Bạch Vân Am Thi Tập - Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm

Bạch Vân Am Thi Tập, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
A+ A-





BẠCH VÂN AM THI TẬP
TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM
1. Bộ Minh nhân Tư Minh phủ công sai viên

Bộ Minh nhân Tư Minh phủ công sai viên

步明人思明府公差员 Bộ Minh nhân Tư Minh phủ công sai viên
莺声啼趂马声骄, Oanh thanh đề sấn mã thanh kiêu,
快着行鞭春色饶。 Khoái trước hành tiên xuân sắc nhiêu.
况値北南无事日, Huống trị bắc nam vô sự nhật,
一天明月共良霄。 Nhất thiên minh nguyệt cộng lương tiêu.

Dịch nghĩa

Tiếng oanh hót rộn ràng, tiếng ngựa hí ran,
Vun vút tiếng roi ngựa trong sắc xuân tràn đầy.
Huống lại gặp bắc, nam êm ả, không có chuyện phiền bận,
Đầy ánh trăng sáng cùng với bầu trời đẹp.
2. Cảm hứng

Cảm hứng

感興 Cảm hứng
泰和宇宙不虞周, Thái hoà vũ trụ bất Ngu Chu,
互戰教爭笑兩讎。 Hỗ chiến giao tranh tiếu lưỡng thù.
川血山骸隨處有, Xuyên huyết sơn hài tuỳ xứ hữu,
淵魚叢雀為誰驅。 Uyên ngư tùng tước vị thuỳ khu.
重興已卜渡江馬, Trùng hưng dĩ bốc độ giang mã,
後患應防入室貙, Hậu hoạn ưng phòng nhập thất khu,
世事到頭休說著, Thế sự đáo đầu hưu thuyết trước,
醉吟澤畔任閒遊。 Tuý ngâm trạch bạn nhậm nhàn du.
Trương truyền bài thơ này làm ra để tiên đoán việc nhà Lê sẽ trung hưng và nói đến việc họ Trịnh chuyên quyền lấn áp vua Lê. Và những việc của ông tiên đoán điều không sai một mảy.
3. Cự ngao đới sơn

Cự ngao đới sơn

巨鰲戴山 Cự ngao đới sơn
碧浸仙山徹底清, Bích tẩm tiên sơn triệt để thanh,
巨鰲戴得玉壺生。 Cự ngao đới đắc ngọc hồ sinh.
到頭石有補天力, Đáo đầu thạch hữu bổ thiên lực,
著腳潮無卷地聲。 Trước cước trào vô quyển địa thanh.
萬里東溟歸把握, Vạn lý Đông minh quy bả ác,
億年南極奠隆平。 Ức niên Nam cực điện long bình.
我今欲展扶危力, Ngã kim dục triển phù nguy lực,
挽卻關河舊帝城。 Vãn khước quan hà cựu đế thành.
Dịch nghĩa
Nước biếc ngấm núi tiên trong đến đáy,
Như con ngao lớn đội được bầu ngọc mà sinh ra.
Ngoi đầu lên, đá có sức vá trời,
Đặt chân xuống, sóng không có tiếng cuốn đất.
Vạn dặm biển Đông quơ vào tay nắm,
Ức năm cõi Nam đặt vững cảnh trị bình.
Ta nay muốn thi thố sức phò nguy,
Cứu vãn lại quan hà, thành cũ của nhà vua.
Sách Liệt tử, trong thiên Thang vấn có chép rằng ở biển Bột Hải có năm ngọn núi, chân núi không dính vào đâu cả, núi cứ theo nước thuỷ triều mà lên và xuống lênh đênh trên mặt biển. Thượng đế sợ các ngọn núi ấy trôi về Tây cực bèn sai con ngao thần rất lớn lấy đầu đội và từ đó năm ngọn núi ấy mới đứng vững ở một chỗ.
4. Du Phổ Minh tự

