Sấm Ký - Trạng Trình (Nguyễn Bỉnh Khiêm)

sấm ký, trạng trình nguyễn bỉnh khiêm, sấm ký trạng trình
A+ A-



LỜI GIỚI THIỆU

Nhờ học tính theo Thái Ất, Nguyễn Bỉnh Khiêm tiên đoán được biến cố xảy ra 500 năm sau này. Người Trung Hoa khen Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là “An Nam lý số hữu Trình Tuyền”. Ông tinh thông về thuật số, được dân gian truyền tụng và suy tôn là “nhà tiên tri” số một của Việt Nam. Ông đã cho ra đời hàng loạt những lời tiên tri cho hậu thế mà người đời gọi là Sấm Trạng Trình.
Tương truyền, ông là người đã đưa ra lời khuyên giúp các nhà Nguyễn, Mạc, Trịnh, Lê. Khi Nguyễn Hoàng sợ bị anh rể Trịnh Kiểm giết, ông khuyên nên xin về phía nam với câu “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (Một dải Hoành Sơn có thể dung thân lâu dài). Nguyễn Hoàng nghe theo và lập được nghiệp lớn, truyền cho con cháu từ đất Thuận Hoá. Lúc nhà Mạc sắp mất cũng sai người đến hỏi ông, ông khuyên vua tôi nhà Mạc “Cao Bằng tuy thiển, khả diên số thể” (Cao Bằng tuy nhỏ, nhưng có thể giữ được). Nhà Mạc theo lời ông và giữ được đất Cao Bằng gần 80 năm nữa. Đối với Lê - Trịnh, khi vua Lê Trung Tông chết không có con nối, Trịnh Kiểm định thay ngôi nhà Lê nhưng còn sợ dư luận nên sai người đến hỏi ông. Ông nói với chú tiểu, nhưng thực ra là nói với bề tôi họ Trịnh: “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản” (ý nói giữ là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn). Trịnh Kiểm nghe theo, sai người tìm người tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông. Họ Trịnh mượn tiếng thờ nhà Lê nhưng nắm thực quyền điều hành chính sự, còn nhà Lê nhờ họ Trịnh lo đỡ cho mọi chuyện chính sự, hai bên nương tựa lẫn nhau tồn tại tới hơn 200 năm. Bởi thế còn có câu: “Lê tồn Trịnh tại”.

Tại thư viện Khoa học xã hội Hà Nội và Thư viện quốc gia Hà Nội hiện còn 8 tài liệu chữ nôm sau đây có:
(1) Bạch Vân Nguyễn Trình quốc công lục ký (25 trang, ký hiệu VNB3)
(2) Trạng quốc công ký (2 quyển: VHV1453/b, 36 trang và VHV102, 32 trang)
(3) Trình quốc công sấm ký (34 trang, AB345)
(4) Trình tiên sinh quốc ngữ (22 trang, AB444)
(5) Sấm ký bí truyền (34 trang, VHV2261)
(6) Trình quốc công ký và Phùng thượng thư ký trong quyển Thiên Nam ngữ lục ngoại ký (AB192)
(7) Sấm ký Trạng Trình trong quyển Nhất tích thiên văn gia truyền (VHV1382)
(8) Bạch Vân Am quốc ngữ thi (AB309)

Về các bản quốc ngữ, tuy có nhiều bản, nhưng thực ra chỉ có vài bản chính thức chung nguồn gốc từ một bản nôm mà do nhiều người phiên âm, hay chỉ là in lại:
(1) Bản quốc ngữ đầu tiên của Sở Cuồng in trong Quốc học tùng thư do Nam Ký xuất bản tại Hà Nội, 1930, 53 trang, in tại nhà in Trịnh Văn Bích. Trong quyển Thư mục Đông Dương (Bibliographie en l’Indochine), quyển V, xuất bản ở Đông Dương năm 1935, ông Paul Boudet có ghi “Bạch Vân Am thi tập, văn thơ sấm ký của cụ trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm, recueilli par Sở Cuồng, Nam Ký thư quán, 1930, Impr Trịnh Văn Bích, Coll Quốc học tùng thư”.
(2) Sấm Trạng Trình, phụ trương Khoa học huyền bí của Tiểu thuyết nhật báo do Mai Lĩnh xuất bản năm 1939.
(3) Đông Tây tiểu thuyết phát hành ở Nam Định, số xuân 1940.
(4) Sấm ký, NXB Đại La, Hà Nội, 1945.
(5) Sấm Trạng Trình của cư sĩ Minh Điền, nhà in Thái Bình, Sài Gòn, 1948.
(6) Sấm ký của phó bảng Nguyễn Can Mộng, Bùi Xuân Tiến, Nam Ký xuất bản, Hà Nội, 1952.
(7) Sấm Trạng Trình, Hưng Long thư quán, Hà Nội. 1952.
(8) Thiên Phúc Nguyễn Phúc Ấm lục nhâm bát sát độn Thái Ất, Sấm Trạng Trình, năm195?
(9) Sấm Trạng Trình của Chu Ngọc Chi, Hưng Long thư quán, Hà Nội, 1954.
(10) Trạng Trình của Phạm Văn Giao, Phạm Văn Tươi, Sài Gòn, 1956.
(11) Trạng Trình Nguyễn Binh Khiêm, Thái Bạch, Sống Mới, Sài Gòn, 1957.
(12) Sấm Trạng Trình diễn giải của Đông Nam Á, nhà in Rạng Đông, Sài Gòn, 1963.
(13) Nguyễn Duy Hinh, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nostradamus, Dân Trí xuất bản, Sài Gòn, 1963.
(14) Hoàng Xuân, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập, Anh Phương, Sài Gòn, 1963, tr.29-58.
(15) Thiệu Nghĩa Minh, Đại chiến thứ ba với Sấm Trạng Trình, Phương Thảo, Sài Gòn, 1964.
(16) Trịnh Văn Thanh, Sấm Trạng Trình trong Thành ngữ, điển tích, danh nhân từ điển, Sài Gòn, 1966.
(17) Nguyễn Quân, Bạch Vân quốc ngữ thi, NXB Sống Mới, Sài Gòn, 1974.
(18) Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm, Tạp chí Thời tập của Viên Linh, Sài Gòn, 1974.
(19) Huỳnh Tâm, Sấm ký Trạng Trình, Sài Gòn, 196?
(20) Nguyễn Khuê, Nguyễn Binh Khiêm qua Bạch Vân Am thi tập, Thành phố Hồ Chí Minh, 1997.
(21) Phạm Đan Quế, Sấm Trạng Trình, Sài Gòn, 1992.
(22) Sấm Trạng Trình, Giảng Xưa, Bửu Sơn Kỳ Hương (không rõ năm).

Do hiện có nhiều bản với nội dung khác nhau khá nhiều, nên trong mục này chúng tôi đăng riêng từng bản cho tiện theo dõi thay vì gộp và chú thích chung.
Bản nôm Nguyễn Văn Bân

Bản nôm Nguyễn Văn Bân


1. Vừa năm
Canh Tý Các bản ghi Giáp Tý, Nhâm Tý nhưng bản này ghi Canh Tý. Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491 và mất năm 1585. Canh Tý là năm 1540, Nhâm Tý là 1552, Giáp Tý là 1564. Năm Canh Tý là lúc ông 50 tuổi.
xuân đầu
Thanh nhàn ngồi tựa long
câuCâu là câu lơn, bao lơn, hành lang.
Có 6 bài cùng chú thích:
  • Hồi 02: Kiều chơi tết thanh minh (Nguyễn Du)
  • Hán quảng 3 (Khổng Tử)
  • Tru Lâm 2 (Khổng Tử)
  • Tuý trung kiến Vi Chi cựu quyển hữu cảm (Bạch Cư Dị)
  • Trăng đêm ở Liên Khê (Lê Thánh Tông)
  • Đại ứng kỳ 2 (Lý Thương Ẩn)
nghĩ đời
Quyển vàng mở thấy sấm trời
Từ Đinh đổi đời chí
lục thấtNguyên bản lục thất
六七 (lục thất nguyệt
gian, lục thất niên
gian) có lẽ cổ nhân
dùng để chỉ lục thất
陸室 nhà Nguyễn vì
trong chữ lục có chữ
Nguyễn 阮.

Có 1 bài cùng chú
thích:
  • Phùng thượng
    thư ký (Phùng
    Khắc Khoan)
gian
5. Mỗi đời có một tôi ngoan
Giúp
chưngCũng như chi, sở là hư tự. Chưng ở đây là ở.
Có 6 bài cùng chú thích:
  • Tiểu nhung 2 (Khổng Tử)
  • Đông Sơn 1 (Khổng Tử)
  • Hoa (Lê Thánh Tông)
  • Lưu Nguyễn trở lại không gặp tiên nữ (Lê Thánh Tông)
  • Vịnh Hàn Tín (Lê Thánh Tông)
  • Vịnh Tiêu Hà (Lê Thánh Tông)
giữ nước dân an thái bình
Kể từ Lạc Long đế kinh,
Thế cùng xem biết sự tình thấp cao.
Nhân vì biết được tơ hào
10. Truyền chưng chép vào chẳng tiếc làm chi.
Luận chung một tập
kim thìThời nay

Tướng tài coi gẫm, nam nhi học đòi
Trượng phu có chí thời coi
Những câu nhiệm nhặt đáng
doiNoi theo, theo dõi
cho cần
15. Già nay cũng đấng hiên ngang
Biết chưng đời trị biết đường đời suy
Kể từ
nhân duẫnChỉ Lê Chiêu Thống, vì trong chữ Thống có chữ duẫn, doãn. Nói việc Lê Chiêu Thống theo quân Thanh trở về Thăng Long thì bị Nguyễn Huệ đem binh đánh tan, sau đó Nguyễn Ánh đem quân ra Bắc.
mà đi
Sau thì chưa đến biết thì nói ra.
Tiếc thay hiền sĩ tuổi già
20. Phúc bằng Bành Tổ cùng là Thái Công
Thử cho
tay thướcThước là thanh gỗ dài hơn một thước, rộng khoảng 3 hay 4 cm. Thước là vũ khí của tuần phu ngày xưa.
ra dùng
Tài này cùng hẹn anh hùng xem sao
Trên trời chỉn chín tầng cao
Tai nghe bằng một
tơ hàoTi là sợi tơ, hào là sợi
lông, nói những điều
nhỏ nhặt.
biết hay
25. Hiềm vì sinh phải thời này
Rấp thù lỗi kiếp tiếc thay chưng đời
Dẫu hay
tấn chướcĐưa ra mưu kế, kế hoạch
ngàn lời,
Sinh phải lỗi đời ắt cũng có dư.
Chẳng sinh phải kiếp người ta,
30. Sinh ra phải kiếp quỷ ma nhà trời.
Nói ra thì lộ sự đời,
.....Đoạn này nguyên bản bị thiếu.

Che ngheChẳng nghe.
cho phải luỵ này,
Nói ra ám chúa bội quân
Đương thời đời trị xoay vần được đâu
35. Chờ cho nhân duẫn về sau
Đến chừng đời ấy thật âu nhiều nàn
Trời sinh ra những kẻ gian,
Nhật dạ đạo kiếp suy tàn đông tây.
Quân nào thần ấy
làm vàyLàm tầm bậy, sai lầm. Vày trong nghĩa giày vò, vày vò, tà vạy.
,
40. Thượng nhân bất chính hạ nay tác loàn.
Đua nhau bạo ngược làm càn,
Phá gia ba kẻ dân tàn khốn thay
Anh hùng gẫm được thời hay,
Xem chưng thời vận biết hay trong lòng.
45. Nam nhi có chí anh hùng,
Muốn làm tướng suý lập công chưng đời.
Thời xem tuần vận điềm trời,
Cơ mưu nhiệm nhặt nên trai anh hùng.
Đi tìm cho đến thánh công,
50. Để phù trợ trị nên công vẹn tuyền.
Trong ngoài cương kỷ cho bền,
Bốn phương điều vận cho yên trong ngoài.
Chờ khi chuyển đất động trời,
Bấy giờ mới biết mặt trai anh hùng.
55. Còn
bậnCòn vướng bận, không thể ra cứu nước.

Có 1 bài cùng chú thích:
  • Xùng xình áo lạ mới may (Khuyết danh Việt Nam)
thì náu chưa xong,
Nhân lực chẳng đoạt thiên công đâu là.
Đời này những quỷ cùng ma
Chẳng phải người thế dân ta thiện hiền.
Trời cao đất rộng mông minh,
60. Ngu dân đâu biết chân tình đế vương.
Thế gian ai chẳng biết tường,
Thánh thời ở tại khảm phương tuần này.
Ấy là lục thất gian nay,
Tuần hoàn đã định đến ngày hưng vương.
65. Xem chưng tuần vận cho tường,
Bảo giang thánh xuất trung ương thuở này.
Vua ngự thạch bàn xa thay,
Nhân ngànBản Mai Lĩnh ghi là “Đại ngàn”.
vắng vẻ những cây cùng rừng
Chim kêu vượn hót vang lừng,
70. Đường đi thỏ thẻ dặm chưng khôn ngờ.
Nhân gian vắng vẻ bằng tờ
Sơn lâm bát ngát
đổỞ đỗ, ở nhờ.

Có 1 bài cùng chú thích:
  • Hồi 11: Kiều ở lầu xanh (Nguyễn Du)
nhờ khôn thay!
Vua còn cuốc nguyệt cày mây
Phong điều vũ thuận đợi ngày làm ăn
75. Phong đăng hoà cốc chứa chan
Vua ở trên ngàn có ngũ sắc vân.
Khảm cung thời tiết mở vần,
Thực là thiên tử thánh nhân ra đời.
Anh hùng ai có chí tài,
80. Công phu chẳng ngại tìm đòi ra đi.
Tìm đi đến Bàn thạch khê,
Đất sinh thánh đế bên kia cuối làng.
Nhìn đi nhìn lại cho tường,
Do nay phỏng có sinh vương đâu là.
85. Chẳng tin thì đến bản gia,
Đất sinh thiên tử xem qua địa hình.
Bốn bề phong cảnh cực thanh,
Tả long triều lại uốn vành vũ khai.
Hữu thời cửu khúc giang nay,
90. Minh Đường thất diệu ra bày tay coi
Trông xa thấy một đầu voi
Đầu cúi cuốn lại phục triều nguyệt sơn.
Ứng điềm thiên tử về chầu,
Tượng trời thánh đế thật âu trị dài.
95.
Song thiên nhật nguyệt sáng soi,Chỉ tuổi Quý.

Sinh được tuổi ấy thật ngôi chẳng cầu
Đến tuần hưng vượng về sau,
Chờ đến tam hợp thúc nhau mới làm
Khuyên người Đông Bắc Tây Nam
100. Muốn làm tướng suý thì xem sấm này
Anh hùng lượng được thời hay
Chép làm một quyển để ngay chẳng mòn.
Ai nên bia tạc biển son,
Nguyện đem phúc vận tử tôn ơn nhờ.
105. Nay nhờ truyền bảo sau xưa,
Những câu nhiệm nhặt nên sơ tỏ tường
Tìm đi cho đến khảm phương
Hình dung thánh đế khiêm nhường từ bi.
Chính trung diện mạo uy nghi,
110. Râu rồng tóc phượng thật thì đế vương.
Nhìn xem cho biết tỏ tường,
Để hoà (mà) giúp rập đế vương tuần này.
Quân thần hội họp rồng mây,
Đạo trời hay chứa bàn tay nhưng là.
115. Cõi tiên thế giới đất ta,
Mông lung bốn bể ắt là giao lân.
Trời xui thiên tử vạn dân,
Rắp hết xa gần triều lục thất gian.
Phò vua ra đến Tràng An,
220. Bao nhiêu nguỵ đảng loài gian lại hiền.
Đời ấy những Phật cùng tiên,
Sinh những người hiền trợ giúp trị dân.
Lục thất dư ngũ vạn xuân,
Bây giờ trời lại xoay vần chốn nao.
225. Thấy sự thời để chép vào,
Lâu thời chẳng biết nói sao nên lời.
Ai mà độ lượng trí tài,
Công phu chẳng ngại tìm thôi đến này.
Phò vua vực trị trợ đời,
230. Ơn trên đức rộng cho trai ơn nhuần.
Vũ thời phong đại tướng quân,
Văn thời thất phẩm đại thần cao ngôi.
Trông ân đức rộng bằng trời,
Cả dung cho khắp thoả người tôi con.
235. Chớ nề bạch ốc chu môn,
Nam nhi có chí khoẻ khôn đều dùng,
Quân minh lại gặp thần trung,
Tướng vốn vô dùng điều dụng mới trai.
Trảo nha những đứng trí tài,
240. Bất văn thạch phụng nào ai biết gì.
Ai ai là chẳng nam nhi,
Sinh chẳng kịp thì nên muộn công danh.
Trông ơn đức rộng cao minh,
Tuất cập đến kẻ hết tình làm tôi.
245. Quân thần tướng tá giúp đời,
Quân minh thần hiệp mỗi điều cho tin,
Trợ phù nhà nước khoẻ bền.
Công phu kiếp trước hữu duyên cùng người.
Trời sinh lão tướng giúp đời,
250. Khai quốc cùng toại cho đòi khảm phương.
Khác nào thuở trước nhà Đường,
Quân minh lại gặp thần lương mới bền.
Đời xưa những đấng khá khen,
Đời nay những đấng tôi hiền ai so
255. Xưa trượng phu, nay cũng trượng phu,
Tài nay khá mượn tài xưa giúp đời.
Mong ơn trên trị chưng đời,
Chớ hề quên nghĩa phụ người công phu.
Sống thời ăn bổng lộc vua,
260. Thác thời ban cấp cho con thơ rày
Trận tiền hết sức, ra tay,
Cờ xây súng trỏ sắc rày ban cho.
Hoặc là tử trận đương cô,
Quan thời dân xã cấp cho bổng thờ.
265. Quân thời cấp ruộng điền tô,
Làm cho con cháu ơn vua đời đời.
Để cho nức lòng con trai.
Đến khi có giặc cho trai liều mình.
Thấy tặc nó hội phụng kinh
270. Anh hùng ai chẳng liều mình cướp nhau.
Sống thì chức trọng quyền cao,
Thác thì miêu duệ ân nhiều giàu sang.
Lập nên giềng mối kỷ cương.
Trong an ngoài cũng bốn phương thuận hoà,
275. Đâu đâu xướng thái bình ca,
Thiên thuận địa hoà, chủ quý thần vinh.
Tảo an thiên hạ thái bình,
Bây giờ sĩ mở lệ thư luật điều
Sĩ hiền biết bấy nhiêu điều,
280. Tiên bảo cùng sấm mỗi điều chép ra.
Khuyên người Nam Việt trai hiền,
Ai xem cho biết để mà làm công.

