Cư Sĩ - Chơn Lý 16 Khất Sĩ

Cư Sĩ - Chơn Lý 16 Khất Sĩ
A+ A-






CƯ SĨ

Chơn Lý Khất Sĩ
Chơn Lý Số 16

Chúng tôi du tăng khất thực, sống với lẽ chung của tất cả chúng sanh, theo chơn lý võ trụ, không phân chia chủng tộc, màu da, phái môn, giai cấp, bần phú, sang hèn, cỏ cây, thú, người, Tăng, Phật. Mục đích của chánh đẳng chánh giác, quyết đến nẻo giải thoát hoàn toàn, không vì nhỏ hẹp mà đem mình vào sự trói buộc phiền não. Vậy nên theo giới luật Phật xưa, nhà tăng không ở một chỗ thâu nhận tín đồ bổn đạo riêng, mà phải vân du khắp nơi cùng xứ, vừa học với tất cả mọi người, vừa đem sự học của mình giúp ích cho ai nấy trao đổi lẫn nhau, để cho sự học nhờ kinh nghiệm trong chỗ hành, mà chóng được đủ đầy toàn giác.

Vả chăng cõi đời trường học, có đủ nhiều lớp, từ thấp đến cao để dắt người, từ ác, đến thiện, đến huệ, đến giải thoát, đến Niết bàn, mà giáo pháp khất sĩ lại là mức cao viễn cuối cùng tối thượng! Người được đây là đã phải trãi qua bao lớp học của các tông giáo cư sĩ; thế là các phái môn đàng nào cũng hữu ích cả. Bởi Giáo hội Tăng già Khất sĩ tu Giới Định Huệ, không có sự học, nương văn tự của bước đầu. Khất sĩ là pháp tu hành sau sự tập học của cư sĩ, chỉ là một lớp riêng rất ít của chúng sanh. Thế nên chư Tăng không bỏ những ai muốn theo, nếu có thể giữ giới luật được, mặc dầu cư sĩ nào muốn bước vào, và không bao giờ thâu nhận số đông lớp yếu nhỏ.

Trường đạo đức võ trụ, chúng sanh là học trò chung, các lớp chung, càng nhiều rộng, càng quý ích, để dắt người từ bực, bước lên đến mục đích chung, là sáng suốt hiền lương, và khỏi khổ. Giải thoát từng lớp để tiến đến sự giải thoát hoàn toàn, mà thiết tưởng mỗi người, chắc không ai có ý gì muốn trói buộc, để làm trễ nãi cuộc tiến hóa chung. Ấy thế, khất sĩ là một lớp trong nhiêàu lớp, không phải hiệp, không phải chia.

Chư tăng quen sống với lẽ chung bình đẳng, học cho mình, dạy cho người tránh khổ cho tất cả, mong cầu sự giải thoát, rảnh rang, yên tịnh, dứt nghiệp xa hẳn vật chất của tiền, không biết đến việc ngoài chi cả. Cho nên về tứ sự: sự ăn, sự mặc, chỗ ở, khi bệnh nếu cư gia sẵn lòng hộ pháp làm duyên, thì quý ngài có thể hộ cho thực phẩm đơn sơ chay lạt, đạm bạc, cốc lều tranh lá, chăn áo vải bô, thuốc men thường thức... Để không đến nỗi phải vướng tiếng nhiễm ô vật chất, tham đắm bạc tiền, biếng nhác lánh đời, ăn hại xã hội, hoặc đạo chỉ mong cầu danh lợi, đó thôi.

Về trật tự mà quý Ngài sắp dùm được sự thanh tịnh cho Tăng, thì các tăng sư sẽ thường tới lui, nhắc nhở cho quý Ngài, và được chỗ nghỉ đêm trong khi mưa bịnh, giữa cõi đời ly loạn, thì chúng tăng rất xin đa tạ, cầu chúc quý Ngài, mau nhẹ nghiệp, vượt lên bờ giác, nương theo chúng tăng để hiệp hòa chung sống nơi nhàn cảnh.

Xin nán đợi các Ngài!
Đoàn Du Tăng Khất Sĩ


TẠI TỊNH XÁ MỞ CỬA TỪ 7 GIỜ SÁNG TỚI 5 GIỜ CHIỀU


Ngoài giờ thuyết pháp hoặc có sự việc.
Ni lưu có đến, nghỉ chân nơi nhà ngoài.
Thiện nam có đến, nghỉ chân nơi nhà ngoài.
Tín nữ có đến, nghỉ chân nơi nhà ngoài.

Xin phải giữ sự trang nghiêm thanh tịnh, trẻ em đến hãy theo chỗ riêng nam nữ, phải có mặc áo quần, chớ phá giỡn la luồng tuông. Cốc riêng của Tăng xin chớ ai vào, chớ ai ngồi chung với Tăng một tấm chiếu, chớ đưa lấy đồ trao tay, nhưng phải có sự chứng minh.

Xin chớ cười cợt nói giễu, nói lớn tiếng.
Xin đừng sai khiến, ra lệnh, bảo rầy.

Ni cô nếu vào tịnh xá tăng, phải đi từ 4 người sắp lên, tín nữ phải đi từ hai người sắp lên, chớ ở quá hai giờ đồng hồ, xin chớ nói hỏi nhiều, cũng đừng nhắn đưa thơ từ giấy tờ, tin ngoài gì cho Tăng cả!

Thiện nam nương theo Tăng, tín nữ nương theo ni.

PHẬN SỰ CỦA PHẬT


1. Trong buổi mai Ngài ngự đi trì bình khất thực, trưa độ cơm.
2. Trong buổi chiều Ngài thuyết Pháp.
3. Trong buổi hoàng hôn Ngài giáo hóa chư Tăng.
4. Trong canh khuya Ngài đáp lời vấn của chư thiên.
5. Trong canh 5 Ngài xem xét đến chúng sanh và nhân duyên

PHÉP CƯ SĨ

Tam Tụ (gom hiệp sống chung)


1.Dứt các điều ác.
2.Làm các điều lành.
3.Từ bi tế độ tất cả chúng sanh.

Lục Hòa (yên vui hòa nhã)

1.Thân cùng nhau hòa hiệp ở chung
2.Miệng không tranh đua cãi lẫy.
3.Ý ưa nhau không trái nghịch.
4.Giới luật đồng cùng nhau tu theo.
5.Kiến thức riêng chỉ giải cho nhau.
6.Lợi quyền chia đồng với nhau.

1.- NHƠN LOẠI: 

Nhơn ái, nhơn từ, nhơn đức, lòng nhơn là đức từ ái, có chơn chánh mới có nhơn, nhơn là hột giống (loài người có được hột giống biết, giác Phật). Nhơn đạo là không sát sanh người, thú (cây cỏ). Nhơn người là biết có người, người là một nấc thang thiện, cao hơn cõi ác thú sình lầy; kêu gọi là giới BẤT SÁT bước đầu. Nói hẹp là thân sống với một gia đình, giáo lý trăm năm, nương theo vật chất sắc thân. (Nhơn đạo cũng là trung đạo, Niết bàn). Người là cõi dâm giới.

2.- CHƯ THIÊN: 

Là trí thanh thiện có học đạo lý, trí sống với xã hội một xứ, giáo lý ngàn năm, nương theo tinh thần, là nấc thang trên nhơn loại, có ba cõi.

a. Dục giới: 

Còn ưa muốn (của 6 thức) Bậc trì giữ năm giới:

1.Không sát sanh
2.Không trộm cắp
3.Không tà dâm
4.Không nói dối
5.Không uống rượu


Mỗi tháng ăn chay sáu ngày, về theo Tam bảo Phật Pháp Tăng (hết dâm, còn dục ở trong nhà, gọi dục giới)

b. Sắc giới: 

Còn chấp có sự thiện, có các pháp (của 18 giới), Bậc trì giữ 8 giới gồm 5 giới kể trên cộng thêm:

6.Không ngồi ghế cao, nằm giường rộng, chiếu lớn xinh đẹp.
7.Không nghe xem hát múa đờn kèn, chỗ vui đông yến tiệc.
8.Không trang điểm phấn son dầu hoa, áo quần hàng lụa tươi tốt.