Du Phổ Minh tự

遊普明寺 Du Phổ Minh tự
亂後重尋到普明, Loạn hậu trùng tầm đáo Phổ Minh,
園花野草舊巖扃。 Viên hoa dã thảo cựu nham quynh.
碑文剝落和煙碧, Bi văn bác lạc hoà yên bích,
佛眼淒涼照夜清。 Phật nhãn thê lương chiếu dạ thanh.
法界應同天廣大, Pháp giới ưng đồng thiên quảng đại,
鄉人猶說地英靈。 Hương nhân do thuyết địa anh linh.
寥寥古鼎今何在, Liêu liêu cổ đỉnh kim hà tại?
識得無形勝有形。 Thức đắc vô hình thắng hữu hình.
Dịch nghĩa
Sau khi loạn lạc lại tìm đến chùa Phổ Minh,
Vẫn hoa vườn cỏ nội với cửa đá cũ.
Văn bia mờ nhạt hoà trong làn khói biếc,
Mắt Phật lạnh lùng soi thấu đêm thanh.
Pháp giới phải ngang với tầm rộng lớn của trời,
Người làng vẫn nói đến sự anh linh của đất.
Vắng vẻ lặng lẽ, vạc xưa nay còn đâu?
Thế mới biết vô hình vẫn thắng hữu hình.
Chùa Phổ Minh ở xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, phủ Thiên Trường, nay thuộc xã Lộc Vượng, huyện Mỹ Lộc, Nam Định. Chùa được xây dựng từ thời Trần, trong đó có vạc Phổ Minh nổi tiếng. Vạc đã bị quân xâm lược Minh phá làm súng đạn năm 1426, khi bị nghĩa quân Lam Sơn bao vây.
5. Dữ Cao Xá hữu nhân biệt hậu

Dữ Cao Xá hữu nhân biệt hậu

與高舍友人別後 Dữ Cao Xá hữu nhân biệt hậu
相逢亂後老相催, Tương phùng loạn hậu lão tương thôi,
繾綣離情酒數杯。 Khiển quyển ly tình tửu sổ bôi.
夜靜雲庵誰是伴, Dạ tĩnh Vân Am thuỳ thị bạn,
一窗明月照寒梅。 Nhất song minh nguyệt chiếu hàn mai.
Dịch nghĩa
Sau lúc loạn ly gặp nhau thì đều đã già
Cùng nhau uống vài chén rượu để thắt chặt mối tình ly biệt
Đêm thanh vắng ở Am Mây biết lấy ai làm bạn
Chỉ vầng trăng sáng ngoài cửa sổ rọi bóng vào gốc mai lạnh
6. Đào hoa phàm nhị thủ kỳ 1

Đào hoa phàm nhị thủ kỳ 1

桃花凡二首其一 Đào hoa phàm nhị thủ kỳ 1
仙種誰將館裡栽, Tiên chủng thuỳ tương quán lý tài,
好春一度好花開。 Hảo xuân nhất độ hảo hoa khai.
雪溪溪畔漁舟客, Tuyết khê khê bạn ngư chu khách,
一片殘紅惹得來。 Nhất phiến tàn hồng nhạ đắc lai.
Dịch Nghĩa
Giống tiên ai đem đến trồng ở trong quán,
Một độ xuân tươi là một lần hoa thắm nở.
Ông khách thuyền chài bên dòng suối tuyết,
Thường đưa về mấy mảnh hoa tàn.
7. Đào hoa phàm nhị thủ kỳ 2

Đào hoa phàm nhị thủ kỳ 2

桃花凡二首其二 Đào hoa phàm nhị thủ kỳ 2
白雲庵外碧池東, Bạch Vân am ngoại bích trì đông,
種得桃花樹樹紅。 Chủng đắc đào hoa thụ thụ hồng.
宴罷醉留金尚在, Yến bãi tuý lưu kim thượng tại,
依然萬古笑春風。 Y nhiên vạn cổ tiếu xuân phong.
Dịch Nghĩa
Phía đông ao biếc ngoài am Bạch Vân,
Trồng được nhiều cây hoa đào đỏ.
Sau buổi tiệc say, cây quý vẫn ở đó,
Y vậy muôn đời cười với gió xuân.
8. Đình tiền mai

Đình tiền mai

庭前梅 Đình tiền mai
斜斜竹外一枝橫, Tà tà trúc ngoại nhất chi hoành,
太極精花驗發生。 Thái cực tinh hoa nghiệm phát sinh.
占得高標春【】日, Chiếm đắc cao tiêu xuân [...] nhật,
便將風味入調羹。 Tiện tương phong vị nhập điều canh.
Dịch Nghĩa
Ngoài khóm tre cong cong, có một cành nằm ngang,
Tinh hoa trời đất chắt đọng phát sinh ra.
Gặp trời Xuân chiếm được ngôi cao khác đời,
Sẽ đem phong vị đưa vào việc điều canh.
9. Độc “Thượng thư” hữu cảm

