHẤT SĨ

1. Vũ Trụ Quan 31. Hạt Giống
2. Ngũ Uẩn 32. Sợ Tội Lỗi
3. Lục Căn 33. Trường Đạo Lý
4. Thập Nhị Nhân Duyên 34. Nguồn Đạo Lý
5. Bát Chánh Đạo 35. Con Sư Tử
6. Có Và Không 36. Đi Học
7. Sanh Và Tử 37. Đời Đạo Đức
8. Nam Và Nữ 38. Đại Thừa Giáo
9. Chánh Đẳng Chánh Giác 39. Xứ Thiên Đường
10. Công Lý Vũ Trụ 40. Vị Hung Thân
11.Khất Sĩ 41. Phật Tánh
12. Y Bát Chơn Truyền 42. Học Để Tu
13. Ăn Chay 43. Đạo Phật
14. Nhập Định 44. Tu Và Nghiệp
15. Bài Học Cư Sĩ 45. Pháp Tạng
16. Cư Sĩ 46. Vô Lượng Cam Lộ
17. Tâm 47. Quan Thế Âm
18. Tánh Thủy 48. Đại Thái Thức
19. Học Chơn Lý 49. Địa Tạng
20. Trên Mặt Nước 50. Pháp Hoa
21. Chánh Pháp 51. Thờ Phượng
22. Chánh Kiến 52. Pháp Chánh Giác
23. Tam Giáo 53. Số Tức Quan
24. Tông Giáo 54. Sám Hối
25. Thần Mật 55. Chơn Như
26. Giác Ngộ 56. Hòa Bình
27. Khuyến Tu 57. Lễ Giáo
28. Đi Tu 58. Đạo Phật Khất Sĩ
29. Ăn Và Sống 59. Khổ Và Vui
30. Chư Phật 60. Pháp Học Cư Sĩ


Đánh giá bài viết

4.98/32 rates

Post a Comment

Cảm ơn Đạo Hữu đã đóng góp. Chúc Đạo Hữu một ngày an lạc! A Di Đà Phật