Trường chay về theo Tam bảo Phật Pháp Tăng (hết dâm, hết dục, ở chùa am, nam theo xứ nam, nữ theo xứ nữ)

c. Vô sắc giới: 

Chấp không không, không cái có, không phân biệt, không biên lường, bỏ nhớ tưởng, bậc trì giữ mười giới gồm 8 giới kể trên cộng thêm:

9.Không ăn sái giờ, từ quá ngọ đến ngọ mai, ăn chay.
10.Không rớ đến tiền bạc vàng, của quý, đồ trang sức.

Về theo Tam bảo Phật Pháp Tăng. Cất cốc ở riêng một mình trong núi, chỗ vắng, động, hang (hết dâm, hết dục, hết sắc)

3.- DÂN XỨ PHẬT: 

Hộ pháp chư thiên, cận sự nam, cận sự nử, là người cư sĩ, gần Tam bảo, tập xuất gia:

a.Người giữ 5 giới, mỗi lần tới chỉ 2 tiếng đồng hồ nghỉ chân nơi nhà ngoài.
b.Người giữ tám giới được ở từ sáng tới chiều, nơi nhà ngoài.
c.Người giữ 10 giới được ở luôn ngày đêm nơi nhà ngoài.

Người không có giới mặc áo quần đen.
Người 1 giới mặc áo trắng quần đen.
Người 5 giới mặc áo quần trắng.
Người 8 giới mặc áo dà quần trắng.
Người 10 giới mặc áo quần dà.

Áo trung bình: Bề dài xương sống 1 mét, kích 0,7 mét, tay 0,85 mét, ống tay 0,2 mét, cổ, lai, bâu, đinh, nếu người nam thì 0,03 mét, nữ thì 0,02 mét. Đây là áo trung đạo bình đẳng không giai cấp, cùng là áo đạo của tất cả cư gia.

Tăng là người giữ 250 giới, Ni giữ 348 giới, đắp y vàng, mang bát nhà sư.

Những người vào cận sự Tam bảo tập xuất gia, có ba bậc.

a.Người mới nhập đạo còn tới lui cõi thế kêu là nhập lưu.
b.Người mới nhập đạo còn tới lui cõi thế một lần, kêu là nhứt vãng lai.
c.Người không tới lui cõi thế nữa, kêu là bất lai.

Bậc xuất gia thọ giới rồi kêu là vô sanh.
Bậc giác ngộ nhân duyên rồi đi du hành một hai người, kêu là Duyên Giác.
Bậc đi giáo hóa chúng sanh thâu đệ tử đông, kêu là Bồ Tát.
Bậc hưu trí nghỉ ngơi kêu là Như Lai.


Đó là 7 đạo, bậc nào đắc trí huệ và quả linh thì gọi là đắc quả (có 7 quả trong 7 đạo). Gồm hết là một Niết bàn, chót hết, nín nghỉ hoàn toàn là sự kết quả của đạo lý gọi chư Phật. Phật là tâm lành sống với cả chúng sanh một thế giới, giáo lý muôn năm. Vậy nên cư sĩ đừng tham danh lợi tình thương, mà phải khổ, chết, điên, cuồng vô ích.

a.Người không giới ở theo xứ không giới
b.Người một giới ở theo xứ một giới
c.Người năm giới ở theo xứ năm giới
d.Người tám giới ở theo xứ tám giới
e.Người mười giới ở theo xứ mười giới
f.Người 250 giới ở theo xứ 250 giới (là tăng chúng)

Như vậy hạnh phúc sẽ toại lòng, do giới luật mà được yên vui, yên vui nhiều ít là do giới luật, hiền theo hiền, dữ theo dữ tự mình. Chớ đừng quyến luyến tình nghĩa, tham tiếc lợi, mong cầu danh, mà ở chung lộn xộn thiện ác một gia đình, tu không tu, một xã hội mà phải khổ với nhau, phải quấy trắng đen, hai nẽo, không ai vừa ý ai thì không thể hòa, không hòa là không đạo, không yên vui chung sống!

(Trong đời nếu không có giới luật hoặc giới luật khác nhau thì nào phải là vua quan cha con chồng vợ xã hội gia đình, mà tức là giặc nghịch chính mình cũng làm giặc lấy mình nữa)

LỜI KHUYÊN CƯ SĨ


Đã là cư sĩ thì cần phải hiểu biết mục đích của mình, chúng sanh là từ cái không biết đến có biết, và biết hoàn toàn (hay toàn giác là Phật), chưa biết đến biết và đã biết (là nghỉ ngơi). Từ tối đến sáng và yên lặng. Chúng sanh là học trò vô minh dốt nát đến cư sĩ tại gia, đến Tăng Khất sĩ xuất gia, và đến vô thượng sĩ là Phật. Nghĩa là: Học ở nhà, đi du học, và học đầy đủ.

Của cải, sắc thân, quyến thuộc, cuộc đời, thảy bỏ hết, mà chỉ còn tồn lại cái giác biết, của sự học là hết mê lầm, thì mới không còn sự khổ.

Vậy nên đời là trường học chung, càng nhiều lớp phái môn càng tốt, chớ chê bai chỉ trích lẫn nhau, bởi không phải tất cả đều học chung một lớp được. Chúng sanh đủ cỡ tấn hóa không đồng mà một người học, chín người phá, lại chín người học một người hại, vậy phải làm sao cho mười người đều mắc phải có sự học, có hiểu chơn lý mới biết thương yêu nhau. Nên trường phải nhiều lớp, mỗi lớp phải nhiều ngăn, lớp trên thương dắt lớp dưới, lớp dưới mến kỉnh lớp trên để sống chung, chung học. Ai thi đậu là vui, ai học giỏi thì yên, trước dùng văn tự mở trí, để đi sâu vào chơn lý nhiệm mầu, hãy chất chứa gia tài là Pháp bảo. Tạo tâm chơn làm sự sống, giới hạnh làm chỗ ở, từ bi làm quyến thuộc, mà cùng nhau dứt bỏ sự chơi bời.

Như cõi đời hôm nay, giờ chơi đã hết rồi, bây giờ phải chăm chỉ học hành. Trường học thế giới đã mở cửa là chiến tranh. Học sanh xưa nay bỏ học quên tu lu bù lem lấm, bỏ đạo theo đời, rối khổ mệt nhọc. Nay là lúc phải bỏ ham chơi, đi tìm học, đặng tìm hạnh phúc sự sống trở lại yên vui.

Trong trường học, học trò phải vượt qua đủ các lớp từ thấp đến cao, mà giáo phái, tông môn nào cũng là của mình tất cả, hoặc đến rồi, hoặc chưa đến, chớ không phải ở hoài một lớp học một bài giữ mặt đất, loài người, mà hại kẻ khác, để sống hoài một tuổi, ở một nơi đặng chặt đứt sự tiến hóa của mình và ai nấy.

Bởi vì giáo lý chủ nghĩa nào cũng phải cả, mà chỉ phải do nhơn duyên trình độ, hoàn cảnh của mỗi người thôi. Không ai có thể theo ai được, thì cãi mà làm gì? Và cũng không ai có quyền gì áp chế ai được. Biết đâu sao này mình phản lại lý thuyết của mình mà theo kẻ khác, bởi sự học đã đi tới, hoặc ý đã bị xoay theo cảnh ngộ thời duyên, rồi chừng đó ta lại còn nói ai được nữa! Chúng sanh đều biết mục đích của sự sanh ra là học, thì nào có ai đã học đủ, mà mong đến ngôi vị chủ tể tổ thầy? Nào ai đã dạy được bậc tài giỏi hơn mình, vậy thì lấy gì trị phục người, mà trị phục để làm gì? Đâu phải là sự đánh đập chém giết, vả lại sự sống của ai nấy cũng như nhau. Còn như mình nào đã học giỏi hơn hết thảy, vì càng học càng dốt kia mà? Hơn thì chớ chắc hơn, kém thì nên gọi kém. Vậy mỗi ai nấy lo tu học, chẳng là hay hơn hết, dòm ngó nhau mà làm gì? Chúng ta nên ráng lo học, để cho được sáng suốt hiền lương và khỏi khổ. Chớ nói liều: Không học là hay. Bằng chẳng có thầy thì hãy theo bạn, để cho có người dạy dỗ mỗi ngày. Hoặc chọn người giám đốc, đức cao trí sáng, để nhờ sự sắp đặt chỉ bảo mới nên (bởi đức quý hơn tài và được bền dài mãi mãi)

Ráng lo học hành, vui chung, chung sống, dứt bỏ điều càng, tập gìn giới hạnh, để tạo một phong hóa trang nghiêm, sắp đặt chương trình kỷ luật, phân biệt cho xa khác với trẻ em, tạo nên thiên đường, Phật quốc trên mặt đất, cùng nhau chung góp trí lành để lập thành đạo tràng, cho mai hậu ấy mới là người đáng sống của đời nay.