Đây là bản nôm tìm thấy trong thư viện tiến sĩ Nguyễn Văn Bân (1868-1937), có đề Trình quốc công ký. Cụ nghè Bân sinh năm Mậu Thìn (1868), quê làng Hữu Bằng, huyện Thạch Thất, Sơn Tây, đậu cử nhân khoa Đinh Dậu (1897), đậu tiến sĩ khoa Tân Sửu niên hiệu Thành Thái thứ 13 (1901), đồng khoa với Ngô Đức Kế, Nguyễn Sinh Huy tức Nguyễn Sinh Sắc, và Phan Chu Trinh, hàm Hồng Lô tự khanh, sung Bắc Kỳ thượng nghị viện, Tổng đốc Hải Dương.

Cụ nghè Bân ở Sơn Tây, gần làng Phùng, cùng huyện Thạch Thất với Phùng thượng thư cho nên bản này rất đáng tin cậy vì ngày xưa các cụ thường mượn sách nhau sao chép, nghĩa là bản này có thể là sao chép từ tủ sách quan thượng Phùng Khắc Khoan. Đại tá Nguyễn Sùng đậu cử nhân luật bên Pháp, người Chàng Thôn, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây, làm việc tại bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam cộng hoà, là tế tử của cụ nghè. Khoảng năm 1985, gia đình đại tá Nguyễn Sùng sang định cư tại Pháp. Trước khi đi, hai ông bà tặng ông Nguyễn Thiên Thụ (định cư tại Canada) một số sách cổ, trong có bản Trình quốc công ký và Phùng thượng thư ký. Năm 2010, bản này được ông Nguyễn Thiên Thụ phiên âm và công bố.

Bản này ngắn nhất so với các bản. Các bản khác dài hơn có thể là người ghi chép các bản khác nhau của Trạng Trình hoặc một trong hai ba bản là của tác giả khác. Bản này có nhiều điểm giống bản của Sở Cuồng, và là bản thứ hai của bản Sở Cuồng. Điều này cũng cho ta biết bản Sở Cuồng là bản chính. Và bản Sở Cuồng và vài bản khác vốn là hai bản mà chép chung trong một tập. Bản này dài 282 câu, nhưng chỉ giống bản Sở Cuồng 100 câu đầu, từ câu 101 đến 282 thì không giống bản nào cả.

Bản này giống phần thứ hai của bản Mai Lĩnh, có thể hai bản nôm này cùng nguồn gốc. Tuy nhiên, đọc kỹ thì thấy bản quốc ngữ Mai Lĩnh và bản nôm này tuy ý từng câu, từng đoạn giống nhau, mà trong mỗi câu ít nhất là có một chữ khác nhau. Tuy nhiên phần cuối bản nôm này (từ câu 101) khác hẳn bản Mai Lĩnh.
Bản nôm Nguyễn Văn Sâm

Bản nôm Nguyễn Văn Bân

1. Nước Nam thường có thánh tài
Sơn hà vững đặt mấy ai rõ ràng
Kia Nhị thuỷ nọ Đảo sơn
Bãi ngọc đất nổi âu vàng trời cho
5. Học cách vật mới dò tới chốn
Chép ghi làm một bản xem chơi
Muôn việc cũng bởi tại trời
Suy thông mới biết sự đời nhường bao
Khéo chẳng sai tơ hào cũng vậy
10. Truyền hậu thế ai nấy xem cho
Những lời nghiêm ngặt khôn lo
Ai mà biết được trượng phu nên người.
Nay xem chữ một nghĩa mười
Nói xuôi cũng được ngược thời cũng nên
15. Kể từ Lạc Long Quân dựng nước
Sang Hùng Vương được mười tám đời
Tiên Hoàng ngày trước mở ngôi
Cờ lau lập trận thay trời trị dân
Mão được mười hai dư xuân
20.
Lê HànhNguyên bản viết Lê Hành, các bản phiên là Lê Hoàn.
kế vị xa gần âu ca.
Truyền đã được mười ba năm lẻ
Đến Ngoạ triều nào kể tài năng
Ngôi trời truyền đến Lý nay
Long thành bát diệp đến ngày dực phân
25. Chiều Hoàng là ả nữ quân
Mê về nhan sắc trao Trần thái tôn
Mười hai đời một lòng nhân hậu. Nhiều bản khác thiếu câu này.

Trăm bảy mươi in dấu thất niên
Đông A chốn ấy còn bền
30. Quý Ly tiếm thiết thay quyền đã cam.
Thái ngu được mười bốn năm
Hậu thập nhị để lại trăm đố hồi
Suy ra mới biết sự trời
Lam Sơn khởi nghĩa là đời Lê gia
35. Mười đời ngồi ngự ngai vàng
Lại phải Mạc thị thiêu tàn kinh sư.
Xưa làm lực sỹ đô du
Trời cho nên trị làm vua một đời.
Sáu mươi năm bất tái hồi
40.Tống Sơn chốn ấy có đời Thạch công
Định mưu phù lập Trang TônNói việc Nguyễn Kim phò Lê Trang Tông.

Phù Lê diệt Mạc anh hùng ai đương
Lại bàn bỉnh chính Sóc Sơn
Trịnh Vương toan chiếm ngai vàng Lê gia
Tây Sơn sùng sục kéo ra
46. Nghiệm xem thế tục gọi là
phương ngôn Các bản phiên là “hiệu chi”.
Có 1 bài cùng chú thích:
  • Bình Lục phong thổ (Vũ Đăng Tiên)


I. Thơ rằng:
Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong.
Đầu cha chắp lấy đầu con
Mười bốn năm tròn hết số thì thôi.
Kẻ sau này ngu Trịnh được lâu

II. Lại có thơ rằng:
Cha nhỏ đầu con lại nhỏ chân
Nào ai có biết nguỵ quân cầm quyền
Phụ nguyên chính thống hẳn hoi
Yêu dê lại phải theo đòi đàn dê
Nọ nào ngang dọc
trong huê Chữ nôm là “trung huê”. Phải chăng là “tung huê”?

Mà cho thiên hạ khôn bề làm ăn
Chó mừng chủ, gà cũng cục tác
Lợn ăn no tha rác, chuột chơi.

III. Ngạn lại có câu rằng:
Gà bỏ con kêu cục tác
Chó vẩy đuôi mừng thánh chúa
Lợn ăn no ủn ỉn nằm
Mới kể là đời thịnh thế
Mà thiên hạ sao nỡ sẻ làm hai
Bởi Tần Vương u mê chẳng biết
Rồi phen này dê lại giết dê
Tới khi thực tận binh bì
Âm binh ở giữa ai thì biết sao!
Trời cho ta giơ dao giết quỷ
Khắp dưới trời bằng quỷ khư khư
Ai từng cứu con thơ sa giếng
Giốc một lòng chinh chiến đua nhau
Muôn dân chịu thuở âu sầu
Kể dư dôi ngũ mới hầu khoan cho
Chốn đông nam là nơi khổ ải
Lánh cho xa kẻo phải đao binh
Bắc kinh mới thực đế kinh,
Giấu thân chưa dễ dấu danh được nào
Vả mình là đấng anh hào
Đánh làm sao được ước ao đêm ngày
Bò men lên núi Vu Sơn
Thừa cơ mới nổi một cơn phục thù
Ấy những quân phụ thù thui thủi
Lòng trời xui ai lại biết đâu...

IV. Có thơ rằng:
Dần Mão chư dương giai vị cập
Lai chiêu lục thất xuất minh quân
Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ
Hưng tộ diện trường ức vạn xuân.

V. Có thơ rằng:
Hầu đáo kê lai khởi chiến qua
Thuỳ tri thiên hạ chuyển như sa
Anh hùng mai thảo mã
Tướng suý tận tiêu ma
Phá điền thiên tử xuất
Tràng vỹ tảo sơn hà
Gà kia bên tường khuya sớm gáy
Chẳng yêu ra áy náy bất bình.

VI. Có thơ rằng:
Một đám mây xanh đứng giữa trời
Ba thằng nho nhỏ đánh nhau chơi
Thiên hạ mười phần còn có một
Bây giờ Bạch Sỷ mới ra đời
Thầy tăng mở nước trời không bảo.
Thấy vĩ tinh thì tháo cho mau
Chớ có tham của tham giàu
Tìm nơi tam hiểm mới hầu an thân
Đằng giang chốn ấy cũng gần
Kim ngưu chốn ấy cũng lần tới nơi.

VII. Thơ rằng:
Ba Thục riêng một góc trời
Thái Nguyên một giải là nơi trú đình
Bốn bề núi đá mọc xanh
Có đường tiểu mạch nương mình ai hay
Bốn mùa chim núi đá cây
Trời xanh cỏ biếc hoa bay ngạt ngào
Khuyên ai là đấng anh hào
Đợi chờ Nghiêu, Thuấn ngày nào sẽ hay
Bốn bụt xuất thế đã chầy
Chưa chọn được ngày ra cứu muôn dân.

VIII. Thơ rằng:
Ấy là điềm xuất thánh quân
Hễ ai tìm thấy thì thân mới tường
Chữ rằng “Hữu xạ tự nhiên hương”
Có dễ tầm thường thuốc dấu bán rao
Nắng lâu ắt có mưa rào
Vội chi tát nước xôn xao cày bừa
Nắng rồi thì phải có mưa
Buồm đang đợi gió cày bừa đợi cơn
Tuần này thánh xuất khảm phương
Sự thật đã tường chẳng lọ phải say
Tuần này thiên địa chuyển hồi
Thiên sầu địa thảm lòng người chẳng yên
Trời sai quỷ sứ dọn đường
Để cho thánh xuất khảm phương sau này
Vội chi đua sức ra tay
Người vội cày bừa ta sẻ cấy chơi
Suy cho thấu biết sự đời
Sấm ký mấy lời sự thực chẳng ngoa.

IX. Thơ rằng:
1 - Tích nhất đương lang khởi bộ thuyền
2 - Ưng tri hoàng thước tại thân biên
3 - Tước bị lạm nhân cung đạn đả
4 - Lạp nhân cách tự hổ lang huyên
5 - Tuệ tinh xuất long xà
6 - Thần xuất cửu cửu gia
7 - Ngưu mã thiên hạ động
8 - Đinh hạ nãi Đông A


Rồi ra mới biết thánh minh
Mừng rằng gặp hội hiển vinh kêu hò
Nhị Hà một giải quanh co
Chính thức chốn ấy cố đô hoàng bào
Khắp hoà thiên hạ nghêu ngao
Có bến mưa rào có thứ cùng chăng
Nói đến độ Thầy Tăng mở nước
Đánh quỷ sứ xuôi ngược đi đâu
Bấy lâu những cậy phép mầu
Bây giờ phép ấy để đâu không hào?
Cũng có kẻ non trèo biển lội
Lánh mình chơi vào quận Ngô Tề.

X. Thơ rằng:
1 - Di lặc giáng sinh
2 - Sa phù dĩ chỉ
3 - Lục thất dĩ thành
4 - Kiến long sào kinh
5 - Nhật xuất điện thượng
6 - Thiên hạ thái bình


XI. Thơ rằng:
Giang Nam nổi trận mạt thù
Bảy mươi hai tướng phò vua ngất trời
Phùng trời nay gặp thái lai
Can qua chiến trận để người phong công
Trẻ già được hết sự lòng
Ghi làm một bản nội phòng mở xem
Rước vua về đến Tràng An
Bao nhiêu nguỵ đảng loài gian diệt tàn
Đời ấy cùng thánh, cùng tiên
Sinh những người hiền giúp nước yên dân.
Này những lúc thánh nhân chưa ra đời
Chó còn nằm đầu khỉ cuối thu
Lợn nằm cũng thấy lợn lo
Thái bình mới động thập thò liền sang
Ngang cung văn vũ khác thường
Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
Thuỷ binh cờ xí vừng hồng
Bộ binh rầm rập như ong kéo đàn
Đứng hiên ngang nào ai biết trước
Bắc kinh sang có việc gì chăng?
Ai còn khoe trí khoe năng
Cấm kia bắt nọ tưng bừng đòi nơi
Chưa từng thấy nay đời sự lạ
Bỗng khiến người vu vạ cho dân
Muốn bình sao chẳng lấy nhân
Muốn yên sao chẳng giục dân cày bừa
Đã ngu dại Hoàn Linh đời Hán
Đúc tiền ra bán tước cho dân
Xun xoe những cậy thánh thần
Ai ngờ thiên địa xoay vần đã công
Ngẫm hoá công sẵn tay khôn ví
Xưa phục thù ai sửa ngôi cho
Mạc kia cũng muốn nên trò
Dấy binh hai Quảng cơ đồ ghê thay!
Kẻ thì tự xưng Lê nay
Tam phân rồi chẳng được gì cả ba.
Bốn phương cũng có can qua
Mạc thì chẳng được đã ra lại về
Quân hùng binh dấy giang khê
Kẻ khoe cứu nước, người khoe trị vì...

XII. Thơ rằng:
1 - Hầu đáo kê lai vị chính kỳ
2 - Quốc dân hãm nịch quốc dân di
3 - Nhàn giãn dục dĩ chu nhi Tống
4 - Phong nghỉ tung hoàng thị mạc vi


XIII. Thơ rằng:
Hạ huyền thượng đảo nhân vô thủ
Tài tận dân hao thế lực suy
Huyết chiến dê đầu nhân huyết chiến
Kham tiếu không huyền tiệm thất ky
Xem thấy những sương sam tuyết lạnh
Loài bất bình tranh cạnh hung hăng
Thành ao cá nước tưng bừng
Kẻ xiêu Đông hải người tàn Bắc lâm
Chiến trường chốn chốn cát lầm
Kẻ nằm đầy đất người nằm đầy sông.
Sang thu chín huyết vừng hồng
Kẻ mong ngày hạ người mong mưa nhuần
Trẻ con mang lệnh tướng quân
Ngỡ uy đã sợ ngỡ nhân đã nhường
Dùng uy bát là đường ngũ bá
Cũng tưởng rằng đế tá dân hoan
Cỏ cây lá rụng đầy ngàn
Một làng còn mấy chim đàn bay ra
Bốn phương cùng có can qua
Làm sao còn biết có nhà Đà giang
Tả bạch hạc, Hữu thuỷ trường
Kiều môn án trước cao bành tựa sau
Thái nguyên cận bắc đường sau
Hễ mà tìm thấy mới hầu thần cơ
Cùng nhau gặp mặt bây giờ
Trúc mong kỳ úc thung chờ non đông
Vui mừng gặp mặt tam công
Cá được hoá rồng trăm trắm ngôi cao
Mai kia cùng đấng anh hào
Ba người làm bạn ngôi cao lộc lành
Vậy nên một áng phong tình
Mới hay phú quý hiển vinh lạ lùng
Bõ khi chém lợn vẽ rồng
Bõ khi vay mượn điều cùng trượng phu
Bõ khi kẻ việt người Hồ
Bõ khi kẻ Sở người Ngô xa đường
Ngày thường trông thấy quyển vàng
Của riêng quốc bảo xé mang xem chơi.
Tinh thái ất giờ đời là thực
Sấm trời xem vô giá muôn phần
Kể từ đời Lạc Long Quân
Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian
Một đời có một tôi ngoan
Giúp chưng nhà nước dân an thái bình
Thấy đâu bò đái thất thanh
Ấy điềm sinh thánh rành rành chẳng nghi
Phá điền than đến đàn dê
Hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng
Dê đi dê lại tuôn buồn
Đàn ghi nó cũng một môn phù trì.

XIV. Thơ rằng:
Ghê thay thau lẫn với vàng,
Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng
Thánh ra tuyết tán mây tan
Bây giờ đuốc sáng rõ ràng mọi nơi
Can qua việc nước bời bời.
Trên thuận lòng trời dưới đẹp lòng dân
Lục thất dư ngũ bách xuân
Bây giờ trời mới xoay vẫn nơi nao
Thấy sấm tự đấy chép vào
Một chút tơ hào chẳng dám sai ngoa.