Mỗi người phải biết chữ.
Mỗi người phải thuộc giới.
Mỗi người phải tránh ác.
Mỗi người phải học đạo.

Trò nào quay về thầy nấy, lo ăn và học, chớ ở lang thang bởi chen lộn sợ sệt mới phải phiền não cùng nhau. Giáo nào về lớp nấy, môn nào về bàn nấy để hiệp hòa chung sống; da nào nồi cơm nấy, áo nào tô canh nấy, mới mong tránh khỏi sự phiền hà. Đến bao giờ chúng sanh trí lớn, học cao, mới mong được sự không còn ai kia khác. Nếu bằng ta muốn dạy người thì tốt hơn là để tự người tìm rước thỉnh cầu. Đã là chúng sanh, thì ai cũng là chữ sĩ học trò; vậy chúng ta thử hỏi: Môn học nào mới bổ ích? Một khi đã xét kỹ và lựa chọn xin chúng ta siêng năng học tập, bỏ qua sự ăn chơi lêu lõng, thì mới mong được sự đắc quả thành công.

Vậy nên xin khuyên người cư sĩ tinh cần giữ giới, định tâm lo học, chớ day qua ngó lại phí mất thì giờ, xao động lớp học, có lỗi không nên.

Thánh kia mà còn chẳng nói tin ý của mình thay huống chi là chúng ta, mà đi chê kẻ khác, vậy nên nhớ rằng; Thiện mới là phải hơn ác thôi, tranh cãi bao giờ cũng sái trật! (Dĩ hòa vi quí).

PHÉP ĐỊNH TÂM CƯ SĨ


Muốn ĐỊNH thì phải chánh.
Muốn CHÁNH thì phải thiện.
Muốn THIỆN thì phải phân biệt ác để dứt trừ.
Không ác thì khỏi quả báo hành phạt khổ sở.
Muốn ĐỊNH thì phải trong sạch không không thanh tịnh.
Muốn TỊNH thì phải có sự vui.
Muốn VUI phải có mừng.
Muốn MỪNG phải có sự tầm tõi quán xét.
TẦM SÁT thấu hiểu chơn lý lẽ đạo, mới có sự mừng.

Hết mừng mới đến vui. Hết vui mới đến tịnh sạch. Có tịnh sạch mới có định! Kẻ ác là bởi không định, kẻ thiện mà định không được thì khổ. Kẻ trí không định thì điên.

Có định mới dứt khổ, vì khổ mới cần định! Cho nên gọi định là đạo Niết bàn, để kết quả chơn như, sau khi giác ngộ. Chơn như sau vọng động, định sau khi loạn, giác sau khi mê. Lìa đoạn đến định là do nhờ chánh kiến của tầm sát. Được tầm sát là nhờ thiện ngăn ác, tức là giới luật, giới nhiều định nhiều, giới ít định ít. Loạn là thất bại hư hoại, giả dối, bên ngoài, không không chẳng được có gì ích lợi, cái có cái ta chơn thật! Cũng ví như con sâu đeo ngoài vỏ trái, bị nắng mưa sương gió, nhọc sức trơn trợt leo trèo quẩn lộn. Định ví như vào tận trong hột trái, ở trong ổ ấm để ngủ nghỉ ăn no, nên kêu là nhập định. Người ta hằng ví rằng: Giới luật là vỏ trái cây, trí huệ là thịt cơm định là hột, chơn như ấy ngòi mộng, tức là Phật. Thế nghĩa là giới định huệ nuôi chơn như, là sự giác ngộ ấm kín trong cõi trần.

Có tầm sát, hỷ lạc, tịnh, mới có định. Muốn tầm sát thì phải thiện. Người thiện không bị rối khổ, mới có thì giờ thong thả, mà tìm xét sự giải thoát cuộc đời, để bước đến cõi lý trí thanh nhàn khoái lạc. Chẳng phải là sự học giỏi thông minh mà thành công. Người ta dầu học bực nào, nhưng nếu ác, thì oan trái nặng nề, bắt buộc phá hại, đốc xúi kéo lôi, dễ gì tự chủ mà hòng làm nên kết quả? THIỆN là định, Ác là loạn. TRÍ là hiểu trắng, kẻ hiểu trắng lẽ nên, không phải là lời nói, chữ viết, thông thái, học nhiều sức lực, nghề hay, mà không cần phân chia thiện để làm ác rồi phải chịu đau sầu! Có giới mới có trí, vì giới là ngăn ranh của thiện ác, mà nơi người thiện, giới tức là trường học, nhà lớp chỗ ở của học sanh, ở đó định tâm, thì được học là trí huệ mới đến nghỉ ngơi “toàn giác”.

Vậy muốn thiện phải hiểu chơn lý lẽ thật cõi đời mới biết được nẻo tới lui, sanh tử, mà không phải là sự hủy mạng liều càng. Có hiểu chơn lý mới chịu dứt bỏ lục trần, không bị ngộp trong trần vật chất, không bị bao vây đen tối, thì mới hết ác hung mê muội. Loài người mà trí soi vẹt được: lục trần. Sắc thinh, hương vị, xúc, pháp, mới thiện lành, vượt lên Trời Phật, để thoát ra khỏi địa ngục vật chất nấm mồ.

Vả lại:

1.- TIỀN BẠC là không có, trước kia thú ăn trái lá cây, cổ nhơn cuốc đất cấy cày, tiền bạc không dùng, nên là sạn sỏi.

2.- RUỘNG ĐẤT cũng không, đất của nước lóng sanh, cỏ cây người thú mới tượng ra, ai ở đâu đi đâu cũng được, sanh thì ở, chết lại đi, kẻ đi qua, người sắp đến, vốn không có chủ tớ ít nhiều; Trước sau tạm ở, để tấn hóa học hành, bước lên tinh thần Trời Phật. Chẳng có sự tham tiếc mua gì của lẽ tạo hóa nhơn duyên được.

3.- CỦA CẢI, TÀI HAY, NGHỆ NGHIỆP, cũng là không. Xưa hiền thánh nuôi thân để trau tâm, thanh bần đơn giản thua kém bề ngoài, mà trong tâm lại giàu sang trí mạnh, ấy nào phải khoe khoang, tôi tớ không công cho xác thịt, mảng lo tạo sắm, giữ gìn mê chơi, mất học, bỏ thì giờ.

4.- VUA QUAN, GIÀU SANG, TỘI DÂN, NGHÈO KHÓ, cũng là không có, Vua quan vì hoàn cảnh, do người tôn lập chẳng phải tự mình xưng, giàu sang tự người giúp đỡ, nào phải tại giựt giành, sự sống chúng sanh là như nhau bình đẳng, kẻ thiện từ, há lại có sự nghèo dân tội, cho ai sao? Trong đời chỉ có ông Hiền thiện là đúng hơn hết, vì thiện là sống và yên vui đi tới, ác là chết và rối khổ đi lui!

5.- SỐNG CHẾT vốn không, chỉ là sự tấn hóa, bỏ vỏ lấy hột, bỏ xấu lấy tốt, bỏ nhỏ lấy lớn, như cổi bỏ áo quần cũ dơ, thay đồ mới sạch, như bỏ cái chán nhàm khổ nhọc, đổi cái già bịnh, để đem lại sự tươi xuân. Có chết mới biết sống, biết giác ngộ lẽ thật mà tấn hóa!

6.- CHA CON không có, tiếng cha con là giáo lý cho vay và trả nợ của kẻ không đường, chớ chúng sanh tiến từ cỏ cây thú người do tứ đại, sau trước là kẻ đồng hành sanh ra từ duyên nghiệp; kẻ không biết đường đi mới núm níu nương nhau, cho là nghĩa phận, sự vần công. Quá khứ vị lai có biết đâu ai vầy ai khác, sự chen lộn trong hầm trần. Bằng mà bước lên đi tới dắt đường, dứt sự trói buộc chết chùm, ấy mới gọi là hiếu đạo.

7.- CHỒNG VỢ NỮ NAM cũng không có, chỉ thật cái biết là chúng sanh, sắc thân tội nghiệp nương theo cây thú, đực cái đổi thay, đâu có tự cao tốt đẹp, luyến ái giữ gìn, nối dòng sanh sản, khốn họa muôn đời!

8.- SẮC ĐẸP ra ma, tốt qua xấu đến, thân tướng không thường, bóng hình tan rã, tiếng thanh lời dịu, mùi thơm vị ngọt, êm láng mịn màng, các pháp lăn xoay; gia đình xã hội, quyến thuộc bà con danh lợi, sắc tài... Thảy là mộng ảo điển chớp mây bay, vọng động không ngừng, lý lẽ không thông, phiền não không rồi, vô ích mà không thật. Chết hết rồi thì còn âu sầu sợ sệt, áo não, đau thương, vơ vẩn mãi mãi, chỉ một bóng hình mình mang chịu, mà nào có ai chia sớt hỏi han giùm? Âu là ta để tâm niệm Phật, Pháp, Tăng thanh tịnh, chẳng là an nhàn khoái lạc khỏe khoắn hơn nhiều, mà lại vui hay, cao nhẹ biết là bao!

BƯỚC CHÂN CƯ SĨ

Bước chân vào cõi đời gian nguy, người cư sĩ phải cần đem theo giới định huệ. Vì không thế nào với cái tham sân si mà được sống đời nên công kết quả cho được?

Một ông vua mà còn chút điểm say mê, một vị quan tâm còn sân giận, một người giàu sang mà ý còn tham lam, là sẽ thất bại (vì không đạo). Cho đến đối với tất cả các hạng sĩ, nông, công, thương nghèo nàn, dân tội, mà còn tham sân si, thì không được tấn hóa, lợi ích và bình yên lâu dài. Từ trong gia đình đến ngoài xã hội, cùng khắp cả thế gian, tham sân si là cái chết sình từ trong ruột mà ra, nó sẽ giết thân mạng ta, của ta và tất cả trước khi ta lo làm, hoặc lúc đang lo làm, cùng lúc mới lo làm vừa xong, nó không bao giờ để yên cho ta hưởng được kết quả! Chính tham sân si là ác độc, là khổ hại. Đối trị nó chỉ có đạo đức, của giới định huệ mà thôi. Vậy nên mỗi ai đều phải xuất gia khất sĩ, để tu tập học hành pháp bảo ấy.

Trước khi để chơn vào nơi mọi chỗ, hay muốn nối tiếp mọi việc, ta cần phải đứng im lại một lúc để xem xét mình kỹ lưỡng, rồi sẽ bước chân vào. Người tuổi trẻ đúng 18 tuổi, phải nghỉ chân vào trường đạo hai năm, để tập sự khất sĩ. Như vậy về sau tu hành luôn, để giáo hóa chúng sanh mai hậu là càng quý, còn bằng có trở ra lìa cõi Phật, thì cũng còn được đứng vững bậc Trời, người, là do nhờ có tu tập đức hạnh hiểu thông đạo lý, hiền lương sáng suốt. Hột giống trì giới nhập định trí huệ đã có sẵn trong mình, thì được mong sự thành công trong mọi việc.

Người từ 20 tuổi tới 48 tuổi, mỗi người đều phải lựa thì giờ để ra hai năm đi tu học, càng sớm càng hay. Sự đi tu học cần thiết hơn miếng ăn thân sống, quý nhứt là sự trang sức chỉnh đốn cõi đời, lập xứ trang nghiêm tịnh độ cho chúng sanh trong ngày hôm nay.

Người già 48 tuổi, phải đi xuất gia khất sĩ hết thảy; người bịnh tật ở tu học tại chùa. Người đủ căn duyên phước đức, thì ra đi hành đạo giáo hóa chúng sanh khắp nơi, cho đến ngày giờ nghỉ ngơi hưu trí.

Cha mẹ chớ bắt con nuôi, khi tuổi già 48, xác thân vật chất đã hao mòn; mà đến lúc phải sống bằng đạo đức tinh thần, để đem giáo lý chỉ dạy cho kẻ nhỏ về sau. Dầu ít dầu nhiều, do sự học hành kinh nghiệm, đã từng trải qua nhiều năm khắp xứ, đặng dắt đường dẫn lối cho trẻ nhỏ lầm sai. Vừa là sự thi ân không cầu báo, để tránh nạn cha chết con già, ngàn đời dốt học, thân hư, tâm trệ. Vừa là tránh sự ích kỷ tình thương, mê đắm lục trần, cùng sự luyến ái quyến thuộc luân hồi lộn kiếp. Còn kẻ làm con chẳng đặng để cha mẹ nuôi mình, khi đã nên 18 tuổi, phải tự mình tìm lo ăn học, đi tu. Chẳng nên làm tội kéo níu cha mẹ, mà gọi là hiếu thảo (không tròn).

Phải nuôi con 18 năm, y như cha mẹ nuôi mình khi trước, như vậy là trả đủ, nuôi con tức đền ơn cha mẹ; hoặc người có học, thì phải lo tu đặng giáo hóa, cứu độ cả chúng sanh chung, mà đền ơn thí chủ cha mẹ muôn đời mới phải.

Kẻ có dư nên bố thí giúp cho người thiếu, ta cho người vay, người trả cho lại kẻ khác, kẻ khác nữa trả lại ta, khi ta thiếu, hụt; chan hòa cho nhau, theo lẽ lăn xoay tiến hóa của võ trụ, chớ đừng đứng lại đi lui, mà phải đụng chạm, trở ngại cho nhau.

Nếu là kẻ thật hiền, thì phải thấy rõ mục đích sanh ra đời là để học, công ơn cơm áo của cỏ cây thú người Trời Phật, đất nước lửa gió, từ xưa nay phải ráng lo đền trả bằng cách thi đậu đắc quả làm Phật, thuyết pháp cứu độ đông người, theo lòng mong cầu của họ. Chớ đừng nghỉ quấy, bỏ sự ăn học lỡ dở, để đem thân đi làm nô lệ cho một hai người trong ngày hôm nay; dầu có ai mê muội hỏi đòi, thì ta mau hãy giải rành cội lý. Ân nghĩa hãy dẹp qua một bên đó, đợi ngày sau, còn bây giờ ta tiếp lo ăn học tu hành. Nếu lo sớm trả vần công, ắt là dốt học, đã không rồi, còn thêm tội ác khổ não, mà không có được sự chi ích lợi. Nên phải tập sống theo phép không ta không của ta theo lẽ thay đổi tiến hóa, người này nấu cơm, người khác ăn; người kia may áo người nọ mặc, kẻ khác cất nhà người này ở, kẻ kia đau, người nọ nuôi. Mỗi năm đổi một bộ áo cho nhau, hai năm đổi nhà cho nhau, đổi cha, đổi mẹ, đổi anh em, con cháu, đổi thầy, đổi bạn, đổi học trò, để chung sống, chung học, theo trung đạo chánh đẳng chánh giác vô thượng, để diệt bỏ vô thường tương đối của hai bờ lề thái quá bất cập, khổ não không ta.