Bản này đề Cổ Am tiên sinh sấm ca văn 古庵先生讖歌文, thuộc loại các bài thơ, các câu sấm truyền trong dân gian từ khởi đầu cho đến nhà Nguyễn, có lẽ do người đời sau ghi chép các câu sấm ký mà tập thành. Bản này đáng tin cậy là không do các phe phái sau 1945 sửa đổi, nhưng bản nôm cũng không chắc là chính bản của Nguyễn Bỉnh Khiêm, mà có thể do các cựu nho đời Nguyễn ghi chép các câu sấm được dân chúng truyền tụng từ xưa cho đến đời Nguyễn, mà cũng có thể do các cụ chế tác.

Bản này và bản Hương Sơn là một gốc, nhưng bản này chép 14 bài thơ trong khi bản Hương Sơn có 26 bài mà có vài bài chép trùng nhau.
Bản quốc ngữ Hoàng Xuân

Bản quốc ngữ Hoàng Xuân

Cảm đề

Thanh nhàn vô sự là tiên,
Năm hồ phong nguyệt ruổi thuyền buông chơi.
Cơ tạo hoá,
Phép đổi dời,
Đầu non mây khói toả,
Mặt nước cánh buồm trôi.
Hươu Tần mặc kệ ai xua đuổi,
Lầu Hán trăng lên ngẫm mệnh trời.
Tuổi già thua kém bạn,
Văn chương gởi lại đời.
Dở hay nên tự lòng người cả,
Bút nghiên soi hoa chép mấy lời.
Bí truyền cho con cháu,
Dành hậu thế xem chơi.

Sấm ký
1. Nước Nam từ họ Hồng Bàng,
Biển dâu cuộc thế, giang sơn đổi vần.
Tự Đinh, Lê, Lý, Trần thưở trước.
Đã bao lần ngôi nước đổi thay,
5. Núi sông thiên định đặt bày,
Đồ thư một quyển xem nay mới rành.
Hoà đao mộc lạc,
Thập bát tử thành,
Đông A nhật xuất,
10. Dị mộc tái sinh.
Chấn cung xuất nhật,
Đoài cung vẩn tinh.
Phụ nguyên chì thống,
Đế phế vi đinh.
15. Thập niên dư chiến,
Thiên hạ cửu bình.
Lời thần trước đã ứng linh,
Hậu lai phải đoán cho minh mới tường.
Hoà đao mộc hồi dương sống lại,
20. Bắc Nam thời thế đại nhiễu nhương.
Hà thời
biện lại vi vươngNguyễn Nhạc làm biện lại, nhà Tậy Sơn nổi lên, chiến tranh liên miên.
,
Thử thời Bắc tận Nam trường xuất bôn.
Lê tồn Trịnh tại, Mấy câu này trở xuống nói việc Trịnh Khải bị Tây Sơn giết, họ Trịnh mất thì nhà Lê cũng mất theo. Khi Trịnh Khải xuất bôn, qua làng Vĩnh Lại, kêu gọi Cần Vương, những ai giúp công giúp của đều được ban quận công cho nên cả làng Vĩnh Lại được phong quận công.

Trịnh bại Lê vong.
25. Bao giờ ngựa đá sang sông,
Thì dân Vĩnh Lại Quận Công cả làng.
Hà thời thạch mã độ giang,
Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu.
Chim bằng cất cánh về đâu?
30.
Chết tại trên đầu hai chữ "quận công" Nói việc Bằng quận công Nguyễn Hữu Chỉnh bị giết.

Bao giờ trúc mọc qua sông,
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây.
Đoài cung một sớm đổi thay,
Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn.
35. Đầu cha lộn xuống thân con
Mười bốn năm tròn hết số thì thôi. Nói về nhà Tây Sơn. Chữ Quang 光 trong Quang Trung có ba nét trên đầu nhưng đến con nối ngôi trong năm Cảnh Thịnh, chữ Cảnh 景 có ba nét giống đầu chữ Quang mà lại nằm dưới. Nhà Tây Sơn tồn tại trong 14 năm kể từ 1788 là năm Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế đến năm 1802 nhà Tây Sơn bị diệt vong, Nguyễn Ánh lên ngôi. Nếu kể từ năm Tân Mão (1771), Tây Sơn khởi nghĩa cho đến 1801 thì 31 năm.

Phụ nguyên chính thống hẳn hoi,
Tin dê lại phải mắc mồi đàn dê.
Nguyễn Ánh tin vào Pháp (người Tây Dương, dương là bể, dương cũng đồng âm với dương là dê, dê chỉ người Pháp) cho nên sau mất nước vào tay Pháp.

Dục lòng chinh chích u mê, Mấy câu trở xuống nói vua Tự Đức 嗣德 (thập trên tứ dưới nhất đè chữ tâm là chữ 德 chỉ vua Tự Đức) và sau đó Dục Tông (Dục Đức 育德) để cho Pháp (bạch quỷ) xâm chiếm Việt Nam. Sự thật thì ta yếu địch mạnh phải thua mặc dù vua quan đã hết sức chiến đấu. Gia đình một ở ba đi dần dần là nói việc sau khi vua Tự Đức băng, ba vị vua nói tiếp bị phế và bị giết là Dực Đức, Hiệp Hoà, và Kiến Phúc. Vua Hàm Nghi lên ngôi sau chống Pháp bị đày.

40. Thập trên tứ dưới nhất đề chữ tâm.
Để loài bạch quỷ Nam xâm,
Làm cho trăm họ khổ trầm lưu ly.
Ngai vàng gặp buổi khuynh nguy.
Gia đình một ở ba đi dần dần.
45. Cho hay những gã công hầu,
Giầu sang biết gởi nơi đâu chuyến này.
Kìa kìa gió thổi lá rung cây, Mấy câu trở xuống nói việc Nguyễn Thái Học khởi nghĩa bị tàn sát.

Rung Bắc rung Nam Đông tới Tây.
Tan tác Kiến kiều An đất nước.
50. Xác xơ Cổ thụ sạch Am mây.
Lâm giang nổi sóng mù Thao cát,
Hưng địa tràn dâng Hoá nước đầy.
Một ngựa một yên ai sùng bái?
Nhắn con nhà Vĩnh bảo cho hay.
55. Tiền ma bạc quỷ trao tay,
Đồ, Môn, Nghệ, Thái dẫy đầy can qua. Phong trào Sô viết Nghệ Tĩnh.

Giữa năm hai bảy mười ba,
Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây. Đầu năm 1934, âm lịch có hai tháng bảy thành ra có 13 tháng, toàn quyền Pasquier (Bát Kê: tám gà) bị cháy máy bay mà chết.

Rồng nằm bể cạn dễ ai hay,
60. Rắn mới hai đầu khó chịu thay.
Ngựa đã gác yên không người cỡi,
Dê khôn ăn lộc ngoảnh về Tây.
Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu,
Gà kia vỗ cánh trập trùng bay,
65. Chó nọ vẩy đuôi mừng thánh chúa
Ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày.
Nói cho hay khảm cung ong dậy,
Chí anh hào biết đấy mới ngoan,
Chữ rằng lục thất nguyệt gian,
70. Ai mà giữ được mới nên anh tài.
Ra tay điều đỉnh hộ mai,
Bấy giờ mới rõ là người an dân
Lọ là phải nhọc kéo quân,
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về.
75. Phá điền than đến đàn dê,
Hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng,
Dê đi dê lại tuồn luồn.
Đàn đi nó cũng một môn phù trì.
Thương những kẻ nam nhi chí cả,
80. Chớ vội sang tất tả chạy rong,
Học cho biết chữ cát hung,
Biết phương hướng đứng chớ đừng lầm chi.
Hể trời sinh xuống phải thì,
Bất kỳ nhi ngộ tưởng gì đợi mong.
85. Kìa những kẻ vội lòng phú quí,
Xem trong mình một tí đều không.
Ví dù có gặp ngư ông,
Lưới giăng đâu dể nên công mà hòng.
Khuyên những đấng thời trung quân tử,
90. Lòng trung nghi nên giữ cho minh.
Âm dương cơ ngẩu hộ sinh,
Thái nhâm, thái ất mình cho hay..
Chớ vật vờ quen loài ong kiến,
Hư vô bàn miệng tiếng nói không.
95. "Ô hô thế sự tự bình bồng,
Nam Bắc hà thời thiết lộ thông.
Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch,
Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng.
Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc,
100. Ngưu xuất Lam điền nhật chính Đông.
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng,
Tứ phương thiên hạ thái bình phong "
Ngõ may gặp hội mây rồng,
Công danh rạng rở chép trong vân đài
105. Nước Nam thường có thánh tài,
Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường?
So mấy lề để tàng kim quỹ,
Kể sau này ngu bỉ được coi,
Đôi phen đất lở cát bồi,
110. Đó đây ong kiến dậy trời quỷ ma.
Ba con đổi lấy một cha,
Làm cho thiên hạ xót xa vì tiền.
Mão, Thìn, Tý, Ngọ bất yên,
Đợi tam tứ ngũ lai niên cũng gần.
115. Hoành sơn nhất đái,
Vạn đại dung thân.
Đến thời thiên hạ vô quân,
Làm vua chẳng dễ, làm dân chẳng lành.
Gà kêu cho khỉ dậy nhanh,
120. Phụ nguyên số đã rành rành cáo chung.
Thiên sinh hữu nhất anh hùng,
Cứu dân độ thế trừ hung diệt tà.
Thái Nguyên cận Bắc đường xa,
Ai mà tìm thấy mới là thần minh.
125. Uy nghi dung mạo khác hình,
Thác cư một góc kim tinh phương Đoài.
Cùng nhau khuya sớm chăn nuôi,
Chờ cơ mới sẽ ra đời cứu dân.
Binh thư mấy quyển kinh luân,
130. Thiên văn, địa lý, nhân dân phép mầu.
Xem ý trời ngõ hầu khải thánh,
Dốc sinh ra điều đỉnh hộ mai.
Song thiên nhật nguyệt sáng soi,
Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường,
135. Thông minh kim cổ khác thường,
Thuấn Nghiêu là trí, Cao Quang là tài.
Đấng hiên ngang nào ai biết trước,
Tài thao lược yêm bác vũ văn.
Ai còn khoe trí khoe năng,
140. Cấm kia bắt nọ hung hăng với người,
Chưa từng thấy nay đời sự lạ,
Chốc lại mồng gá vạ cho dân.
Muốn bình sao chẳng lấy nhân,
Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình.
145. Đã ngu dại Hoàn, Linh đời Hán,
Lại đua nhau quần thán đồ lê.
Chức này quyền nọ say mê,
Làm cho thiên hạ khôn bề tựa nương.
Kẻ thì phải thưở hung hoang,
150. Kẻ thì bận của bỗng toan khốn mình.
Cửu cửu càn khôn dĩ định,
Thanh minh thời tiết hoa tàn.
Trực đáo dương đầu mã vĩ,
Hồ binh bát vạn nhập Trường An.
155. Nực cười những kẻ bàng quan,
Cờ tan lại muốn toan đường chống xe.
Lại còn áo mũ xum xoe,
Còn ra xe ngựa màu mè khoe khoang.
Ghê thay thau lẫn với vàng,
160. Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng.
Thành ra tuyết tán mây tan,
Bấy giờ mới sáng rõ ràng nơi nơi.
Can qua việc nước tơi bời,
Trên thuận ý trời, dưới đẹp lòng dân.
165. Oai phong khấp quỷ kinh thần,
Nhân nghĩa xa gần bách tính ngợi ca.
Rừng xanh núi đỏ bao la,
Đông tàn Tây bại sang gà mới yên.
Sửu, Dần thiên hạ đảo điên,
170. Ngày nay thiên số vận niên rành rành.
Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh,
Can qua xứ xứ khổ đao binh.
Mã đề dương cước anh hùng tận,
Thân Dậu niên lai kiến thái bình.
175. Sự đời tính đã phân minh,
Thanh nhàn mới kể chuyện mình trước sau:
Đầu thu gà gáy xôn xao,
Mặt trăng xưa sáng tỏ vào Thăng Long.
Chó kêu ầm ỉ mùa Đông,
180. Cha con Nguyễn lại bế bồng nhau đi.
Lợn kêu tình thế lâm nguy.
Quỷ dương chết giữa đường đi trên trời..
Chuột sa chỉnh gạo nằm chơi,
Trâu cày ngốc lại chào đời bước ra.
185. Hùm gầm khắp nẻo gần xa.
Mèo kêu rợn tiếng quỷ ma tơi bời,
Rồng bay năm vẻ sáng ngời,
Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng,
Ngựa lồng quỷ mới nhăn răng,
190. Cha con dòng họ thầy tăng hết thời.
Chín con rồng lộn khắp nơi,
Nhện giăng lưới gạch dại thời mắc mưu.
Lời truyền để lại bấy nhiêu,
Phương Đoài giặc đã đến chiều bại vong.
195. Hậu sinh thuộc lấy làm lòng,
Đến khi ngộ biến đường trong giữ mình.
Đầu can võ tướng ra binh,
Ắt là trăm họ thái bình âu ca.
Thần Kinh Thái Ất suy ra,
200. Để giành con cháu đem ra nghiệm bàn.
Ngày thường xem thấy quyển vàng,
Của thiên bảo ngọc để tàng xem chơi.
Bởi Thái Ất thấy lạ đời,
Ấy thưở sấm trời vô giá thập phân.
205. Kể từ đời Lạc Long Quân,
Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian.
Mỗi đời có một tội ngoan,
Giúp chung nhà nước dân an thái bình.
Phú quí hồng trần mộng,
210. Bần cùng bạch phát sinh.
Hoa thôn đa khuyển phệ,
Mục giả giục nhân canh.
Bắc hữu Kim thành tráng.
Nam hữu Ngọc bích thành,
215. Phân phân tùng bách khởi,
Nhiễu nhiễu xuất Đông chinh,
Bảo giang thiên tử xuất,
Bất chiến tự nhiên thành.
Rồi đây mới biết thánh minh,
220. Mừng đời được lúc hiển vinh reo hò.
Nhị hà một dải quanh co,
Chính thực chốn ấy đế đô hoàng bào.
Khắp hoà thiên hạ nao nao.
Cá gặp mưa rào có thích cùng chăng?
225. Nói đến độ thầy tăng ra mở nước,
Đám quỷ kia xuôi ngược đến đâu?
Bấy lâu những cậy phép mầu,
Bây giờ phép ấy để lâu không hào..
Cũng có kẻ non trèo biển lội,
230. Lánh mình vào ở nội Ngô, Tề.
Có thầy Nhân Thập đi về,
Tả hữu phù trì, cây cỏ thành binh.
Những người phụ giúp thánh minh.
Quân tiên xướng nghĩa chẳng tàn hại ai.

235. Phùng thời nay hội thái lai,
Can qua chiến trận để người thưởng công.
Trẻ già được biết sự lòng,
Ghi làm một bản để hòng dở xem.
Đời này những thánh cùng tiên,
240. Sinh những người hiền trị nước an dân.
Nầy những lúc thánh nhân chưa lại,
Chó còn nằm đầu khải cuối thu.
Khuyên ai sớm biết khuông phù,
Giúp cho thiên hạ Đường, Ngu ngõ hầu
245. Cơ tạo hoá phép mầu khôn tỏ,
Cuộc tàn rồi mới rõ thấp cao.
Thấy sấm từ đây chép vào,
248. Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa.

Bản này được truyền tụng nhiều, gốc là bản của trường Viễn Đông bác cổ nay là Thư viện Khoa học xã hội Hà Nội. Nội dung bản này về cơ bản giống với các bản:
- Trịnh Văn Thanh (trong Thành ngữ, điển tích, danh nhân từ điển, tập 2, Sài Gòn, 1966)
- Viên Linh (trong Thời tập, Sài Gòn, 1973)
- Phạm Đan Quế (trong Giai thoại và Sấm ký Trạng Trình, NXB Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1992)
Bản quốc ngữ Hương Sơn

Bản quốc ngữ Hương Sơn

I
Nước Nam thường có thánh tài
Sơn hà vững đặt mấy ai rõ ràng
Kia Nhị thuỷ nọ Đao sơn
Bãi ngọc đất nổi âu vàng trời cho
Học cách vật mới dò tới chốn
Chép ghi làm một bản xem chơi
Muôn việc cũng bởi tại trời
Suy thông mới biết sự đời nhường bao
Khéo chẳng sai tơ hào cũng vậy
Truyền hậu thế ai nấy xem cho
Những lời nghiêm ngặt khôn lo
Ai mà biết được trượng phu nên người.
Nay xem chữ một nghĩa mười
Nói xuôi cũng được ngược thời cũng nên
Kể từ Lạc Long Quân dựng nước
Sang Hùng Vương được mười tám đời
Tiên Hoàng ngày trước mở ngôi
Cờ lau lập trận thay trời trị dân
Mão được mười hai dư xuân
Lê Hoàn kế vị xa gần âu ca
Truyền đã được mười ba rằm lẻ
Đến Ngoạ triều nào kể tài năng
Ngôi trời truyền đến Lý nay
Long thành bát diệp đến ngày dực phân
Chiều Hoàng là ả nữ quân
Mê về nhan sắc trào Trần thái tôn
.......
Trăm bảy mươi in dấu thất niên
Đông A chốn ấy còn bền
Quý Ly tiếm thiết thay quyền đã cam
Thái ngu được mười bốn năm
Hậu thập nhị để lại trăm đố hồi
Suy ra mới biết sự trời
Lam Sơn khởi nghĩa là đời Lê gia
Mười đời ngồi ngự ngai vàng
Lại phải Mạc thị thiêu tàn kinh su
Xưa làm lực sỹ đồ du
Trời cho nên trị làm vua một đời
Sáu mươi năm bất tái hồi
Tống Sơn chốn ấy có đời thạch công
Định mưu phù lập Trang Tôn
Phù Lê diệt Mạc anh hùng ai đương
Lại bàn bỉnh chính Sóc Sơn
Trịnh Vương toan chiếm ngai vàng Lê gia
Tây Sơn sừng sực kéo ra
Nghiệm xem thế tục gọi là hiệu chi?