Mười người phải xuất gia khất sĩ một, vì ngoài cách tu ấy, không có pháp thứ hai nào diệt trừ tham sân si ác độc được. Và cư sĩ với khất sĩ kẻ xin tài, người xin pháp; tài pháp bố thí trao đổi cho nhau, cũng như có đủ linh hồn xác thịt, thân tâm, vật chất tinh thần thì mới sống. Mà cần nhứt là đạo lành phải còn giữ mãi mãi, chớ nếu mất đạo thì trần thế không còn. Về xác thân ta thì có mất, chớ tâm hồn đạo đức vĩnh viễn, không tan hoại. Ai ai cũng đều như vậy hết.

Giàu sang nên phải xuất gia! Nghèo nàn nên lo cúng thí, thì nạn chết khổ tự nhiên sẽ hết.
CƯ SĨ
Tác giả: Đức Tổ Sư Minh Đăng Quang
NT. TUYẾT LIÊN chuyển thơ

---o0o---
GIÁO HỘI TĂNG GIÀ DU TĂNG KHẤT SĨ

GIÁO HỘI TĂNG GIÀ DU TĂNG KHẤT SĨ

Chúng tôi khất sĩ du tăng,
Sống theo Chơn lý lẽ chung muôn loài.
Không chia chủng tộc thú người,
Không phân giai cấp Phật trời, hèn sang.
Mục đích chính đã và đang
Hướng đến giải thoát hoàn toàn mực trung.
Chánh đẳng chánh giác trung dung
Không vì nhỏ hẹp buộc mình phiền ưu.
Vậy nên Phật dạy giới điều,
Tăng không chỗ trụ vân du ta bà.
Không thâu bổn đạo riêng ta,
Xin với tất cả mọi nhà mọi nơi.
Vừa đem sự học giúp đời,
Để được kinh nghiệm từ nơi thực hành.
Giúp cho tất cả chúng sanh,
Mà mình cũng được chóng thành toàn năng.
Trường học cuộc đời phải chăng,
Có đủ nhiều lớp, nhiều phần khác nhau.
Dắt lần từ thấp đến cao,
Từ ác đến thiện, cùng nhau tiến dần.
Giáo pháp Khất sĩ du tăng
Niết bàn tối thượng pháp hành cao thâm.
Người được đến đây đã từng,
Trải qua nhiều kiếp học cùng với nhau.
Tông giáo, môn phái, pháp nào,
Cũng đều ích lợi nâng cao tâm lành.
Giáo hội Tăng già tịnh thanh,
Sau sự tập học pháp lành cư gia.
Giới, định, huệ hạnh Thích Ca,
Những ai chí nguyện ly gia cần cầu,
Chư Tăng không bỏ người nào,
Nếu như giữ được quy điều luật răn.
Thuyền giáo hội hiệp hòa tăng,
Không thâu nhận kẻ kém căn đông nhiều.
Trường vũ trụ với mục tiêu,
Chúng sanh các lớp càng nhiều, càng hay.
Dắt người từng bực, từng bài,
Khéo khuyên nhắc dạy đường ngay nẽo lành.
Giải thoát từng lớp tiến dần,
Đến sự giải thoát hồng trần thảnh thơi.
Mà thiết tưởng nghĩ mỗi người,
Không ai muốn trói buộc người làm chi.
Làm trở ngại trên đường đi,
Trễ nải cuộc tiến hóa khi chung đường.
Khất sĩ một lớp trong trường,
Không chia, không hiệp con đường trung dung.
Chư Tăng sống với lẽ chung,
Bình đẳng tất cả để cùng với nhau.
Học, dạy để tránh khổ đau,
Giải thoát yên tịnh mong cầu rảnh rang.
Dứt nghiệp xa hẳn của tiền,
Không chú ý đến các duyên bên ngoài.
Cư gia hộ pháp các Ngài,
Hộ cho thực phẩm ăn chay thông thường.
Cốc lều tranh lá tạm nương,
Chăn áo bô vãi, thuốc thường cỏ cây.
Để không bị đời chê bai,
Nhiễm ô vật chất, đắm say bạc tiền.
Biếng nhác lánh đời ẩn dương
Hoặc mượn tướng đạo hay phường giả danh.
Về trật tự xin sắp dùm,
Chỗ nơi thanh tịnh cho tăng hành thiền.
Đồng thời có chỗ qua đêm,
Che mưa đở nắng giữa miền nhân gian.
Được vậy chư Tăng sẽ thường,
Tới lui chỉ dạy con đường tu tâm.
Rất xin đa tạ tri ân,
Chúc cầu nhẹ nghiệp bước chân lên thuyền.
Nương chúng Tăng để được duyên,
Hiệp hòa chung sống nơi miền tây phương.
Kính xin kíp kíp liệu lường,
Đoàn Du Tăng nán đợi người hiền bước lên.
TẠI TỊNH XÁ

TẠI TỊNH XÁ

Tịnh xá mở cửa mỗi ngày,
Từ bảy giờ sáng đến năm giờ chiều.
Ngoài giờ thuyết pháp giảng kinh,
Hoặc có sự việc thình lình mới đi.
Thiện nam, tín nữ, chư ni,
Có đến xin ở nhà ngoài nghĩ chân.
Trẻ em, nam nữ riêng phần,
Ăn mặc kín đáo áo quần trang nghiêm.
Không nên phá giởn luồng tuông,
Cốc tăng chớ đến, chiếu riêng chớ ngồi.
Đưa đồ xin chớ trao tay,
Chứng minh có sự chạm tay chú nguyền.[1]
Xin đừng ra lệnh bảo rầy,
Cười cợt lớn tiếng, khiến sai mọi người.
Ni cô phải từ bốn người,
Tín nữ phải có hai người mới vô.
Không quá hai tiếng đồng hồ,
Cũng đừng đưa gởi giấy tờ nhắn tin.
Thiện nam gần Tăng học hành,
Tín nữ học hỏi tu hành theo ni.

PHẬN SỰ CỦA PHẬT

PHẬN SỰ CỦA PHẬT

Buổi mai Đức Ngài ngự đi,
Trì bình khất thực, trưa thì độ cơm.
Buổi chiều Ngài thuyết pháp chơn,
Hoàng hôn lúc Phật vì Tăng giáo truyền.
Canh khuya đáp vấn chư thiên,
Canh năm xem xét nhân duyên mọi người.

PHÉP CƯ SĨ

PHÉP CƯ SĨ

Tam tụ (gom hiệp sống chung):
1. Dứt các điều ác.
2. Làm các điều lành.
3. Từ bi tế độ tất cả chúng sanh.
Lục hòa (yên vui hòa nhã):
1. Thân cùng nhau hòa hiệp ở chung
2. Miệng không tranh đua cãi lẫy.
3. Ý ưa nhau không trái nghịch.
4. Giới luật đồng cùng nhau tu theo.
5. Kiến thức riêng chỉ giải cho nhau.
6. Lợi quyền chia đồng với nhau.[2]

---o0o---

1. Nhơn loại, nhơn đức, nhơn từ,
Lòng nhơn ban rãi đức từ thi ơn.
Hột giống người là lòng nhơn,
Hột giống Phật, biết, giác chơn tỏ tường.
Người là nấc thang thiện lương,
Cao hơn cõi ác thú, đương dưới lầy.
Bước đầu giới sát cấm ngay,
Nói hẹp sống với tâm người thuần lương.
Giáo lý trăm năm chủ trương,
Nương theo vật chất biết thương gia đình.
2. Chư thiên là trí thiện lành,
Người học đạo lý được thành chư thiên.
Giáo lý ngàn năm cao trên,
Là nấc thang thiện hơn trên loài người.
a. Dục giới lòng còn muốn ham
Bậc trì năm giới của hàng cư gia.
Không sát, không trộm, dâm tà,
Nói dối, uống rượu cùng là chất say.
Mỗi tháng ăn chay sáu ngày,
Về theo Tam bảo ở ngoài tập tu.
b. Sắc giới lấy thiện làm đầu,
Trì giữ tám giới nhịp cầu cư gia.
Hết dâm, hết dục, ở nhà (chùa),
Nương theo tam bảo tại gia tu hành.
c. Vô sắc giới chấp không không,
Giữ mười giới, ăn ngọ chay, không tiền,
Cất cốc một mình ở riêng,
Hết dâm, hết dục, cắt duyên hồng trần.
3. Dân xứ Phật cận sự gần,
Là người cư sĩ tập lần xuất gia.
Người giữ năm giới ở nhà,
Người giữ tám giới lân la sáng chiều.
Mười giới được ở ngày đêm,
Chỗ quy định là “nhà ngoài” cư gia.

---o0o---

Người không giới, áo quần đen,
Người một giới, mặc quần đen áo dài (trắng).
Năm giới, áo quần trắng tươi,
Áo đà quần trắng là người tập tu.
Áo quần đà mười giới như,
Người cư sĩ đang tập tu nhà ngoài.
Áo trung bình rộng và dài,
Đây áo trung đạo không ngoài (quy) định chung.
Tăng hai trăm năm mươi giới trung,
Ni ba trăm bốn tám giới cùng luật răn.
Y vàng bát đất hình tăng,
Bóng người giải thoát thế trần nương theo.
Người có nhân duyên được vào,
Cận sự Tam bảo theo sau hành trì.
a. Người mới nhập đạo có khi,
Tới lui cõi thế gọi vì Nhập lưu.
b. Nhất lai vẫn còn tới lui,
Một lần nhập thế, một lần vãng lai.
c. Bất lai đoạn dứt duyên ngoài,
Xuất gia thọ giới chứng rày vô sanh.
Giác ngộ nhân duyên du hành,
Kêu là Duyên Giác pháp hành viễn ly.
Bồ tát giáo hóa truyền trì,
Thâu nhận đệ tử bát y thừa hành,
Như Lai quả giác viên thành,
Bảy đạo, bảy quả tu hành chánh chơn.
Bậc trí huệ đắc quả linh,
Thì gọi đắc quả tiến trình không sai.
Gồm hết sự lý trong ngoài,
Niết bàn rốt ráo nghĩ ngơi hoàn toàn.
Là sự kết quả vẽ vang,
Gọi là quả Phật dứt đàng tử sanh.
Đức Phật thể hiện tâm lành,
Thương độ sống với chúng sanh tinh thần.
Tự giác, giác tha, giác chân,
Thế giới giáo lý muôn năm trường tồn.
Đừng ham danh lợi tình thương,
Mà phải khổ chết điên cuồng với nhau.

a. Người không giới ở theo xứ không giới.
b. Người một giới ở theo xứ một giới.
c. Người năm giới ở theo xứ năm giới.
d. Người tám giới ở theo xứ tám giới.
e. Người mười giới ở theo xứ mười giới.
f. Người 250 giới ở theo xứ 250 giới (là Tăng chúng). [3]

Như vậy hạnh phúc toại lòng,
Nhờ học giáo lý mà lòng vui yên.
Dữ theo dữ, hiền theo hiền,
Do giới nhiều ít, vui yên ít nhiều.
Chớ đừng quyến luyến với nhau,
Ở chung lộn xộn khổ đau tự mình.
Thiện ác chung một gia đình,
Tu không tu, một xã hội cho mình khổ vui.
Trắng đen hai nẽo chia đôi,
Không hòa, không đạo, không vui thăng trầm.
Trong đời không giới ngăn ranh,
Hoặc giới khác bậc, đâu thành vua quan.
Cha con, chồng vợ chẳng an,
Mà là giặc nghịch, mình toan hại mình.

LỜI KHUYÊN CƯ SĨ

LỜI KHUYÊN CƯ SĨ

Cư sĩ học hiểu tiến trình,
Biết ra mục đích của mình là tu.
Chưa biết, đến biết cần tu,
Đã biết, cái biết đến hồi nghĩ ngơi.
Tối, sáng, đến yên lặng rồi,
Học trò dốt nát đến hồi cư gia,
Đến Tăng khất sĩ xuất gia,
Đến vô thượng sĩ tức là toàn năng.
Học ở nhà, học siêng năng,
Đến đi du học, tròn xong đủ đầy.
Của cải, quyến thuộc đổi thay,
Sắc thân giả tạm rốt rồi bỏ đi.
Chỉ còn tồn tại giác tri,
Học mới hết khổ, học thì hết mê.
Đời trường học lớn rất đông,
Chúng sanh tấn hóa không đồng với nhau.
Kẻ học trước, người học sau,
Bởi tất cả không thể nào học chung,
Một lớp, một bài pháp môn.
Một người chăm chỉ học hành siêng năng,
Chín người phá rối lăng xăng,
Hoặc chín người học, một toan hại đời.
Nên phải làm sao mười người,
Đều có sự học, để rồi biết thương.
Tất cả các lớp trong trường,
Mỗi lớp phải có nhiều ngăn, nhiều bài
Trên dưới thương kính hòa hài,
Tạo nên một cảnh đạo tràng thuần lương.
Ai học giỏi thì được yên,
Ai thi đậu trước là duyên của mình.
Trước dùng văn tự học kinh,
Sau hiểu chơn lý huyền linh nhiệm mầu.
Chứa pháp bảo, của cải giàu,
Giữ tâm chơn chánh đẹp sao cuộc đời.
Cùng nhau dứt bỏ chơi bời.
Dùng giới hạnh, chỗ ở nơi yên bình,
Từ bi làm quyến thuộc mình,
Để có cuộc sống an bình tự do.
Cuộc đời hôm nay học trò,
Giờ chơi đã hết, chăm lo học hành.
Thế giới mở cửa chiến tranh,
Học sanh bỏ học đấu tranh lu bù.
Bỏ đạo theo đời quên tu,
Rối khổ mệt nhọc cho dù giàu sang.
Nay là lúc phải bỏ tham (ham chơi),
Đi tìm học đạo tập làm học sinh.
Để có cuộc sống yên bình,
Tìm lại hạnh phúc cho mình, tha nhân.
Vào trường, trò phải học chăm,
Vượt qua các lớp dù rằng gian lao,
Tiến lên từ thấp đến cao,
Trãi nghiệm tuần tự, bài nào cũng thông.
Chớ nên chấp có, chấp không,
Ở mãi một lớp, chỉ xong một bài,
Giữ hoài mặt đất loài người,
Ngăn sự tiến hóa của người và ta.
Bởi vì giáo lý có ra,
Do nơi hoàn cảnh của ta, mỗi người
Nhân duyên trình độ tạm thời,
Không ai có thể theo người khác đâu.
Chính mình còn khác trước sau,
Bởi vì trình độ nâng cao khác thời,
Tự mình phản lại mình thôi,
Nên đừng áp bức, bắt người theo ta.
Cũng đừng cậy học kiêu xa,
Mong làm Thầy tổ, khi ta vẫn còn
Là học trò, chưa giỏi giang,
Đừng đem tri thức để toan phục người.
Mà trị phục để làm gì ?
Càng học, càng dốt lấy gì hơn thua.
Đâu phải đánh đập giết đùa,
Hơn thì chưa chắc, kém thua nhận nhìn.
Ráng lo học, được hiền minh,
Chớ nói liều, không học mình vẫn hay.
Học bạn, khi chẳng có thầy,
Để cho sự học mỗi ngày thăng hoa.
Chọn người giám đốc tài ba,
Đức cao, trí sáng, nương mà học tu.
Mọi người nên hãy nhớ câu :
Bởi “đức mới quý, tài đâu được bền”.
Ráng lo tìm học đạo mầu,
Bỏ điều càn quấy, vui câu chơn thường.
Tập gìn giới hạnh kỹ cương,
Tạo một phong hóa trang nghiêm hiện tiền.
Có quy tắc, có chương trình,
Khác xa trẻ nhỏ, tạo nên thiên đường.
Phật quốc cảnh giới tây phương,
Cùng nhau chung lập, đạo trường sống chung.
Cho mai hậu được thành công,
Là người đáng sống của trong đời này.
Mỗi người phải biết chữ rành,
Mỗi người phải thuộc giới kinh Phật truyền.
Mỗi người tránh ác làm hiền,
Mỗi người phải học đạo thiền tự tâm.
Trò nào thầy nấy tự tầm,
Đừng chen lộn để não phiền cùng nhau.
Giáo nào lớp nấy đổi trau,
Môn nào bàn nấy cùng nhau hiệp hòa.
Mới mong tránh sự phiền hà,
Cơm nào canh nấy, áo da phân rành.
Đến bao giờ cả chúng sanh,
Học cao trí lớn mới thành hiền nhân.
Ta muốn dạy cả chung quanh,
Tốt hơn là để chúng sanh tự mời.
Ta người ai cũng học trò,
Phải nên xét kỹ để cho không lầm.
Chọn rồi xin hãy siêng năng,
Nên lo học tập đừng ăn chơi hoài.
Bỏ qua lêu lổng chơi bời,
Mới mong kết quả đến hồi thành công.
Khuyên người phật tử tinh cần,
Giữ giới tu tập định tâm một đường.
Đừng ngó qua lại không yên,
Xao động lớp học lỗi lầm không nên.
Thánh kia còn chẳng dám tin,
Huống ta người thế dám khinh chê người.
Thiện mới phải hơn ác thôi,
Hơn thua tranh cãi rốt rồi không hay.