II. Lại có ngạn rằng:
Đầu cha chắp lấy đầu con
Mười bốn năm tròn hết số thì thôi.

III. Có thơ rằng:
Cha nhỏ đầu con lại nhỏ chân
Nào ai có biết nguỵ quân cầm quyền
Phụ nguyên chính thống hẳn hoi
Yêu dê lại phải theo đòi đàn dê
Nọ nào ngang dọc trong huê
Mà cho thiên hạ khôn bề làm ăn
Chó mừng chủ, gà cũng cục tác
Lợn ăn no tha rác, chuột chơi.

IV. Ngạn lại có câu rằng:
Gà bỏ con kêu cục tác
Chó vẩy đuôi mừng thánh chúa
Lợn ăn no ủn ỉn nằm
Mới kể là đời thịnh thế
Mà thiên hạ sao nỡ sẻ làm hai
Bởi Tần Vương u mê chẳng biết
Rồi phen này dê lại giết dê
Tới khi thực tận binh bì
Âm binh ở giữa ai thì biết sao!
Trời cho ta giơ dao giết quỷ
Khắp dưới trời bằng quỷ khư khư
Ai từng cứu con thơ sa giếng
Giốc một lòng chinh chiến đua nhau
Muôn dân chịu thuở âu sầu
Kể dư dôi ngũ mới hầu khoan cho
Chốn đông nam là nơi khổ ải
Lánh cho xa kẻo phải đao binh
Bắc kinh mới thực đế kinh,
Giấu thân chưa dễ dấu danh được nào
Vả mình là đấng anh hào
Đánh làm sao được ước ao đêm ngày
Bò men lên núi Vu Sơn
Thừa cơ mới nổi một cơn phục thù
Ấy những quân phụ thù thui thủi
Lòng trời xui ai lại biết đâu...

V. Có thơ rằng:
Dần Mão chư dương giai vị cập
Lai chiêu lục thất xuất minh quân
Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ
Hưng tộ diện trường ức vạn xuân.

VI. Có thơ rằng:
Hầu đáo kê lai khởi chiến qua
Thuỳ tri thiên hạ chuyển như sa
Anh hùng mai thảo mã
Tướng suý tận tiêu ma
Phá điền thiên tử xuất
Tràng vỹ tảo sơn hà
Gà kia bên tường khuya sớm gáy
Chẳng yêu ra áy náy bất bình.

VII. Có thơ rằng:
Một đám mây xanh đứng giữa trời
Ba thằng nho nhỏ đánh nhau chơi
Thiên hạ mười phần còn có một
Bây giờ Bạch Sỷ mới ra đời
Thầy tăng mở nước trời không bảo.
Thấy vĩ tinh thì tháo cho mau
Chớ có tham của tham giàu
Tìm nơi tam hiểm mới hầu an thân
Đằng giang chốn ấy cũng gần
Kim ngưu chốn ấy cũng lần tới nơi.

VIII. Thơ rằng:
Ba thục riêng một góc trời
Thái Nguyên một giải là nơi trú đình
Bốn bề núi đá mọc xanh
Có đường tiểu mạch nương mình ai hay
Bốn mùa chim núi đá cây
Trời xanh cỏ biếc hoa bay ngạt ngào
Khuyên ai là đấng anh hào
Đợi chờ Nghiêu, Thuấn ngày nào sẽ hay
Bốn bụt xuất thế đã chầy
Chưa chọn được ngày ra cứu muôn dân.

IX. Thơ rằng:
Ấy là điềm xuất thánh quân
Hễ ai tìm thấy thì thân mới tường
Chữ rằng "Hữu xạ tự nhiên hương"
Có dễ tầm thường thuốc dấu bán rao
Nắng lâu ắt có mưa rào
Vội chi tát nước xôn xao cày bừa
Nắng rồi thì phải có mưa
Buồm đang đợi gió cày bừa đợi cơn
Tuần này thánh xuất khảm phương
Sự thật đã tường chẳng lọ phải say
Tuần này thiên địa chuyển hồi
Thiên sầu địa thảm lòng người chẳng yên
Trời sai quỷ sứ dọn đường
Để cho thánh xuất khảm phương sau này
Vội chi đua sức ra tay
Người vội cày bừa ta sẻ cấy chơi
Suy cho thấu biết sự đời
Sấm ký mấy lời sự thực chẳng ngoa.

X. Thơ rằng:
1 - Tích nhất đương lang khởi bộ thuyền
2 - Ưng tri hoàng thước tại thân biên
3 - Tước bị lạm nhân cung đạn đả
4 - Lạp nhân cách tự hổ lang huyên
5 - Tuệ tinh xuất long xà
6 - Thần xuất cửu cửu gia
7 - Ngưu mã thiên hạ động
8 - Đinh hạ nãi Đông A


Rồi ra mới biết thánh minh
Mừng rằng gặp hội hiển vinh kêu hò
Nhị Hà một giải quanh co
Chính thức chốn ấy cố đô hoàng bào
Khắp hoà thiên hạ nghêu ngao
Có bến mưa rào có thứ cùng chăng
Nói đến độ Thầy Tăng mở nước
Đánh quỷ sứ xuôi ngược đi đâu
Bấy lâu những cậy phép mầu
Bây giờ phép ấy để đâu không hào?
Cũng có kẻ non trèo biển lội
Lánh mình chơi vào quận Ngô Tề.

XI. Thơ rằng:
1 - Di lặc giáng sinh
2 - Sa phù dĩ chỉ
3 - Lục thất dĩ thành
4 - Kiến long sào kinh
5 - Nhật xuất điện thượng
6 - Thiên hạ thái bình


XII. Thơ rằng:
Giang Nam nổi trận mạt thù
Bảy mươi hai tướng phò vua ngất trời
Phùng trời nay gặp thái lai
Can qua chiến trận để người phong công
Trẻ già được hết sự lòng
Ghi làm một bản nội phòng mở xem
Rước vua về đến Tràng An
Bao nhiêu nguỵ đảng loài gian diệt tàn
Đời ấy cùng thánh, cùng tiên
Sinh những người hiền giúp nước yên dân.
Này những lúc thánh nhân chưa ra đời
Chó còn nằm đầu khỉ cuối thu
Lợn nằm cũng thấy lợn lo
Thái bình mới động thập thò liền sang
Ngang cung văn vũ khác thường
Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
Thuỷ binh cờ xí vừng hồng
Bộ binh rầm rập như ong kéo đàn
Đứng hiên ngang nào ai biết trước
Bắc kinh sang có việc gì chăng?
Ai còn khoe trí khoe năng
Cấm kia bắt nọ tưng bừng đòi nơi
Chưa từng thấy nay đời sự lạ
Bỗng khiến người vu vạ cho dân
Muốn bình sao chẳng lấy nhân
Muốn yên sao chẳng giục dân cày bừa
Đã ngu dại Hoàn Linh đời Hán
Đúc tiền ra bán tước cho dân
Xun xoe những cậy thánh thần
Ai ngờ thiên địa xoay vần đã công
Ngẫm hoá công sẵn tay khôn ví
Xưa phục thù ai sửa ngôi cho
Mạc kia cũng muốn nên trò
Dấy binh hai Quảng cơ đồ ghê thay!
Kẻ thì tự xưng Lê nay
Tam phân rồi chẳng được gì cả ba.
Bốn phương cũng có can qua
Mạc thì chẳng được đã ra lại về
Quân hùng binh dấy giang khê
Kẻ khoe cứu nước, người khoe trị vì...

XIII. Thơ rằng:
1 - Hầu đáo kê lai vị chính kỳ
2 - Quốc dân hãm nịch quốc dân di
3 - Nhàn giãn dục dĩ chu nhi Tống
4 - Phong nghỉ tung hoàng thị mạc vi


XIV. Thơ rằng:
1 - Hạ huyền thượng đảo nhân vô thủ
2 - Tài tận dân hao thế lực suy
3 - Huyết chiến dê đầu nhân huyết chiến
4 - Kham tiếu không huyền tiệm thất ky


Xem thấy những sương sam tuyết lạnh
Loài bất bình tranh cạnh hung hăng
Thành ao cá nước tưng bừng
Kẻ xiêu Đông hải người tàn Bắc lâm
Chiến trường chốn chốn cát lầm
Kẻ nằm đầy đất người nằm đầy sông.
Sang thu chín huyết vừng hồng
Kẻ mong ngày hạ người mong mưa nhuần
Trẻ con mang lệnh tướng quân
Ngỡ uy đã sợ ngỡ nhân đã nhường
Dùng uy bát là đường ngũ bá
Cũng tưởng rằng đế tá dân hoan
Cỏ cây lá rụng đầy ngàn
Một làng còn mấy chim đàn bay ra
Bốn phương cùng có can qua
Làm sao còn biết có nhà Đà giang
Tả bạch hạc, Hữu thuỷ trường
Kiều môn án trước cao bành tựa sau
Thái nguyên cận bắc đường sau
Hễ mà tìm thấy mới hầu thần cơ
Cùng nhau gặp mặt bây giờ
Trúc mong kỳ úc thung chờ non đông
Vui mừng gặp mặt tam công
Cá được hoá rồng trăm trắm ngôi cao
Mai kia cùng đấng anh hào
Ba người làm bạn ngôi cao lộc lành
Vậy nên một áng phong tình
Mới hay phú quý hiển vinh lạ lùng
Bõ khi chém lợn vẽ rồng
Bõ khi vay mượn điều cùng trượng phu
Bõ khi kẻ việt người Hồ
Bõ khi kẻ Sở người Ngô xa đường
Ngày thường trông thấy quyển vàng
Của riêng quốc bảo xé mang xem chơi.
Tinh thái ất giờ đời là thực
Sấm trời xem vô giá muôn phần
Kể từ đời Lạc Long Quân
Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian
Một đời có một tôi ngoan
Giúp chưng nhà nước dân an thái bình
Thấy đâu bò đái thất thanh
Ấy điềm sinh thánh rành rành chẳng nghi
Phá điền than đến đàn dê
Hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng
Dê đi dê lại tuôn buồn
Đàn ghi nó cũng một môn phù trì.

XV. Thơ rằng:
Ghê thay thau lẫn với vàng
Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng
Thánh ra tuyết tán mây tan
Bây giờ đuốc sáng rõ ràng mọi nơi
Can qua việc nước bời bời
Trên thuận lòng trời dưới đẹp lòng dân
Lục thất dư ngũ bách xuân
Bây giờ trời mới xoay vẫn nơi nao
Thấy sấm tự đấy chép vào
Một chút tơ hào chẳng dám sai ngoa.

XVI. Thơ rằng:
Quân hùng binh kéo đầy khe
Kẻ xưng cứu nước người khoe trị đời
Bấy giờ càng khốn ai ơi
Quỷ ma chật vật biết trời là đâu?
Thương những kẻ ăn rau, ăn muối.
Gặp nước buông con cái ẩn đâu?
Báo thù ấy chẳng sai đâu
Đạo trời chẳng trước thì sau chẳng nhầm
Kia những kẻ hai lòng sự chủ
Thấy đâu hơn thì phụ sở ân
Cho nên phải kiếp trầm luân
Ai khôn mới giữ được thân đời này
Nói cho hay khảm cung ong dậy
Chí anh hùng chiếm lấy mới ngoan
Chữ rằng lục thất nguyệt gian
Ai mà nghĩ được mới nên anh tài
Hễ nhân kiến là đời đất cũ
Thì phụ nguyên mới trổ binh ra
Bốn phương chẳng động can qua
Quân hùng nổi dậy điều hoà làm tôi
Bấy giờ ruộng mở quy khôi
Thần châu thu cả mọi nơi vẹn toàn.
Lại nói sự Hoàng giang sinh thánh
Hoàng phúc kia đã định tay phong
Lồng lộng thế giới rạng trong
Lồ lộ mặt rồng đầu có chữ Vương
Giời sinh tài lạ khác thường
Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài
Xem ý trời có lòng khải thánh
Giốc sinh hiền điều đỉnh hộ mai
Trên trời thấy những vì sao lạ
Dùng ở tay phụ tá vương gia
Bắc phương chính khí sinh ra
Có ông Bạch Sỷ điều hoà hôm mai
Song thiên nhật tượng sáng soi
Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường
Đời này thánh kế vi vương
Thu cả đạo đức văn chương trong mình
Uy nghi trạng mạo khác thường
Thác cư một góc kim tinh phương đoài
Cùng nhau khuya sớm chăn nuôi
Chờ cơ sẻ mới ra đời cứu dân
Binh thư mấy quyển kinh luân
Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu.
Khắp đâu đâu anh hùng hẳn biết
Xem sắc mây vẽ rõ vẻ rồng
Thánh nhân cư có thuỷ cung
Quân thần đã định gìn lòng chớ tham
Lại dặn đừng tú man chi cả
Chớ vội vàng tất tả chạy rông
Học cho biết nhẽ cát hung
Biết phương hướng đúng, chớ đừng lầm chi
Hễ trời sinh xuống phải thì
Bất kỳ nhi ngô tưởng gì đợi mong
Kìa những kẻ vội lòng phú quý
Xem trong mình một tý đều không
Ví dù có gặp Ngư Ông
Lưới chăng đầu sẵn nên công mà hòng
Xin khuyên đứng trời trung quân tử
Lòng trung nghĩa hãy chứa cho tinh
Âm dương cơ ngẫu ngộ sinh
Thái nhâm, thái ất trong mình cho hay
Văn thi luyện nghiên bài quyết thắng
Học Tử Phòng cùng với Khổng Minh
Võ thông yên thuỷ thần kinh
Được vào chiến trận mới lành biết cơ
Chớ vật vờ quen loài ong kiến
Biết trao tay miệng tiếng nói không
Ngộ may gặp hội mây rồng
Công danh rực rỡ chép trong vân đài
Bấy giờ phỉ sức chí tài
Lọ là đâu phải ngược xuôi nhọc mình
Vương lương thực có vĩ kinh
Cao tay mới biết ngẫm tình năm nao.
Trên trời có mấy vì sao
Đủ cả hiền tướng anh hào đôi nơi.
Nước Nam thường có thánh tài
Ai khôn học lấy hôm mai mới tường.
So mấy lề để tàng kim quỹ
Chờ sau này có chí mới cho.
Trước là biết nẻo tôn phù
Sau là cao trí biết lo mặc lòng
Xem đoài cung thiên thời bất tạo
Thấy vĩ tinh thì tháo cho mau
Chớ có tham tước, tham giàu
Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân.
Đôi phen ong dấy rầm rầm
Muông sinh ba góc kéo quân dấy loàn
Man mác một lĩnh Hoành sơn
Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù
Ấy là quân phục thù thai thải
Lòng trời xui ai lại biết chi
Phá điền đầu khỉ cuối thu
Tái binh mọi giống thập thò liền sang
Nọ chẳng thương trong nam khôn xiết
Vả lại thêm hung kiệt mất mùa
Lưu tinh hiện trước đôi thu
Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm
Sang thu chín huyết hồng tứ giã
Nối đàn dê tranh phá đòi nơi
Đua nhau quần thán đồ lê
Bấy giờ thiên hạ khôn bề tựa nương
Kẻ thì phải thửa hung hoang
Kẻ thì binh lửa chiến tràng chết oan.
Kẻ thì mắc phải hung tàn,
Kẻ thì bận của bỗng toan khốn mình
Muông sinh giông tố cạnh tranh
Điêu thì làm trước xuất binh thủ thành
Bời bời đua mạnh tranh hành
Ra đâu đánh đấy xuất binh sớm ngày
Bể thành cá phải ẩn cây
Đất bằng nổi sấm cát bay mịt mù
Nào ai đã dễ nhìn ru
Thuỷ chiến bộ chiến mặc dầu đòi cơn.
Cây bay lá cháy đôi ngàn
Một làng còn thấy chim đàn bay ra.
Bốn phương cùng có can qua,
Làm sao còn biết nơi hoà bảo thân
Đoài phương thật có chân nhân
Quần tiên dĩ nghĩa chẳng phân hại người.
Hễ đông nam nhiều phen tàn tặc
Lánh cho xa kẻo mắc đao binh
Bắc kinh mới thật đế kinh,
Giấu thân chưa dễ giấu danh được nào!
Chim hồng vỗ cánh bay cao
Tìm cho được chốn mới vào thần kinh.
Cấy cày tu dãi thời mùa
Bây giờ cấy ruộng lo chờ mướn ai
Nhân ra cận duyệt viễn lai
Chẳng phiền binh nhọc chẳng phiền lương thêm.
Xem tượng trời biết đường đời trị
Ngẫm về sau họ lý xưa nên
Dòng nhà đã thấy dấu truyền
Ngẫm xem thế giới còn in đời đời
Thần quy có nó ở trời
Để làm thần khí sửa nơi trị trường.

XVII
Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh,
Sông Bảo giang thiên định ai hay?
Lục thất cho biết ngày rầy
Phụ nguyên ấy thực ở dầy (rày) Tào khê
Có thầy nhân thập đi về
Tả hữu phù trì cây cỏ là quân
Dốc hết sức sửa sang vương nghiệp
Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời
Ra tay điều đỉnh hộ mai
Bấy giờ mới biết rằng tài an dân
Nọ là phải nhọc kéo quân
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về

XVIII. Những bài sấm ngắn:
Trời sinh thiên tử ở hoả thôn
Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn
Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
Hậu sinh thiên tử bảo giang môn
Canh tân tàn phá
Tuất hợi phục sinh
Nhị ngũ dư bình.

Nhân sinh ngọ tuế vi sư
Tị nhân vị tướng
Thìn tuất vị tôn sư

XIX. Thơ rằng:
1 - Thánh nhân hương
2 - Thuỷ chung tàng bảo cái
3 - Thánh nhân chu xứ
4 - Tử bích hoàn nhiễu, long hổ chầu vào
5 - Chỗ thánh nhân sinh ra
6 - Cận bảo giang thuỷ
7 - Thuỷ nhiễu chu toàn
8 - Thánh nhân danh
9 - Mộc hạ liên đinh khẩu
10 - Thánh nhân diện bộ đạo đức
11 - Nghi quảng tầm chương trích cú
12 - Thánh nhân dĩ hữu niên
13 - Thuỳ năng thức đắc yên
14 - Dãn nhân bất chúc nhĩ
15 - Nhập ba thục xuất thái nguyên
16 - Thánh nhân sinh ư bách sỉ tự tối linh
17 - Thử nhật thiên giáng ngũ sắc vân xích quang màn tự
18 - Tự trung dị hương, tam nhật bất tán
19 - Thầy tăng tu tại thử, dĩ vị thánh nhân thị
20 - Toại chưởng dưỡng chi
21 - Thánh mẫu diện xú như lam
22 - Niên tam thập lục sinh thánh nhân
23 - Hoài nhâm chi nhật
24 - Tam nhật thực nhất lý ngư
25 - Cư ư giang thượng
26 - Quần ngư tranh dược
27 - Mối trạch kỳ, mỗi tiểu chữ thục thực chi
28 - Hậu thường tầm thực chi vu bạch sỉ.
29 - Tự nhi sinh thánh nhân yên.
30 - Nhược ấu thời, cư tại nam nhị thuỷ huyện
31 - Cận gia quan thời cư ư Thái nguyên viên sơn
32 - Thất thập nhị hiền diệc tại thử yên

(Dịch:
1 - Nơi sinh ra ông Thánh nhân
2 - Trong làn nước biếc chứa tàn lọng quý
3 - Chỗ trú ngụ của Thánh nhân
4 - Long hổ bốn bên chầu cả vào
5 - Nơi sinh ra Thánh nhân
6 - Gần sông Bảo giang
7 - Xung quanh đều có nước
8 - Tên hiệu của Thánh nhân
9 - Chữ mộc ở dưới chữ đinh là quẻ ly
10 - Ông thánh nhân diện mão rất có đạo đức
11 - Nên tìm rộng từng bài chọn từng câu
12 - Thánh nhân sinh ra đã lâu năm
13 - Ai đã dễ biết được
14 - Vì người ta chẳng biết vậy
15 - Vào Ba Thục, ra Thái Nguyên
16 - Thánh nhân sinh ở chùa Bạch sỉ rất thiêng
17 - Ngày ấy sinh ra ông thánh nhân trời có năm sắc mây
18 - Đỏ sáng khắp cả chùa
19 - Chùa trong có mùi thơm ba ngày không hết
20 - Lúc bấy giờ có ông sư tu cho điềm lạ có thánh nhân.
21 - Sư bản tự nuôi lớn cho đến trưởng thành
22 - Mẹ ông thánh nhân mặt xấu như đổ chàm
23 - Bà mẹ 36 tuổi sinh ông thánh nhân
24 - Tính từ ngày có thai
25 - Trong ba ngày lại ăn một con cá chép
26 - Trú ở bên sông
27 - Lũ cá tranh nhau nhảy vào
28 - Chọn xem con nào bé thì nấu ăn
29 - Sau thường đi kiếm ăn quanh chùa Bạch Sỉ
30 - Rồi sinh ra ông thánh nhân
31 - Lúc nhỏ sinh ở Nam nhị thuỷ huyện
32 - Lúc lớn ở Thái Nguyên núi Viên Sơn)

XX. Thơ vận niên bằng tên các súc vật:
Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
Có một đàn xà đánh lộn nhau
Vượn nọ leo cành cho hả dạ
Lợn kia làm quá phải xoay đầu
Chuột nọ lăm le mong cắn tổ
Ngựa kia đủng đỉnh chạy về tàu
Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
Tìm về chốn cũ bắt vào tầu
Lợn nằm cũng thấy tên thù
Đại binh đã động phục thù nghênh ngang
Thánh chúa đang ở hang vàng
Khi nào chuột bắc cầu sang mới về

XXI
Cửu cửu kiền khôn dĩ định
Thanh minh thời tiết hoa tàn
Trực đáo dương đầu mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập Tràng An

XXII
Thục vị lai tại thực vi lai
Nam môn vị toả, bắc môn khai
Phong suy ngọc điện lai lai vãng
Nghĩ tụ kim thành khứ khứ hồi
Bách tính âu ca thiền vũ dạ
Cửu châu hoa thảo mả (?) liên đôi
Thử hồi nhị ngũ thiên chu tống
Hảo bá sơn đầu tửu nhất bôi.

XXIII
Thiên địa tuần hoàn âm phục dương
Tứ phương binh khởi tứ phương cường
Tây dương cảnh giới tây dương chủ
Nam quốc sơn hà, nam quốc vương
Lý đỉnh tương huyền, hiềm đỉnh trọng
Mạc thành dục chúc, khủng thành trường
Hoành sơn lộc tẩu nhân dân cộng
Thái lĩnh long phi thục cảm đương

XXIV. Có thơ rằng:
1 - Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh
2 - Can qua xứ xứ khởi đao binh
3 - Mã đầu dương cước anh hùng tận
4 - Thân dậu niên lai kiến thái bình

XXV. Thơ rằng:
1 - Bảo giang thiên tử xuất
2 - Bất chiến tự nhiên thành
3 - Lê dân đào bảo noãn
4 - Tứ hải lạc âu ca
5 - Dục thức thánh nhân hương
6 - Quá kiều cư bắc phương
7 - Danh vị Nguyễn gia tử
8 - Kim tịch sinh Ngưu lang
9 - Bắc hữu kim thành tráng
10 - Nam tạc ngọc bích thành
11 - Hoả thôn đa khuyển phệ
12 - Mục giã dục nhân canh
13 - Phú quý hồng trần mộng
14 - Bần cùng bạch phát sinh
15 - Anh hùng vương kiếm kích
16 - Minh cổ đổ thái bình

XXVI. Thơ rằng:
1 - Việt Nam hữu Ngưu tinh
2 - Quá thất thân thuỷ sinh
3 - Địa giới sỉ vị bạch
4 - Thuỷ trầm nhĩ bất kinh
5 - Kỵ mã khu dương tẩu
6 - Phù kê thắng đại minh
7 - Trư thử giai phong khởi
8 - Thìn mão xuất thái bình
9 - Thuỷ trung tàng bảo cái
10 - Hứa cập thánh nhân hương
11 - Mộc hạ trâm trâm khẩu
12 - Danh thế xuất nan lường
13 - Danh vị nguyễn gia tử
14 - Tinh bản tại ngưu lang
15 - Mại dữ liên viên dưỡng
16 - Khởi nguyệt hộ đại giang
17 - Hoặc kiều tam lộng ngạn
18 - Hoặc ngụ kim lăng cương
19 - Thiên dữ thần thực thuỵ
20 - Thuỵ trình ngũ sắc vân
21 - Kim kê khai lực diệp
22 - Hoàng cái xuất quý phương
23 - Nhân nghĩa thuỳ vi địch
24 - Đạo đức thục dữ đương
25 - Tô truyền nhi thập ngũ
26 - Vận khải ngũ duyên trường
27 - Vận đáo dương hầu cách
28 - Chấn đoài cương bất chấn
29 - Quần gian đạo danh tự
30 - Bách tính khổ tai ương
31 - Can qua tranh đấu khởi
32 - Phạm địch thán hung hăng
33 - Ma vương sát đại quỷ
34 - Hoàng thiên chu ma vương
35 - Kiến khôn phú tải khôn lường
36 - Đào viên đỉnh phú quần dương tranh hùng
37 - Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết
38 - Nẻo Hoành sơn tam liệt ngũ phân
39 - Ta hồ vô chủ vô quân
40 - Đào viên tan tác ngô dân thủ thành
41 - Đoài phương phúc địa giáng linh
42 - Cửu trùng thuỵ ứng long thành ngũ vân
43 - Phá điền thiên tử giáng trần
44 - Dũng sỹ như hai mưu thần nhược lâm
45 - Trần công nãi thị phúc tâm
46 - Đào Tiềm, xử sỹ giang hồ xuất du
47 - Tướng thần hệ xuất y chu
48 - Chư cơ phục kiến, đường ngu thị thành
49 - Hiệu xứng thiên hạ thái bình
50 - Đông tây vô sự nam thành quốc gia
51 - Phân phân đông bắc khởi
52 - Nhiễu nhiễu xuất đông kinh
53 - Bảo giang thiên tử xuất
54 - Bất chiến tự nhiên thành
Tên treo ba mối phục thù
55 - Khen thay Khắc Dụng bày trò cho con
Ngọn cờ nhô nhấp đầu non
56 - Thạch thành mèo lại bon bon chạy về.
Dặm trường lai láng máu dê
Con quay ngã trắng ba que cuộc tàn
Trời nam giở lại đế vương
Thần nhân không phải là phường thầy tăng
Đồng giao đã có câu rằng
57 - Non xanh mà mọc trắng răng mấy kỳ
Bấy giờ quét sạch thử ly
Xin ai nhớ lấy sấm ghi kẻo lầm
Đương khi sấm chớp ầm ầm
Chẳng qua khó số để găm trị bình
Thất phu giám chống thư sinh
Sông ô chấp cả mấy anh thuỷ hoàng
Nực cười những lũ bàng quan
58 - Cờ tàn lại muốn toan đường đấm xe
Thôi thôi mặc lũ thằng hề
Gió mây ta lại đi về gió mây

Bản này là phụ bản trong Thiên phúc Nguyễn Phúc Ấm lục nhâm bát sát độn Thái Ất (Hương Sơn tổng phát hành, Hà Nội, 1950). Bản này gồm nhiều bài thơ.
Bản quốc ngữ Mai Lĩnh

Bản quốc ngữ Mai Lĩnh

I
1. Vận lành mừng gặp tiết lành
Thấy trong quốc ngữ tập tành nên câu
Một câu là một nhiệm màu
Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao
5. Trải vì sao mây che Thái Ất
Thủa cung tay xe nhật phù lên
Việt Nam khởi tổ gây nên
Lạc Long ra trị đương quyền một phương
Thịnh suy bĩ thái chẳng thường
10. Một thời lại một nhiễu nhương nên lề.
Đến Đinh Hoàng là ngôi cửu ngủ
Mở bản đồ rủ áo chắp tay
Ngự đao phút chốc đổi thay
Thập bát tử (giầy) rày quyền đã nổi lên
15. Đông A âm vị nhi truyền
Nam phương kỳ mộc bỗng liền lại sinh
Chấn cung hiện nhật quang minh
Sóng lay khôn chống trường thành bền cho
Đoài cung vẻ rạng trăng thu
20. Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn
Sáng cửu thiên ám vừng hồng nhật
Dưới lẩn trên ăn vẫn uống quen
Sửa sang muôn vật cầm quyền
Ngồi không ai dễ chẳng nhìn giúp cho
25. Kìa liệt vương khí hủ đồ ủng
Mặc cường hầu ông ổng tranh khôn.
Trời sinh ra những kẻ gian
Mặc khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài
Áo vàng ấm áp đà hay
30. Khi sai đắp núi khi sai xây thành
Lấy đạc điền làm công thiên hạ
Được mấy năm đất lở riếng (giếng) mòn
Con yết ạch ạch tranh khôn
Vô già mở hội mộng tôn làm chùa
35. Cơ trời xem đã mê đồ
Đã đô lại muốn mở đô cho người
Ấy lòng trời xui lòng bất nhẫn
Suốt vạn dân cưu giận nhạn than
Dưới trên dốc trí lo toan
40. Những đua bán tước bán quan làm giàu
Thống ru nhau làm mồi phú quí
Mấy trung thần có ý an dân
Đua nhau làm sự bất nhân
Đã tuần rốn bể lại tuần đầu non
45. Dư đồ chia rẽ càn khôn
Mối giường man mác khiếp mòn lòng nhau.
Vội sang giàu giết người lấy của
Sự có chăng mặc nọ ai đôi
Việc làm bất chính tơi bời
50. Mình ra bỗng lại thấy thôi bấy giờ
Xem tượng trời đã gia (giơ) ra trước
Còn hung hăng bạc ngược quá xưa
Cuồng phong cả sớm liền trưa
Đã đờn cửu khúc còn thơ thi đề
55. Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết
Để vạn dân dê lại giết dê
Luôn năm chật vật đi về
Âm binh ở giữa nào hề biết đâu
Thấy thành đô tiếng kêu ong ỏng
60. Cũng một lòng trời chống khác nào
Xem người dường vững chiêm bao
Nào đâu còn muốn ước ao thái bình
Một góc thành làm tám chúng quỷ
Đua một lòng ích kỷ hại nhân
65. Bốn phương rỡ rỡ hồng trần
Làng khua mỏ cá, làng phân điếm tuần
Tiếc là những xuất dân làm bạo
Dục khua loài thỏ cáo tranh nhau
Nhân danh trọn hết đâu đâu
70. Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê
Hùm già lạc dấu khôn về
Mèo non chi chí tìm về cố hương
Chân dê móng khởi tiêu tường
Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình
75. Nội thành hoảng hốt hư kinh
Đầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang
Bở mồ hôi Bắc giang tái mã
Giữa hai xuân bỗng phá tổ long
Quốc trung kinh dụng cáo không
80. Giữa năm vả lại khiếm hung mùa màng
Gà đâu sớm gáy bên tường
Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
Thuỷ binh cờ phất vầng hồng
Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng
85. Đứng hiên ngang đố ai biết trước
Ấy Bắc binh sang việc gì chăng?
Ai còn khoe trí khoe năng
Cấm kia bắt nọ, tưng bừng đôi nơi
Chưa từng thấy đời nào sự lạ
90. Bỗng khiến người giá hoạ cho dân
Muốn bình sao chẳng lấy nhân
Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày
Đã nên si Hoàn Linh đời Hán
Đúc tiền ra bán tước cho dân
95. Xun xoe những rắp cậy quân
Chẳng ngờ thiên xoay vần đã công
Máy hoá công nắm tay dễ ngỏ
Lòng báo thù ai dễ đã nguôi
Thung thăng tưởng thấy đạo trời
100. Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra
Cát lầm bốn bể can qua
Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về
Quân hùng binh nhuệ đầy khe
Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời
105. Bấy giờ càng khốn ai ôi
Quỉ ma chật vật biết trời là đâu?
Thương những kẻ ăn rau ăn rới
Gặp nước bung con cái ẩn đâu
Báo thù ấy chẳng sai đâu
110. Tìm non có rẫy chưng sau mới toàn
Xin những kẻ hai lòng sự chúa
Thấy đâu hơn thì phụ thửa ân
Cho nên phải báo trầm luân
Ai khôn mới được bảo thân đời này.