PHÉP ĐỊNH TÂM CƯ SĨ

PHÉP ĐỊNH TÂM CƯ SĨ

Muốn định thì phải chánh chơn,
Muốn chánh phải thiện biệt phân rõ ràng.
Muốn thiện phải trừ ác gian,
Không ác thì khỏi đa mang quả hành.
Muốn định trong sạch tịnh thanh,
Muốn tịnh thì phải vui mừng hân hoan.
Muốn vui tầm sát kỹ càng,
Có tầm sát hiểu lẽ chơn đạo đời.
Hết mừng rồi mới đến vui,
Hết vui mới đến tịnh rồi sạch trong.
Có tịnh sạch có định lòng,
Kẻ ác là khổ, bởi không định rồi.
Kẻ trí không định rối bời,
Có định dứt khổ, khổ rồi định tâm.
Nên gọi định đạo Niết bàn,
Chơn như giác ngộ là hàng thượng nhơn.
Định sau khi rối loạn tâm,
Chơn như sau vọng, mê lầm tỉnh ra.
Lìa loạn đến định an hòa,
Do nhờ chánh kiến nhận ra tỏ tường.
Có tầm sát là diệu phương,
Dùng giới ngăn ác theo đường thiện chân.
Giới ít nhiều, định giảm tăng,
Loạn là thất bại, ăn năn muộn màng.
Không ích lợi, ta chẳng an,
Sâu đeo vỏ trái mưa chan gió đùa.
Định như nằm giữa hột co,
Ngủ yên nghĩ ấm ăn no khỏe nhàn.
Kêu là nhập định yên an,
Người ta ví giới luật hằng chở che.
Như vỏ trái bao bọc ngoài,
Thịt cơm trí huệ, định hay hột mầm,
Chơn như ngòi mộng Phật tâm,
Nghĩa giới định huệ, nuôi mầm chơn như.
Thực hành theo lộ trình như,
Tầm sát, hỷ, lạc, định từ đây sanh.
Muốn tầm sát phải thiện lành,
Thiện không rối khổ, tịnh thanh cõi lòng.
Có thì giờ quán xét xong,
Định hướng giải thoát, không mong sự đời.
Bước lên cảnh trí vui tươi,
Thanh nhàn, khoái lạc của người thiện nhơn.
Chẳng phải học giỏi, thông minh,
Mà thành công được khi mình chưa an.
Người ác nặng nề trái oan,
Bắt buộc phá hại, khổ nàn biết bao.
Không tự chủ thì làm sao,
Có được kết quả thanh cao như là.
Thiện là định, ác loạn tà,
Trí là hiểu trắng biết ra con đường.
Không bằng lời nói phô trương,
Chữ viết, thông thái biểu dương tài nghề.
Không phân chia thiện ác hề,
Làm ác phải chịu ủ ê đau sầu.
Có giới phát triển trí sâu,
Giới rào bảo vệ nhiệm mầu thuần lương.
Giới là nhà, lớp, là trường,
Học sinh ở đó an tường tâm linh,
Sẽ được học, trí huệ sinh,
Đến chỗ chí diệu, chí linh hoàn toàn.
Đường chơn lý rộng thênh thang,
Người hiểu chơn lý biết đàng tới lui.
Người mà có trí sáng soi,
Thấy ra các pháp hết hồi tríu tham.
Lục trần dứt bỏ không ham,
Không tham, hết ác thì làm Phật tiên.

Vả lại:

1. Tiền bạc vốn là không không,
Thú ăn trái lá, cổ nhân cuốc cày.
Tiền bạc không chỗ dùng xài,
Xem như sạn sỏi không hay cất dành.
2. Ruộng đất cũng là không không,
Đất của nước lóng vốn không chủ quyền.
Cỏ cây người thú do duyên,
Sanh ra thì ở, chết liền ra đi.
Người sắp đến, kẻ lại đi,
Vốn không chủ tớ, rốt thì hoàn không.
Sau trước tấn hóa học hành,
Bước lên cảnh giới tinh thần không không.
Không ai mua của hóa công,
Dẫu có tham tiếc cũng không được gì.
3. Của cải, tài nghệ chi chi,
Cũng là không có lấy gì khoe khoang.
Xưa hiền thánh sống thanh bần,
Tạm nuôi thân để trau tâm khỏe nhàn.
Thân thua kém, tâm giàu sang,
Người không hiểu, mãi lo toan giữ gìn.
Tôi tớ, xác thịt cực hình,
Mê chơi, mất học quên mình là ai.
4. Vua quan huyển cảnh sắp bày,
Chẳng xưng mà có, do người suy tôn.
Giàu sang chẳng phải tự lòng,
Do người giúp đở chớ không giựt giành.
Sự sống tất cả chúng sanh,
Như nhau bình đẳng sao đành hơn thua.
Trong đời lẽ sống thiện vui,
Hơn là ác khổ , đi lui chết rồi.
5. Sống chết thay áo mà thôi,
Là sự tấn hóa bỏ rồi quấy nhơ.
Đổi già bệnh, lấy tuổi thơ,
Có chết mới biết sống, nhờ hiểu xa.
6. Cha con không có thật là
Cho vay, trả nợ chỉ là tạm thôi.
Chúng sanh tiến từ thú người,
Đều do tứ đại, không nơi khởi nguồn.
Tạm cho kẻ chưa biết đường,
Nương nhau núm níu tình thương gia đình.
Cho là nghĩa phận của mình,
Nào ai có biết chính mình là ai.
Quanh quẩn quá khứ, vị lai,
Nay vầy, mai khác nào ai dắt đường.
Dứt sự trói buộc nhiểu nhương,
Từng bước đi tới là đường tiến lên.
7. Chồng vợ nam nữ cũng không,
Chỉ thật cái biết chúng sanh chung đường.
Sắc thân nam nữ là nương
Cây thú đực cái, lại thường đổi thay.
Đâu nên tự thị mình hay,
Luyến ái gìn giữ nối dài tử sanh.
8. Sắc đẹp thân tướng mong manh,
Tốt qua xấu đến bóng hình rã tan.
Tiếng thanh, lời dịu, điệu đàn,
Mùi thơm, vị ngọt, mịn màng láng êm.
Gia đình, quyến thuộc, bà con,
Danh lợi, tài sắc, lăn tròn có không.
Tựa thể điển chớp mây giăng,
Không ngừng vọng động, không thông lẽ thường.
Phiền não vô ích nhiểu nhương,
Âu sầu, sợ sệt đau thương cả đời.
Chết rồi vơ vẫn mãi thôi,
Một mình mình chịu ai người hỏi han.
Âu là giữ tâm định an,
Chuyên niệm tam bảo, an nhàn vui hay.
Khoái lạc khỏe khoắn hơn nhiều,
Cao nhẹ biết mấy thoát điều trầm luân.
BƯỚC CHÂN CƯ SĨ