115. Nói cho hay khảm cung rồng dấy
Chí anh hùng xem lấy mới ngoan
Chữ rằng lục thất nguyệt gian
Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
Hễ nhân kiến đã dời đất cũ
120. Thì phụ nguyên mới chổ (trổ) binh ra
Bốn phương chẳng động can qua
Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi
Bấy giờ mở rộng qui khôi
Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn

125. Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Hoàng phúc xưa đã định tây phong
Làu làu thế giới sáng trong
Lồ lộ mặt rồng đầu có chữ vương
Rõ sinh tài lạ khác thường
130. Thuấn Nghiêu là trí Cao Quang là tài
Xem ý trời có lòng khải thánh
Dốc sinh hiền điều đỉnh hộ mai
Chọn Đẩu, Thai những vì sao cả
Dùng ở tay phụ tá vương gia
135. Bắc phương chính khí sinh ra
Có ông Bạch sĩ điều hoà hôm mai
Song thiên nhật rạng sáng soi
Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường
Đời này thánh kế vi vương
140. Đủ no đạo đức văn chương trong mình
Uy nghi trạng mạo khác hình
Thác cư một gốc kim tinh phương đoài
Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi
Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân
145. Binh thơ mấy quyển kinh luân
Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu
Ở đâu đó anh hùng hẳn biết
Xem sắc mây đã biết thánh long
Thánh nhân cư có thuỵ cung
150. Quân thần đã định gìn lòng chớ tham
Lại dặn đấng tú nam chí cả
Chớ vội vàng tất tả chạy rông
Học cho biết lý kiết hung
Biết phương hướng hội có dùng lầm chi.
155. Hễ trời sinh xuống phải thì
Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông
Kìa những kẻ vội lòng phú quí
Xem trong mình một tí đều không
Ví dù có gặp ngư ông
160. Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng
Xin khuyên đấng thời trung quân tử
Lòng trung nghì ai nhớ cho tinh.
Âm dương cơ ngẫu ngô sinh
Thái nhâm thái ất trong mình cho hay
165. Văn thì luyện nghiên bài quyết thắng
Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh
Võ thông yên thuỷ, thần kinh
Được vào trận chiến mới rành biến cơ
Chớ vật vờ quen loài ong kiến
170. Biết ray tay miệng biến? nói không
Ngõ hay gặp hội mây rồng
Công danh choi chói chép trong vân đài
Bấy giờ phỉ sức chí trai
Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình
175. Nặng lòng thật có vĩ kinh
Cao tay mới gẩm biết tình năm nao
Trên trời có mấy vì sao
Đủ no hiền tướng anh hào đôi nơi
Nước Nam thường có thánh tài
180. Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường
So mấy lời để tàng kim quỉ
Chờ hậu mai có chí sẽ cho
Trước là biết nẻo tôn phò
Sau là cao chí biết lo mặc lòng

185. Xem đoài cung đến thời bất tạo
Thấy vĩ tinh liệu rạo (rảo, tháo?) cho mau
Nguôi lòng tham tước tham giàu
Tìm nơi tham (tam?) hiểm mới hầu bảo thân
Trẻ con mang mệnh tướng quân
190. Ngỡ oai đã dậy, ngỡ nhân đã nhường
Ai lấy gương vua U thủa trước
Loạn ru vì tham ngược bất nhân.
Đòi phương ong khởi lần lần
Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn
195. Man mác một đỉnh Hoành Sơn
Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù
Ấy là những binh thù thái thái
Lòng trời xui ai nấy biết ru?
Phá điền đầu khỉ cuối thu
200. Tái binh mới động thập thò liền sang
Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết
Vẻ lại thêm hung hiệt mất mùa
Lưu tinh hiện trước đôi thu
Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm
Coi thấy những sương xâm tuyết lạnh
Loài bất bình tranh mạnh hung hăng
Thành câu cá, lửa tưng bừng
Kẻ ngàn Đông Hải người rừng Bắc Lâm
Chiến trường chốn chốn cát lầm
210. Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông
Sang thu chín huyết hồng tứ giả
Noi đàn dê tranh phá đôi nơi
Đua nhau đồ thán quần lê
Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương
215. Kẻ thì phải thửa hung hoang
Kẻ thì binh hoả chiến trường chết oan
Kẻ thì mắc thửa hung tàn
Kẻ thì bận của bỗng toan khốn mình
Muông vương dựng tổ cắn tranh
220. Điều thì làm chước xuất binh thủ thành
Bời bời đua mạnh tranh giành
Ra đâu đánh đấy đem binh sớm ngày
Bể thanh cá phải ẩn cây
Đất bằng nổi sấm cát bay mịt mù
225. Nào ai đã dễ nhìn u
Thuỷ chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn
Cây bay lá lửa đôi ngàn
Một làng còn mấy chim đàn bay ra
Bốn phương cùng có can qua
230. Làm sao cho biết nơi hoà bảo thân
Đoài phương thực có chân nhân
Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người
Tìm cho được chốn được nơi
Thái nguyên một giải lần chơi trú đình
235. Bốn bề núi đá riễu quanh
Một đường tiểu mạch nương mình đấy an
Hễ Đông Nam nhiều phen tàn tặc
Lánh cho xa kẻo mắc đao binh
Bắc kinh mới thật đế kinh
240. Giấu thân chưa dễ giấu danh được nào
Chim hồng vỗ cánh bay cao
Tìm cho được chốn mới vào thần kinh.
Ai dễ cứu con thơ sa giếng
Đua một lòng tranh tiếng giục nhau.
245. Vạn dân chịu thửa âu sầu
Kể dư đôi ngũ mới hầu khoan cho
Cấy cày thu đãi thời mùa
Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai
Nhân ra cận duyệt viễn lai
250. Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm
Xem tượng trời biết đường đời trị
Gẫm về sau họ Lý xưa nên
Giòng nhà để thấy dấu truyền
Gẫm xem bốn báu còn in đời đời
255. Thần qui cơ nổ ở trời
Để làm thần khí thửa nơi trị trường

Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Sông Bảo Giang thiên định ai hay
Lục thất cho biết ngày dầy (rày)
260. Phụ nguyên ấy thực ở giầy (rày) Tào khê
Có thầy Nhân thập đi về
Tả phụ hữu trì cây cỏ làm binh
Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp
Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời
265. Ra tay điều đỉnh hộ mai
Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân
Lọ là phải nhọc kéo quân
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về
Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng
270. Lộ Ngũ tinh trinh tượng thái hanh
Ân trên vũ thí vân hành
Kẻ thơ ký tuý kẻ canh xuân đài
Bản đồ chảng sót cho ai
Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn
275. Vững nền vương cha truyền con nối
Dõi muôn đời một mối xa thư
Bể kình tăm lặng bằng tờ
Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân
Âu vàng khoẻ đặt vững chân
280. Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài

II
281. Vừa năm giáp tý xuân đầu
Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời
Quyển vàng mở thấy sấm trời
Từ Đinh đổi đời chí lục thất gian
285. Một thời có một tôi ngoan
Giúp trong việc nước gặp an thái bình
..........
Luận chung một tập kim thời
Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi
Trượng phu có chí thời coi
290. Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng
Tài nầy nên đấng vẻ vang
Biết chừng đời trị biết đường đời suy
Kể từ nhân doãn mà đi
Số chưa gặp thì biết hoà (mà) chép ra
295. Tiếc thay hiền sĩ bao già
Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công
Thử cho tay giúp ra dùng
Tài này so cùng tài trước xem sao
Trên trời kể chín tầng cao
300. Tai nghe bằng một ti hào biết hay
Hiềm vì sinh phải thời này
Rấp phù mở nước tiếc thay chưng đời.
Hợp đà thay thánh nghìn tài
Dáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời
305. Nói ra thì lậu sự đời
Trái tai phải luỵ tài trai khôn luần
Nói ra ám chúa bội quân
Đương thời đời trị xoay vần đặng đâu.
Chờ cho nhân doãn hết sau,
310. Đến chừng đời ấy thấy âu nhiều nàn
Trời xui những kẻ ắt (ác?) gian
Kiếp đời đạo thiết làm loàn có hay
Vua nào tôi ấy đã bày
Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn
.........
315. Đua nhau bội bạn nghịch vi
Ích gia phi kỷ dân thì khốn thay
Tiếc tài gẫm được thời hay
Đã sao như vậy ra tay sẽ dùng
Tài trai có chí anh hùng
320. Muốn làm tướng suý lập công chưng đời
Khá xem nhiệm nhặt tộ trời
Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng
Đi tìm cho đến đế cung
Rấp phù xuất lực đế cung được toàn.
325. Bảo nhau cương kỷ cho tường
Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài
Chờ cho động đất chuyển trời
Bấy giờ thánh sẽ nên trai anh hùng
Còn bên thì náu chưa xong
330. Nhân lực cướp lấy thiên công những là
Đời ấy những quỉ cùng ma
Chẳng còn ở thật người ta đâu mà
Trời cao đất rộng bao xa
Làm sao cho biết cửa nhà đế vương
335. Dù trai ai chửa biết tường
Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này
Ý ra lục thất gian nay,
Thời vận đã định thời nầy hưng vương
Trí xem nhiệm nhặt cho tường
340. Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy
Vua ngự thạch bàn xa thay
Đại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
Gà kêu vượn hót vang lừng
Đường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò
345. Nhân dân vắng mạt bằng tờ
Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay
Vua còn cuốc nguyệt cày mây
Phong điều vũ thuận thú rày an dân
Phong đăng hoà cốc chứa chang
350. Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây
Chính cung phương khảm vần mây
Thực thay thiên tử là nay trị đời
Anh hùng trí lượng thời coi
Công danh chẳng ngại tìm đòi ra đi
355. Tìm lên đến thạch bàn khê
Có đất sinh thánh bên kia cuối làng
Nhìn đi nhìn lại cho tường
Dường như chửa có sinh vương đâu là
Chảng tìm thì đến bình gia
360. Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình
Nhìn xem phong cảnh cũng xinh
Tả long triều lại có thành đợt vây
Hửu hổ uấn khúc giang này
Minh Đường thất diệu trước bày mặt ta.
365. Ở xa thấy một con voi
Cúi đầu quen bụi trông hồ sau
Ấy điềm thiên tử về chầu
Tượng trưng đế thánh tộ lâu trị đời
Song thiên nhật nguyệt sáng soi
370. Sinh đặng chùa ấy là ngôi chẳng cầu
Đến thời thịnh vượng còn lâu
Đành đến tam hợp chia nhau sẽ làm
Khuyên cho Đông Bắc Tây Nam
Muốn làm tướng suý thì xem trông này

375. Thiên sinh thiên tử ư hoả thôn
Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn
Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn

Kìa cơn gió thổi lá rung cây
380. Rung Bắc sang Nam Đông tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am mây
Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
Hưng địa tràng giang hoá nước đầy
385. Một gió một yên ai sùng bái
Cha con người Vĩnh Bảo cho hay

Con mừng búng tít con quay
Vù vù chong chóng gió bay trên đài
Nhà cha cửa đóng then cài
390. Ầm ầm sấm động hỏi người đông lân
Tiếc tám lạng thương nửa cân
Biết rằng ai có dù phần như ai
Vắt tay nằm nghỉ dông dài
Thương người có một lo hai phận mình.

395. Canh niên tàn phá
Tuất hợi phục sinh
Nhị ngũ dư bình

Long hổ xà đầu khởi chiến tranh
Can qua tứ xứ khởi đao binh
400. Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân dậu niên lai kiến thái bình.

Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
Có một đàn xà đánh lộn nhau
Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
405. Lợn kia làm quái phải sai đầu
Chuột nọ lăm le mong cắn tổ
Ngựa kia đủng đỉnh bước về tầu
Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
Tìm về quê cũ bắt ngựa tầu.

410. Cửu cửu kiền khôn dĩ định
Thanh minh thời tiết hoa tàn
Trực đáo dương đầu mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập trường an.

Bảo Giang thiên tử xuất
415. Bất chiến tự nhiên thành
Lê dân đào bão noãn
Tứ hải lạc âu ca
Dục thức thánh nhân hương
Qua kiều cư Bắc phương
420. Danh vi Nguyễn gia tử
Kim tịch sinh ngưu lang

Thượng đại nhân bất nhân
Thánh ất dĩ vong ân
Bạch hổ kim đai ấn
425. Thất thập cổ lai xuân

Bắc hữu kim thành tráng
Nam tạc ngọc bích thành
Hoả thôn đa khuyển phệ
Mục giả dục nhân canh

430. Phú quí hồng trần mộng
Bần cùng bạch phát sinh
Anh hùng vương kiếm kích
Man cổ đổ thái bình
Nam Việt hửu Ngưu tinh
Quá thất thân thuỷ sinh
Điạ giới sĩ vị bạch
Thuỷ trâm nhi bắc kinh
Ký mã xu dương tẩu
Phù kê thăng đại minh
440. Chư thử giai phong khởi
Thìn mão xuất thái bình

Phân phân tùng Bắc khởi
Nhiểu nhiểu xuất Đông chinh
Bảo sơn thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành

Thuỷ trung tàng bảo cái
Hứa cập thánh nhân hương
Mộc hạ châm châm khẩu
Danh thế xuất nan lường

450. Danh vi Nguyễn gia tử
Tinh bản tại Ngưu lang
Mại dữ lê viện dưỡng
Khởi nguyệt bộ đại giang
Hoặc kiều tam lộng ngạn
Hoặc ngụ kim lăng cương
Thiên dữ thần thực thuỵ
Thuỵ trình ngũ sắc quang
Kim kê khai lựu điệp
Hoàng cái xuất quí phương
460. Nhân nghĩa thuỳ vi địch.
Đạo đức thuỳ dữ đương
Tộ truyền nhị thập ngũ
Vận khải ngũ viên trường
Vận đáo dương hầu ách
Chấn đoài cương bất trường
Quần gian đạo danh tự
Bách tính khổ tai ương
Can qua tranh đấu khởi
Phạm địch thán hung hoang.
470. Ma vương sát đại quỉ
Hoàng thiên tru ma vương
Kiền khôn phú tái vô lường
Đào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng (40)
Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết
Đảo Hoành Sơn tam liệt ngũ phân
Ta hồ vô phụ vô quân
Đào viên tán lạc ngô dân thủ hành.
Đoài phương phúc điạ giáng linh
Cửu trùng thuỵ ứng long thành ngũ vân.
480. Phá điền thiên tử giáng trần
Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm.
Trần công nãi thị phúc tâm
Giang hồ xử sĩ Đào Tiềm xuất du
Tướng thần hệ xuất y chu
Thứ ky phục kiến Đường ngu thi thành
Hiệu xưng thiên hạ thái bình
487. Đông Tây vô sự Nam thành quốc gia.

Bản này là bản lưu truyền phổ biến nhất, gốc là bản AB.444 tại Viện Hán Nôm. Bản Đông Nam Á (Sài Gòn, 1964) cũng giống bản này chỉ khác vài chữ, có thể vì đánh máy sai hoặc đọc sai. Các bản khác cũng vậy. Bản này là tập hợp hai bản khác nhau, không biết cùng của Trạng Trình hay của ai. Bản Trình quốc công ký tại nhà cụ nghè Bân là đoạn thứ hai.
Bản quốc ngữ Nguyễn Quân

Bản quốc ngữ Nguyễn Quân

1. Nước Nam thường có thánh tài
Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường
Kia Nhị thuỷ nọ Dao sơn
Bãi ngọc đất nổi âu vàng trời cho
5. Học cách vật mới dò tới chốn
Chép ghi làm một bổn xem chơi.
Muôn việc cũng bởi tại người
Suy ra mới biết sự đời nhường bao
Dẫu ai có vàng treo ngàn hột,
10. Chẳng báu hơn chữ một nghĩa mười.
Tiên hoàng từ trước mở ngôi,
Cờ lau tập trận thay trời trị dân.
Mới được mười hai dư xuân,
Lê Hành kế vị xa gần âu ca.
15. Ba mươi năm ngôi nhà được lẻ,
Đến Ngoạ triều mới kể tai bay.
Ngôi trời để Lý vào thay
Tám cành hoa nở đến ngày dực phân.
Chiều Hoàng là ả nữ quân
20. Thấp bề nhan sắc trao Trần thái tôn
Thập nhị thế tiếng đồn nhân hậu.
Trăm bảy mươi ghi dấu thất niên
Đông A chốn ấy còn bền
Quý Ly tiếm thiết thay quyền đã cam.
25. Đại Ngu được mười bốn năm
Hậu thập nhị để lại chăm phục hồi
Suy ra mới biết sự trời
Lam Sơn khởi nghĩa là đời Lê gia.
Tây Sơn sừng sực kéo ra,
30. Ngẫm xem thế tục gọi là phương ngôn.
Đến Phụ nguyên đời còn chinh chiến,
Trải bao thu dâu biển cát lầm,
Ngàn xa vực thẳm nguồn thân
Nào ai biết lẽ nhân tâm lúc này.
35. Chó mừng chúa gà bày cộc tác,
Lợn ăn no tha rác nằm chơi,
Đó mới kể là đời thịnh thế.
Mà thiên hạ sao xẻ làm hai.
Người Đoài cũng thực ấy tài,
40. Mà cho người Sở toan bài lập công.
Bởi Trần vương ngu không kể xiết,
Mới phen này dê giết lại dê.
Đến khi thực tận binh bì,
Âm binh ở giữa dễ thì biết sao.
45. Trời cho ta mang dao chém quỷ,
Khắp dưới trời bình trị quỷ hư.
Ai từng cứu con thơ sa giếng,
Chờ một lòng chinh chiến phá nhau.
Muôn dân chịu những âu sầu,
50. Kể dư nhị ngũ mới hầu biết cho.
Chốn đông nam là lò khổ ải,
Lánh cho xa kẻo phải đao binh.
Bắc phương chỉn thực đế kinh,
Náu mình chưa dễ náu danh được nào.
55. Vả người là đấng anh hào,
Đánh làm sao đưọc ước ao đêm ngày.
Ấy những quân đời này thế ấy,
Lòng trời xui ai nấy biết đâu.
Chớ đừng tham của làm giàu
60. Tìm nơi tam hiểm ngõ hầu bảo thân.
Đà giang chốn ấy cũng gần,
Kim ngưu chốn ấy cũng gần thuở nơi.
Ba Thục riêng một góc trời,
Thái Nguyên một gải là nơi trú đình.
65. Tứ bề núi đá xanh xanh,
Có đường tiểu mạch nương mình ai hay.
Bốn bụt xuất thế đã chầy
Chưa chọn được ngày ra cứu nhân dân.
Ấy là điềm xuất thánh quân,
70. Hễ ai biết được thì thân mới toàn.
Chữ rằng:" hữu xạ tự nhiên hương",
Có phải tầm thường thuốc dấu bán sao?
Nắng lâu ắt có mưa rào,
Vội chi tát nước xôn xao cày bừa.
75. Hạn rồi thì phải có mưa,
Buồm giương gặp gió cày bừa gặp cơn.
Tuần này thánh xuất khảm phương,
Sự thật đã tường chẳng lọ phải suy.
Quân hùng binh dậy sơn khê,
80. Kẻ khoe cứu nước, người khoe trợ đời.
Xem thấy những sương rơi tuyết lạnh,
Loài bất bình tranh cạnh hung hăng,
Một cơn sóng dậy đất bằng,
Thánh nhân ra mới cứu hằng sinh linh.
85. Lược thao văn võ tài tình,
Mới hay phú quý hiển vinh lạ lùng.
Tam công gặp hội vui mừng,
Bõ khi cá nước vẫy vùng biển sông.
Bõ khi chém rắn vẽ rồng,
90. Bõ khi non bắc ải đông mịt mù
Bõ khi kẻ VIệt người Hồ,
Bõ khi kẻ Sở người Ngô xa đường.
Càn khôn phú tái khôn lường,
Đào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng.
95. Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết
Đảo Hoành sơn tam liệt ngũ phân,
Ta hồ vô phụ vô quân,
Đào viên tản lạc ngô dân thủ thành.
Đà giang phúc địa giáng linh,
100. Cửu trùng thuỵ ứng long thành ngũ vân.
Phá điền thiên tử giáng trần
Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm.
Trần công nãi thị phúc tâm,
Giang hồ xử sĩ Đào Tiềm xuất du.
105. Tướng thần hệ xuất Y Chu
Thử kỳ phục kiến Đường ngu thi thành
107. Hiệu xưng thiên hạ thái bình