BƯỚC CHÂN CƯ SĨ

Bước chân vào cõi hồng trần,
Người cư sĩ phải nên cần đem theo
Giới định huệ ba báu trân
Là phương diệu dược rất cần mà thôi.
Vì không thế nào trong đời
Tích lũy ba độc [4] sống đời nên công.
Vua còn một chút mê lòng,
Quan mà sân hận cũng không được gì.
Giàu sang mà tâm tham si,
Là sự thất bại bởi vì không thông (đạo),
Cho đến các bậc sĩ nông
Tham sân còn giữ sẽ không lợi mình.
Ngoài xã hội, trong gia đình,
Tham, sân, si cái chết sình trong ra,
Nó sẽ giết chết thân ta,
Của ta tất cả cùng là thế gian.
Trước khi ta lo liệu làm,
Đang lo hoặc lúc lo toan vừa rồi,
Không bao giờ được yên vui,
Để cho ta hưởng quả nơi việc làm.
Ác độc khổ hại là tham
Chỉ có đạo đức mới làm ta vui.
Vậy nên mỗi ai trong đời,
Xuất gia khất sĩ học nơi pháp lành.
Thực hành Giới, định, huệ linh,
Tu tập học đạo để mình thảnh thơi.
Để chân vào chốn trường đời,
Trước khi làm việc, mọi nơi định kỳ
Ta cần im lặng nghĩ suy,
Xem xét kỹ lưỡng hãy đi thực hành.
Đúng mười tám tuổi trưởng thành,
Dành thời gian để học hành hai năm.
Tập sự khất sĩ tu tâm,
Về sau nếu có duyên lành tu luôn.
Nên người khất sĩ kiên cường,
Ra đi giáo hóa chỉ đường chúng sanh.
Nhược bằng chưa đủ căn lành,
Trở ra về thế cũng thành thiện nhơn.
Nhờ có tu tập hiền lương,
Hiểu thông đạo lý con đường tương lai.
Hột giống trì giữ giới trai,
Tâm yên, trí định mở bày thành công.
Người từ hai mươi tuổi hồng,
Tới bốn tám tuổi tự lòng xuất ly
Quý nhất là sự ra đi,
Tu học cần thiết hơn vì miếng ăn.
Chỉnh đốn cõi đời đất bằng
Trang nghiêm, dẫn dắt chúng sanh tu hiền.
Người già bốn tám cần chuyên,
Xuất gia khất sĩ gieo duyên niết bàn,
Người lớn tuổi ở chùa am,
Người đủ phước đức đi làm đạo riêng.
Du phương giáo hóa khắp miền,
Đến khi hưu trí định thiền nghĩ ngơi.
Cha mẹ chớ bắt con nuôi,
Khi tuổi bốn tám đến hồi lìa thân.
Sống bằng đạo đức tinh thần,
Đem giáo lý dạy hậu nhân tu hành,
Do kinh nghiệm từ pháp lành,
Qua nhiều năm tháng du hành khắp nơi.
Dắt đường trẻ nhỏ lầm sai,
Không trói buộc trẻ hôm mai nuôi mình.
Thi ân không cầu báo ân,
Tránh nạn cha chết con mình già luôn.
Tránh sự ích kỹ tình thương,
Luyến ái quyến thuộc phải vương luân hồi.
Làm con chớ để cha (mẹ) nuôi,
Khi tuổi mười tám đến hồi lớn khôn.
Trả hiếu nuôi con 18 năm,
Y như cha mẹ nuôi mình sớm trưa,
Nếu muốn đền trả nghĩa xưa,
Phải vừa có học lại vừa độ sanh.
Lập nguyện cứu độ chúng sanh,
Đền ơn thí chủ ân sanh nhiều đời.
Có dư nên giúp cho người,
Đừng mong đền trả, để rồi buồn vui.
Võ trụ tiến chớ không lùi,
Mình đứng lại, hoặc đi lui nghẻn đường.
Nếu là kẻ đã thật hiền,
Phải biết mục đích của mình hôm nay.
Tu học đền ơn cao dày,
Bằng cách thi đậu đến ngay Phật trời,
Cứu độ được số đông người,
Theo sự tha thiết thỉnh mời cư gia.
Chớ đừng bỏ học nghĩ ngang,
Đi làm nô lệ dở dang nguyện lành.
Dầu ai mê muội hỏi đòi,
Ta mau giải thích rạch ròi lý chơn.
Nếu lo sớm trả vần công,
Ắt là dốt học không xong việc gì.
Còn thêm khổ não kéo trì
Và không có được ích chi cho đời.
Nên tập sống, không ta người,
Theo lẽ tiến hóa người người giúp nhau.
Mỗi người mỗi việc đổi trao,
Người mạnh sắc thuốc, người đau uống mà.
Người may áo, kẻ cất nhà,
Đổi thầy bạn, đổi mẹ cha cho người.
Sống chung tu học chiều mơi,
Theo lý trung đạo đến nơi niết bàn.
Pháp Khất sĩ cảnh tịnh đàng,
Mười người có một vào hàng xuất gia.
Con đường chánh đạo cao xa,
Không có pháp khác trừ tà diệt tham.
Khất sĩ, cư sĩ nên làm,
Tinh thần, vật chất thân tâm đủ đầy.
Kẻ xin pháp, người xin tài,
Tài pháp trao đổi lợi thay tinh thần.
Mà cần nhứt là đạo lành,
Phải còn giữ mãi, chúng sanh mới còn.
Mất đạo trần thế không còn,
Thân ta có mất, tâm còn vẹn nguyên.
Đạo đức vĩnh viễn vững bền,
Ai ai cũng phải giữ nền đạo chơn.
Tổ sư dạy bảo thiệt hơn
Giàu sang nên phải chọn đường xuất gia,
Nghèo nàn nên bố thí ra,
Cúng dường tích phước để mà bước lên.
Thì mọi nạn khổ triền miên,
Sẽ được dứt hết, tự nhiên an bình./.
[1] Chạm tay vào vật cúng dường chứng minh cho tín chủ.
[2] Nguyên văn trong Chơn lý Đức Tổ Sư.
[3] Nguyên văn trong Chơn lý của Đức Tổ Sư Minh Đăng Quang
[4] Tham, sân, si.
DANH MỤC - CHƠN LÝ KHẤT SĨ

DANH MỤC - CHƠN LÝ KHẤT SĨ

1. Vũ Trụ Quan 31. Hạt Giống
2. Ngũ Uẩn 32. Sợ Tội Lỗi
3. Lục Căn 33. Trường Đạo Lý
4. Thập Nhị Nhân Duyên 34. Nguồn Đạo Lý
5. Bát Chánh Đạo 35. Con Sư Tử
6. Có Và Không 36. Đi Học
7. Sanh Và Tử 37. Đời Đạo Đức
8. Nam Và Nữ 38. Đại Thừa Giáo
9. Chánh Đẳng Chánh Giác 39. Xứ Thiên Đường
10. Công Lý Vũ Trụ 40. Vị Hung Thân
11.Khất Sĩ 41. Phật Tánh
12. Y Bát Chơn Truyền 42. Học Để Tu
13. Ăn Chay 43. Đạo Phật
14. Nhập Định 44. Tu Và Nghiệp
15. Bài Học Cư Sĩ 45. Pháp Tạng
16. Cư Sĩ 46. Vô Lượng Cam Lộ
17. Tâm 47. Quan Thế Âm
18. Tánh Thủy 48. Đại Thái Thức
19. Học Chơn Lý 49. Địa Tạng
20. Trên Mặt Nước 50. Pháp Hoa
21. Chánh Pháp 51. Thờ Phượng
22. Chánh Kiến 52. Pháp Chánh Giác
23. Tam Giáo 53. Số Tức Quan
24. Tông Giáo 54. Sám Hối
25. Thần Mật 55. Chơn Như
26. Giác Ngộ 56. Hòa Bình
27. Khuyến Tu 57. Lễ Giáo
28. Đi Tu 58. Đạo Phật Khất Sĩ
29. Ăn Và Sống 59. Khổ Và Vui
30. Chư Phật 60. Pháp Học Cư Sĩ


Đánh giá bài viết

4.98/32 rates

Đăng nhận xét

Cảm ơn Đạo Hữu đã đóng góp. Chúc Đạo Hữu một ngày an lạc! A Di Đà Phật