Bản này có đề Bạch Vân ca, in trong Bạch Vân quốc ngữ thi (NXB Sống Mới, Sài Gòn, 1974).
Bản quốc ngữ Sở Cuồng

Bản quốc ngữ Sở Cuồng

I
1. Vận lành mừng gặp tiết lành
Thấy trong
quốc ngữQuốc ngữ hay quốc âm là chữ nôm.
tập tành nên câu
Một câu là một nhiệm màu
Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao
5. Trải vì sao mây che Thái Ất
Thủa cung tay
xe nhậtNguyễn Khuê theo bản Đại La chú là xe Phật.
phù lên
Việt Nam khởi tổ gây nên
Lạc Long ra trị đương quyền một phương
Thịnh suy bĩ thái chẳng thường
10. Một thời lại một nhiễu nhương
nên lềNên lề thói, thành thói quen, thành tập quán.
.
Đến Đinh Hoàng là ngôi
cửu ngũQuẻ Càn, hào cửu ngũ, Hào từ có câu: “Cửu ngũ: phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân” 九五:飛龍在天,利見大人. Cửu ngũ là hào đẹp nhất, hào số 5 trong quẻ Càn. Quẻ càn đại diện cho dương trong âm dương, cho nhật trong nhật nguyệt, vua chúa. Chi tôn (chí tôn), người có địa vị tối cao cửu ngũ chi tôn, nói ngắn gọn là để chỉ hoàng đế, là ngôi vua. Đinh Hoàng cửu ngũ tức Đinh Bộ Lĩnh làm vua.

Mở bản đồ rủ áo chắp tay
Ngự đao phút chốc đổi thay
Thập bát tửViết là 十八子, chiết tự của họ Lý 李, chỉ Lý Công Uẩn.
Có 1 bài cùng chú thích:
  • Phùng thượng thư ký (Phùng Khắc Khoan)
(giầy)
ràyBấy giờ.
quyền đã nổi lên
15.
Đông ALà nhà Trần . Trong chữ Trần có chữ đông và bộ phụ của chữ a .
Có 7 bài cùng chú thích:
  • Trần cung hoài cổ (Nguyễn Thượng Hiền)
  • Chiêu Dương mộ bạc (Ninh Tốn)
  • Phùng thượng thư ký (Phùng Khắc Khoan)
  • Đề Nghĩa Vương miếu (Nguyễn Phạm Tuân)
  • Ký hữu (Phạm Bành)
  • Quá Chu Văn Trinh công miếu hữu hoài kỳ 2 (Ngô Thì Nhậm)
  • Đề Bảo Chân quán hiên bích hoạ đồ bát tuyệt kỳ 6 - Đề Phao Sơn đồ (Phan Huy Ích)
âm vịLà con gái. Trần Cảnh lấy Chiêu hoàng là nữ, là vợ truyền ngôi cho chồng.
nhi truyền
Nam phương kỳ mộcHay “Hoà đao mộc lạc” chỉ họ Lê 梨, 棃, có chữ đao. Dị mộc chỉ họ Lê.
bỗng liền lại sinh
Chấn cung hiện nhậtHoặc “Chấn cung nhật hiện”, chỉ họ Trịnh vì chữ Trịnh có chữ nhật, và cũng chỉ họ Mạc , vì trong chữ Mạc có chữ nhật.
Có 1 bài cùng chú thích:
  • Phùng thượng thư ký (Phùng Khắc Khoan)
quang minh
Sóng lay khôn chống trường thành bền cho
Đoài cung vẻ rạng trăng thu
20. Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn
Sáng cửu thiên ám vừng hồng nhật
Dưới lẫn trên ăn vẫn uống quen
Sửa sang muôn vật (việc) cầm quyền
Ngồi không ai dễ chẳng nhìn giúp cho
25. Kìa (khi) liệt vương khí hủ đồ ủng
Mặc cường hầu ông ổng tranh khôn.
Trời sinh ra những kẻ gian
Mặc khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài
Áo vàng ấm áp đà hay
30. Khi sai đắp núi khi sai xây thành
Lấy đạc điền làm công thiên hạ
Được mấy năm đất lở riếng (giếng) mòn
Con yết ạch ạch tranh khôn
Vô già mở hội mộng tôn làm chùa
35. Cơ trời xem đã mê đồ
Đã đô lại muốn mở đô cho người
Ấy lòng trời xui lòng bất nhẫn
Suốt vạn dân cưu giận nhạn than
Dưới trên dốc trí lo toan
40. Những đua bán tước bán quan làm giàu
Thống rủ nhau làm mồi phú quý
Mấy trung thần có chí an dân
Đua nhau làm sự bất nhân
Đã tuần rốn bể lại tuần đầu non
45. Dư đồ chia rẽ càn khôn
Mối giường man mác khiếp mòn lòng nhau.
Vội sang giàu giết người lấy của
Sự có chăng mặc nọ
ai đôiBản Đại La chép là “ai đòi”.

Việc làm bất chính tơi bời
50. Mình ra bỗng lại thấy thôi bấy giờ
Xem tượng trời đã
giaCó thể là giơ hay đưa?
Có 11 bài cùng chú thích:
  • Hồi 15: Hoạn Thư ghen tuông lập kế (Nguyễn Du)
  • Đào yêu 1 (Khổng Tử)
  • Trâu ngu 1 (Khổng Tử)
  • Quân tử giai lão 1 (Khổng Tử)
  • Tái trì 2 (Khổng Tử)
  • Nữ viết kê minh 2 (Khổng Tử)
  • Kiêm gia 1 (Khổng Tử)
  • Xi hiêu 3 (Khổng Tử)
  • Phá phủ 2 (Khổng Tử)
  • Nhân một đám cưới, thử nói về tình yêu (Đông Trình)
  • Thuật việc bị bắt (Cao Bá Nhạ)
ra trước
Còn hung hăng bạc ngược quá xưa
Cuồng phong cả sớm liền trưa
Đã đờn cửu khúc còn thơ thi đề
55. Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết
Để vạn dân dê lại giết dê
Luôn năm chật vật đi về
Âm binh ở giữa nào hề biết đâu
Thấy thành đô tiếng kêu ong ỏng
60. Cũng một lòng trời chống khác nào
Xem người dường vững chiêm bao
Nào đâu còn muốn ước ao thái bình
Một góc thành làm tám chúng quỷ
Đua một lòng ích kỷ hại nhân
65. Bốn phương rỡ rỡ hồng trần
Làng khua
mõ cáMõ làm bằng gỗ theo hình dáng con cá.
Có 1 bài cùng chú thích:
  • Canh một (I) (Lê Thánh Tông)
, làng phân
điếm tuầnNơi tuần phu tụ họp để canh gác.

Tiếc là những
suấtĐốc suất, ra lệnh, đôn đốc dân làm biệc tàn bạo.
Có 1 bài cùng chú thích:
  • Báo Thiên tự thi kỳ 1 (Trịnh Căn)
dân làm bạo
Dục khua loài thỏ cáo tranh nhau
Nhân danh trọn hết đâu đâu
70. Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê
Hùm già lạc dấu khôn về
Mèo non chi chí tìm về cố hương
Chân dê móng khởi tiêu tường
Nghi nhau
ai dễBản Đại La chép là “ai để”.
sửa sang một mình
75. Nội thành ông ổng hư kinh
Đầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang
Bở mồ hôi Bắc giang tái mã
Giữa hai xuân bỗng phá tổ long
Quốc trung kinh dụng cáo không
80. Giữa năm vả lại khiếm hung mùa màng
Gà đâu sớm gáy bên tường
Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
Thuỷ binh cờ phất vầng hồng
Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng
85. Đứng (đấng) hiên ngang đố ai biết trước
Ấy Bắc binh sang việc gì chăng?
Ai còn khoe trí khoe năng
Cấm kia bắt nọ, tưng bừng đôi nơi
Chưa từng thấy đời nào sự lạ
90. Bỗng khiến người giá hoạ cho dân
Muốn bình sao chẳng lấy nhân
Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày
Đã nên si Hoàn Linh đời Hán
Đúc tiền ra bán tước cho dân
95. Xun xoe những rắp cậy quân
Chẳng ngờ thiên xoay vần đã công
Máy hoá công nắm tay dễ ngỏ
Lòng báo thù ai thủa đã nguôi
Thung thăng tưởng thấy đạo trời
100.
Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân raNguyễn Kim phù Lê diệt Mạc đem quân từ Thanh Hoá ra Thăng Long dẹp họ Mạc.

Cát lầm bốn bể can qua
Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về
Quân hùng binh nhuệ đầy khe
Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời
105. Bấy giờ càng khốn ai ôi
Quỉ ma chật vật biết trời là đâu?
Thương những kẻ ăn rau ăn rới
Gặp nước bung con cái ẩn đâu
Báo thù ấy chẳng sai đâu
110. Tìm non có rẫy chưng sau mới toàn
Xin những kẻ hai lòng sự chúa
Thấy đâu hơn thì phụ thửa ân
Cho nên phải báo trầm luân
Ai khôn mới được bảo thân đời này.

115. Nói cho hay khảm cung rồng dấy
Chí anh hùng xem lấy mới ngoan
Chữ rằng
lục thất nguyệt gianLục thất cho biết ngày dầy (rày). Bản Phùng thượng thư chú: “Ngôn Nguyễn thị sinh ư bắc phương, cư tại Sơn Tây xứ” (Họ Nguyễn sinh ở phương bắc, sống ở Sơn Tây). Tuy nhiên Tào Khê ở tỉnh Quảng Đông, là nơi Lục tổ Huệ Năng truyền đạo. Lục thất 六七 ám chỉ họ Nguyễn vì Lục Thất có đồng âm 陸室. Lục là họ Nguyễn vì trong chữ lục có chữ Nguyễn. Thất là nhà. Lục thất là nhà Nguyễn. Họ Nguyễn làm vua là dòng họ Nguyễn Gia Miêu là ở Thanh Hoá.

Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
Hễ
nhân kiếnNhân Doãn tức là ngươi Doãn, Duẫn, hoặc người tên Doãn, Duẫn, chỉ vua Lê Chiêu Thống 黎昭統. Trong chữ Thống có chữ Duẫn cũng đọc là Doãn. Lê Chiêu Thống tên thật là Lê Duy Khiêm 黎維謙. Chữ Khiêm trong có chữ Kiến , . Sau khi Lê Chiêu Thống theo quân Thanh chạy sang Trung Quốc, bỏ Thăng Long, Nguyễn Huệ đem binh đánh tan quân Thanh, và một thời gian nữa thì Nguyễn Ánh đem binh ra đánh tan Tây Sơn, thống nhất đất nước.
đã dời đất cũ
120. Thì
phụ nguyênHọ Nguyễn . Chữ Nguyễn là do chữ nguyên với bộ phụ 阝 (阜).
mới chổ (trổ) binh ra
Bốn phương chẳng động can qua
Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi
Bấy giờ mở rộng qui khôi
Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn

125. Lại nói sự
Hoàng GiangDòng Nguyễn Hoàng sinh ra các vị vua triều Nguyễn.
sinh thánh
Hoàng phúc xưa đã định tây phong
Làu làu thế giới sáng trong
Lồ lộ mặt rồng đầu có chữ vương
Rõ sinh tài lạ khác thường
130. Thuấn Nghiêu là trí Cao Quang là tài
Xem ý trời có lòng khải thánh
Dốc sinh hiền
điều đỉnhBản Đại La chép là “Điều tỉnh”, nhưng điều đỉnh hộ mai mới đúng. Điển này ý nói việc chính trị cũng như việc nấu canh nấu cơm phải biết điều hoà củi lửa, nêm nếm. Câu này giống câu “Nhược tác hoà canh, nhĩ duy diêm mai” 若作和羹,爾惟鹽梅 (Nếu nấu canh ăn, chỉ nên dùng muối và mơ). Muối mặn, mơ chua làm gia vị cho canh ngon, ý nói việc lương tướng hiền thần giúp vua trị nước. Nay gọi quan tể tướng là điều mai 調梅 hay hoà mai 和梅 là bởi ý đó.
Có 2 bài cùng chú thích:
  • Phụng hoạ ngự chế “Mai hoa” (Nguyễn Quang Bật)
  • Phụng hoạ ngự chế “Mai hoa” (Ngô Hoán)
hộ mai
Chọn Đẩu, Thai những vì sao cả
Dùng ở tay phụ tá vương gia
135. Bắc phương chính khí sinh ra
Có ông
Bạch sĩKhông rõ là ai.
điều hoà hôm mai
Song thiênTuổi Quý 癸 (trên là chữ song, dưới là chữ thiên).
Có 1 bài cùng chú thích:
  • Phùng thượng thư ký (Phùng Khắc Khoan)
nhật rạng sáng soi
Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường
Đời này thánh kế vi vương
140. Đủ no đạo đức văn chương trong mình
Uy nghi trạng mạo khác hình
Thác cư một gốc kim tinh phương đoài
Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi
Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân
145. Binh thơ mấy quyển kinh luân
Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu
đâu đóBản Sở Cuồng thiếu, bản Mai Lĩnh có đủ.
anh hùng hẳn biết
Xem sắc mây đã biết
thánh longBản Sở Cuồng chép là “thành long”, nhưng “thánh long” thì đúng hơn.

Thánh nhân cư có thuỵ cung
150. Quân thần đã định gìn lòng chớ tham
Lại dặn đấng tú nam chí cả
Chớ vội vàng tất tả chạy rông
Học cho biết lý kiết hung
Biết phương hướng hội có dùng lầm chi.
155. Hễ trời sinh xuống phải thì
Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông
Kìa những kẻ vội lòng phú quý
Xem trong mình một tí đều không
Ví dù có gặp ngư ông
160. Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng
Xin khuyên đấng thời trung quân tử
Lòng trung nghì ai nhớ cho tinh.
Âm dương cơ ngẫu
ngô sinhBản Đại La chép là “số sinh”.
Có 1 bài cùng chú thích:
  • Đông nhật Lạc thành bắc, yết Huyền Nguyên Hoàng Đế miếu (Đỗ Phủ)

Thái nhâm thái ất trong mình cho hay
165. Văn thì luyện nghiên bài quyết thắng
Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh
Võ thông yên thuỷ, thần kinh
Được vào trận chiến mới
rànhBản Đại La chép là “dành”, nhưng “rành” thì đúng hơn.
biến cơ
Chớ vật vờ quen loài ong kiến
170. Biết ray tay miệng biến? nói không
Ngõ hay gặp hội mây rồng
Công danh choi chói chép trong vân đài
Bấy giờ phỉ sức chí trai
Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình
175. Nặng lòng thật có vĩ kinh
Cao tay mới gẩm biết tình năm nao
Trên trời có mấy vì sao
Đủ no hiền tướng anh hào đôi nơi
Nước Nam thường có thánh tài
180. Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường
So mấy lời để tàng kim quỷ
Chờ hậu mai có chí sẽ cho
Trước là biết nẻo tôn phò
Sau là cao chí biết lo mặc lòng

185. Xem đoài cung đến thời bất tạo
Thấy
vĩ tinhSao chổi. Cổ nhân cho rằng sao chổi xuất hiện là báo hiệu nước loạn.
liệu
rạoCó thể đọc là “rảo”, hay “tháo”, là chạy trốn.
cho mau
Nguôi lòng tham tước tham giàu
Tìm nơi
tham hiểmCó lẽ là “tam hiểm”. Ba nơi hiểm trở có đủ yếu tố thiên thời, địa lợi và nhân hoà. Quyển Phùng thượng thư ký cho biết ba nơi là vùng sơn động Thái Nguyên, Tản Viên (Sơn Tây), và Vị Khê (không rõ ở đâu).
mới hầu bảo thân
Trẻ con mang mệnh tướng quân
190. Ngỡ oai đã dậy, ngỡ nhân đã nhường
Ai lấy gương vua U thủa trước
Loạn ru vì tham ngược bất nhân.
Đòi phương ong khởi lần lần
Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn
195. Man mác một đỉnh Hoành Sơn
Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù
Ấy là những binh thù thái thái
Lòng trời xui ai nấy biết ru?
Phá điềnQuốc phá, là nước mất bởi vì chữ điền 田 giống chữ quốc 国, cả hai chữ thuộc bộ vi 囗. Cũng có người giải là năm Sửu vì chữ Sửu 丑 giống nửa chữ điền.
đầu khỉ cuối thu
200.
Tái binhBinh ở biên cương.
mới động thập thò liền sang
Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết
Vẻ lại thêm hung hiệt mất mùa
Lưu tinh hiện trước đôi thu
Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm
205. Coi thấy những sương xâm tuyết lạnh
Loài bất bình tranh mạnh hung hăng
Thành câu cá, lửa tưng bừng
Kẻ ngàn Đông Hải người rừng Bắc Lâm
Chiến trường chốn chốn cát lầm
210. Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông
Sang thu chín huyết hồng tứ giả
Noi đàn dê tranh phá đôi nơi
Đua nhau đồ thán quần lê
Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương
215. Kẻ thì phải thửa hung hoang
Kẻ thì binh hoả chiến trường chết oan
Kẻ thì mắc thửa hung tàn
Kẻ thì bận của bỗng toan khốn mình
Muông vương dựng tổ cắn tranh
220. Điều thì làm chước xuất binh thủ thành
Bời bời đua mạnh tranh giành
Ra đâu đánh đấy đem binh sớm ngày
Bể thanh cá phải ẩn cây
Đất bằng nổi sấm cát bay mịt mù
225. Nào ai đã dễ nhìn u
Thuỷ chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn
Cây bay lá lửa đôi ngàn
Một làng còn mấy chim đàn bay ra
Bốn phương cùng có can qua
230. Làm sao cho biết nơi hoà bảo thân
Đoài phương thực có chân nhân
Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người
Tìm cho được chốn được nơi
Thái nguyên một giải lần chơi trú đình
235. Bốn bề núi đá riễu quanh
Một đường tiểu mạch nương mình đấy an
Hễ Đông Nam nhiều phen tàn tặc
Lánh cho xa kẻo mắc đao binh
Bắc kinh mới thật đế kinh
240. Giấu thân chưa dễ giấu danh được nào
Chim hồng vỗ cánh bay cao
Tìm cho được chốn mới vào thần kinh.
Ai dễ cứu con thơ sa giếng
Đua một lòng tranh tiếng giục nhau.
245. Vạn dân chịu thửa âu sầu
Kể dư đôi ngũ mới hầu khoan cho
Cấy cày thu đãi thời mùa
Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai
Nhân ra cận duyệt viễn lai
250. Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm
Xem tượng trời biết đường đời trị
Gẫm về sau họ Lý xưa nên
Giòng nhà để thấy dấu truyền
Gẫm xem bốn báu còn in đời đời
255. Thần qui cơ nổ ở trời
Để làm thần khí thửa nơi trị trường

Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Sông Bảo Giang thiên định ai hay
Lục thất cho biết ngày dầy (rày)
260. Phụ nguyên ấy thực ở giầy (rày) Tào khê
Có thầy
Nhân thậpTrước đây các vị đã giải đoán là chữ tản vì có chữ nhân và 4 chữ nhân nhỏ với chữ thập thành chữ tản . Ba chữ “thầy nhân thập” đọc và viết theo pháp âm chữ Nho là “thập nhân tử” 人十子 (chữ tử còn gọi là thầy như Lão Tử, Trang Tử, Khổng Tử,...), có nghĩa là họ Lý . Ông này tên Tản hay tên Lý? Hay tên gì? Theo lời chú trong bản Phùng thượng thư ký, ông này tuổi Ngọ giúp vua trị vì dài lâu (chữ Chiết tự thành nhân thập).
đi về
Tả phụ hữu trì cây cỏ làm binh
Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp
Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời
265. Ra tay điều đỉnh hộ mai
Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân
Lọ là phải nhọc kéo quân
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về
Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng
270. Lộ Ngũ tinh trinh tượng thái hanh
Ân trên vũ thí vân hành
Kẻ thơ ký tuý kẻ canh xuân đài
Bản đồ chảng sót cho ai
Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn
275. Vững nền vương cha truyền con nối
Dõi muôn đời một mối xa thư
Bể kình tăm lặng bằng tờ
Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân
Âu vàng khoẻ đặt vững chân
280. Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài

II

1. Vừa năm Nhâm Tý xuân đầu
Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời
Quyển vàng mở thấy sấm trời
Từ Đinh đổi đời chí lục thất gian
5. Một thời có một tôi ngoan
Giúp trong việc nước gặp an thái bình
...
Luận chung một tập kim thời
Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi
Trượng phu có chí thời coi
10. Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng
Tài nầy nên đấng vẻ vang
Biết chừng đời trị biết đường đời suy
Kể từ nhân Doãn mà đi
Số chưa gặp thì biết hoà (mà) chép ra
15. Tiếc thay hiền sĩ bao già
Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công
Thử cho tay giúp ra dùng
Tài này so cùng tài trước xem sao
Trên trời kể chín tầng cao
20. Tai nghe bằng một
ti hàoNói sư nhỏ nhặt, một tí, một ít.
biết hay
Hiềm vì sinh phải thời này
Rấp phù mở nước tiếc thay chưng đời.
Hợp đà thay thánh nghìn tài
Dáng sinh rủi kiếp quỷ ma nhà trời
25. Nói ra thì lậu sự đời
Trái tai phải luỵ tài trai khôn luần
Nói ra ám chúa bội quân
Đương thời đời trị xoay vần đặng đâu.
Chờ cho
nhân doãnChỉ vua Lê Chiêu Thống. Xem chú thích “nhân kiến” ở trên.
Có 1 bài cùng chú thích:
  • Phùng thượng thư ký (Phùng Khắc Khoan)
hết sau,
30. Đến chưng đời ấy thấy âu nhiều nàn
Trời xui những kẻ ắt (ác?) gian
Kiếp đời đạo thiết làm loàn có hay
Vua nào tôi ấy đã bày
Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn
........
35. Đua nhau bội bạn nghịch vi
Ích gia phi kỷ dân thì khốn thay
Tiếc tài gẫm được thời hay
Đã sao như vậy ra tay sẽ dùng
Tài trai có chí anh hùng
40. Muốn làm tướng suý lập công chưng đời
Khá xem nhiệm nhặt tộ trời
Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng
Đi tìm cho đến đế cung
Rấp phù xuất lực đế cung được toàn.
45. Bảo nhau cương kỷ cho tường
Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài
Chờ cho động đất chuyển trời
Bấy giờ thánh sẽ nên trai anh hùng
Còn bên thì náu chưa xong
50. Nhân lực cướp lấy thiên công những là
Đời ấy những quỷ cùng ma
Chẳng còn ở thật người ta đâu mà
Trời cao đất rộng bao xa
Làm sao cho biết cửa nhà đế vương
55. Dù trai ai chửa biết tường
Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở nàychưa rõ nghĩa

Ý ra lục thất gian nay,
Thời vận đã định thời nầy hưng vương
Trí xem nhiệm nhặt (nghiêm ngặt) cho tường
60.
Bảo GiangPhải chăng là Bảo Đại?
thánh xuất trung ương thuở nầy
Vua ngự thạch bàn xa thay
Đại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
Gà kêu vượn hót vang lừng
Đường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò
65. Nhân dân vắng mạt bằng tờ
Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay
Vua còn cuốc nguyệt cày mây
Phong điều vũ thuận thú rày an dân
Phong đăng hoà cốc chứa chan
70. Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây
Chính cung phương khảm vần mây
Thực thay thiên tử là nay trị đời
Anh hùng trí lượng thời coi
Công danh chẳng ngại tìm đòi ra đi
75. Tìm lên đến thạch bàn khê
Có đất sinh thánh bên kia cuối làng
Nhìn đi nhìn lại cho tường
Dường như chửa có sinh vương đâu là
Chảng tìm thì đến bình gia
80. Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình
Nhìn xem phong cảnh cũng xinh
Tả long triều lại có thành đợt vây
Hửu hổ uấn khúc giang này
Minh Đường thất diệu trước bày mặt ta.
85. Ở xa thấy một con voi
Cúi đầu quen bụi trông hồ sau
Ấy điềm thiên tử về chầu
Tượng trưng đế thánh tộ lâu trị đời
Song thiên nhật nguyệt sáng soi
90. Sinh đặng chùa ấy là ngôi chẳng cầu
Đến thời thịnh vượng còn lâu
Đành đến tam hợp chia nhau sẽ làm
Khuyên cho Đông Bắc Tây Nam
Muốn làm tướng suý thì xem trông này

95. Thiên sinh thiên tử ư hoả thôn
Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn
Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
Hậu sinh thiên tử
Bảo GiangPhải chăng là Bảo Đại?


Khỉ ôm con ngồi khóc
Gà chuồng vỡ tổ bay
Chó vẫy đuôi mừng thánh chúa

Lợn ăn no ngủ cả ngày.Đoạn này bản Sở Cuồng thiếu, Nguyễn Khuê lấy bản Đại La bổ sung.


Kìa cơn gió thổi lá rung cây
100. Rung Bắc sang Nam Đông tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am mây
Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
Hưng địa tràng giang hoá nước đầy
105. Một gió một yên ai sùng bái
Cha con người Vĩnh Bảo cho hayNguyễn Thái Học khởi nghĩa tại Yên Bái ngày 10-2-1930. Ngày 16-2-1930, Pháp ném 57 quả bom xuống khắp làng Cổ Am biến làng này thành bình địa và làm cho 21 thường dân bị thiệt mạng. Vào ngày 20-2-1930, Nguyễn Thái Học bị bắt tại làng Cổ Vịt, gần đồn Chi Ngại, huyện Đông Triều, tỉnh Hải Dương. Về phần Ký Con Đặng Trần Nghiệp, ông bị mật thám Pháp lùng bắt gắt gao ở Hà Nội phải xuống Hải Phòng trốn tránh, tại đây cũng không yên nên ông đến Nam Định và bị mật thám Pháp bắt giữa tháng 6-1930. Sau khi thất bại, một số đảng viên Việt Nam quốc dân đảng lánh sang Trung Quốc tiếp tục hoạt động và xây dựng lại cơ sở. Riêng Nhượng Tống không tham gia được cuộc khởi nghĩa vì ông bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo từ năm 1929 đến năm 1936 mới được thả ra.


Con mừng búng tít con quay
Vù vù chong chóng gió bay trên đài
Nhà cha cửa đóng then cài
110. Ầm ầm sấm động hỏi người đông lân
Tiếc tám lạng thương nửa cân
Biết rằng ai có dù phần như ai
Vắt tay nằm nghỉ dông dài
Thương người có một lo hai phận mình.

115. Canh niên tân phá
庚年辛破
Tuất hợi phục sinh
戌亥復生
Nhị ngũ dư bình
二五餘平
Long vĩ xà đầu khổ chiến tranh
龍尾蛇頭苦戰爭
Can qua xứ xứ khởi đao binh
干戈 處處起刀兵
120. Mã đề dương cước anh hùng tận
馬啼羊腳英雄盡
Thân dậu niên gian kiến thái bình.
申酉年間見太平

Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
Có một đàn xà đánh lộn nhau
Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
125. Lợn kia làm quái phải sai đầu
Chuột nọ lăm le mong cắn tổ
Ngựa kia đủng đỉnh bước về tầu
Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
Tìm về quê cũ bắt ngựa tầu.

130. Cửu cửu kiền khôn dĩ định
九九乾坤已定
Thanh minh thời tiết hoa tàn
清明時節花殘
Trực đáo dương đầu mã vĩ
直到羊頭馬尾
Hồ binh bát vạn nhập trường an.
胡兵八萬入長安
Bảo Giang thiên tử xuất
寳江天子出
135. Bất chiến tự nhiên thành
不戰自然成
Lê dân đào bão noãn
梨民陶抱煖
Tứ hải lạc âu ca
四海樂謳歌
Dục thức thánh nhân hương
欲識聖人鄕
Quá kiều cư Bắc phương
過橋 (僑)居北方
140. Danh vi Nguyễn gia tử
名為阮家子
Kim tịch sinh ngưu lang
金席生牛郞
Thượng đại nhân bất nhân
上大人不仁
Thánh ất dĩ vong ân
聖乙已忘恩
Bạch hổ kim đai ấn
白虎金帶印
145. Thất thập cổ lai xuân
七十古來春
Bắc hữu kim thành tráng
北有金城壯
Nam tạc ngọc bích thành
南鑿玉璧城
Hoả thôn đa khuyển phệ
火村多犬吠
Mục dã dục nhân canh
牧野欲人耕
150. Phú quí hồng trần mộng
富貴紅塵夢
Bần cùng bạch phát sinh
貧窮白髮生
Anh hùng vương kiếm kích
英雄王剑戟
Manh cổ đổ thái bình
盲瞽睹太平
Nam Việt hữu Ngưu tinh
南越有牛精
155. Quá thất thân thuỷ sinh
過七身始生
Điạ giới xĩ vị bạch
地界齒未白
Thuỷ trầm nhĩ bất kính
水沈耳不驚
Ký mã khu dương tẩu
驥馬驅羊走
160. Phù kê thăng đại minh
扶雞升大明
Trư thử giai phong khởi
猪鼠皆蜂起
Thìn mão xuất thái bình
辰昴出太平
Phân phân tùng Bắc khởi
紛紛從北起
Nhiễu nhiễu xuất Đông chinh
擾擾出東征
165. Bảo sơn thiên tử xuất
寳山天子出
Bất chiến tự nhiên thành
不戰自然成
Thuỷ trung tàng bảo cái
水中藏寳蓋
Hứa cập thánh nhân hương
許及聖人鄕
Mộc hạ châm châm khẩu
木下針針口
170. Danh thế xuất nan lường
名世出難量
Danh vi Nguyễn gia tử
名為阮家子
Tinh bản tại Ngưu lang
精本在牛郞
Mại dữ lê viên dưỡng
賣與棃園養
Khởi nguyệt bộ đại giang
起月步大江
175. Hoặc kiều tam lộng ngạn
或橋三弄岸
Hoặc ngụ Kim lăng cương
或寓金陵岡
Thiên dữ thần thực thuỵ
天與神食瑞
Thuỵ trình ngũ sắc quang
瑞呈五色光
Kim kê khai lựu diệp
金雞開橊葉
180. Hoàng cái xuất quí phương
黄蓋出癸方
Nhân nghĩa thuỳ vi địch.
仁義誰為敵
Đạo đức thuỳ dữ đương
道德誰與當
Tộ truyền nhị thập ngũ
祚傳二十五
Vận khải ngũ diên trường
運啓五延長
Vận đáo dương hầu ách
運到羊猴厄
185. Chấn đoài cương bất trường
震兌綱不長
Quần gian đạo danh tự
群奸盜名字
Bách tính khổ tai ương
百姓苦災殃
Can qua tranh đấu khởi
干戈争鬥起
Phạm địch thán hung hoang
犯敵嘆兇荒
190. Ma vương sát đại quỷ
魔王殺大鬼
Hoàng thiên tru ma vương
皇天誅魔王
Kiền khôn phú tái vô lường
乾坤覆載無量
Đào viên đỉnh phí quần dương tranh hùng
桃園鼎沸群羊争雄
Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết
機二五雌雄未決
195. Đảo Hoành sơn tam liệt ngũ phân
搗橫山三裂五分
Ta hồ vô phụ vô quân
嗟乎!無父無君
Đào viên tán lạc ngô dân thủ thành
桃園散落吾民守城
Đoài phương phúc điạ giáng linh
兌方福地降靈
Cửu trùng thuỵ ứng long thành ngũ vân
九重瑞應龍成五雲
205. Phá điền thiên tử giáng trần,
破田天子降塵
Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm
勇士若海謀臣如林
Trần công nãi thị phúc tâm
陳公乃是腹心
Giang hồ xử sĩ Đào Tiềm xuất du
江湖處士陶潛出遊
Tướng thần hệ xuất Y Chu
相臣系出伊周
205. Thứ ky phục kiến Đường Ngu thi thành
庶機復見唐虞施成
Hiệu xưng thiên hạ thái bình
號稱天下太平
Đông Tây vô sự Nam thành quốc gia
東西無事南城國家

Trong các bản Sấm ký dịch ra quốc ngữ thì bản Sở Cuổng sớm nhất. Sở Cuồng là nho gia yêu nước, yêu văn chương Việt Nam, là người đáng kính, đáng tin. Các tài liệu cho biết quyển Sở Cuồng dịch quốc ngữ gồm:
- Bản quốc ngữ đầu tiên của Sở Cuồng trong Quốc học tùng thư (Nam Ký xuất bản, Hà Nội, 1930, 53 trang, in tại nhà in Trịnh Văn Bích)
- Quyển Thư mục Đông Dương (Bibliographie en l’Indochine), quyển V, xuất bản ở Đông Dương năm 1935, ông Paul Boudet có ghi “Bạch Vân Am thi tập, văn thơ sấm ký của cụ trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm, recueilli par Sở Cuồng, Nam Ký thư quán, 1930, Impr Trịnh Văn Bích - Coll Quốc học tùng thư”. (Phạm Đan Quế)

Bản Sở Cuồng cho ta thấy các bản quốc ngữ nào dài trên 200 câu có thể là hai bài Sấm ký khác nhau mà người chép làm một.

Đánh giá bài viết

4.98/32 rates

إرسال تعليق

Cảm ơn Đạo Hữu đã đóng góp. Chúc Đạo Hữu một ngày an lạc! A Di Đà Phật