Độc “Thượng thư” hữu cảm

讀尚書有感 Độc “Thượng thư” hữu cảm
愧未研窮上古書, Quý vị nghiên cùng thượng cổ thư,
老來白首嘆紛如。 Lão lai bạch thủ thán phân như.
經箱久已皆蟬蠹, Kinh tương cửu dĩ giai thiền đố,
病眼那能認魯魚。 Bệnh nhãn na năng nhận lỗ ngư.
Dịch Nghĩa
Thẹn chưa nghiên cứu sâu sách thời thượng cổ,
Già rồi, đầu bạc phải than vãn bối rối.
Rương sách từ lâu đều bị mối mọt,
Mắt kém làm sao nhận rõ lỗ hay ngư.
10. Đông cúc

Đông cúc

冬菊 Đông cúc
一種延年館裡栽, Nhất chủng diên niên quán lý tài,
晚香獨向雪中開。 Vãn hương độc hướng tuyết trung khai.
莫笑爭芳時太晚, Mạc tiếu tranh phương thời thái vãn,
先春肯讓一枝梅。 Tiên xuân khẳng nhượng nhất chi mai.
Dịch Nghĩa
Một giống lâu năm giồng ở trong quán,
Hương muộn chỉ hướng vào tuyết mới nở.
Chớ cười lúc giành tiếng thơm quá muộn,
Trước mùa xuân bằng lòng nhường một cành mai.
11. Hạ cảnh

Hạ cảnh

Hạ cảnh Dịch nghĩa
Nhật trường Tân quán tiểu song minh, Ngày dài ở quán Trung Tân cửa sổ nhỏ sáng sủa,
Phong nạp hà hương viễn ích thanh. Gió đượm hương sen, càng xa càng mát.
Vô hạn ngâm tình thuỳ hội đắc, Tình thơ vô hạn, ai là người hiểu được,
Tịch dương lâu thượng vãn thiền thanh. Chiều tà, trên lầu, tiếng ve muộn màng vang lên.
12. Hồng cận hoa

Hồng cận hoa

紅槿花 Hồng cận hoa
花中幻出佛中身, Hoa trung huyễn xuất Phật trung thân,
暮落朝開舊更新。 Mộ lạc triêu khai cựu cánh tân.
色即是空空是色, Sắc tức thị không không thị sắc,
一枝換得幾番春。 Nhất chi hoán đắc kỷ phiên xuân.
Dịch Nghĩa
Trong hoa huyễn ảo xuất hiện chân thân của Phật,
Tối rụng, sớm nở, cũ rồi lại mới.
Sắc là không và không là sắc,
Một cành đắp đổi bao nhiêu lần xuân.
13. Hữu cảm kỳ 1

Hữu cảm kỳ 1

有感其一 Hữu cảm kỳ 1
逆賊猖狂犯帝京, Nghịch tặc xương cuồng phạm đế kinh,
主懮臣辱重傷情。 Chủ ưu thần nhục trọng thương tình.
徯蘇久鬱蒼生望, Hề tô cửu uất thương sinh vọng,
吊伐誰興時雨兵。 Điếu phạt thuỳ hưng thời vũ binh.
四海依歸民戴舊, Tứ hải y quy dân đới cựu,
九天招謁日重明。 Cửu thiên chiêu yết nhật trùng minh.
古來仁者胥無敵, Cổ lai, nhân giả tư vô địch,
何必區區事戰爭。 Hà tất khu khu sự chiến tranh.
Dịch Nghĩa
Giặc giã hoành hành ngang ngược phạm cả vào kinh đô,
Chúa lo tôi nhục đáng thương tình xiết bao.
Chờ người đến cứu sống lòng mong đợi của dân chúng đến từ lâu,
Thương dân đánh kẻ có tội, ai dấy quân như trận mưa gặp thời.
Bốn biển theo về, nhân dân đội ơn đã lâu,
Trời cao nêu tỏ, vầng nhật lại sáng như xưa.
Từ xưa đến nay người có nhân không ai địch nổi,
Việc gì phải khư khư theo đuổi chiến tranh.
14. Hữu cảm kỳ 2

Hữu cảm kỳ 2

Hữu cảm kỳ 2
Lạc lạc can qua hận mãn tiền,
Nhân dân bồn thoáng dục cầu tiền.
Điên liên huề bạo ta vô địa,
Ái hộ căn liên hạnh hữu thiên.
Chỉ định vị văn quy mã nhật,
Khai minh cấp tưởng thuộc trư niên.
Nhất chu khí vận chung nhi thuỷ,
Bác, phục đô tòng thái cực tiên.
15. Khuê tình

Khuê tình

Khuê tình Dịch nghĩa
Ngâm lạc Tây phong trận trận xuy, Tiếng ngâm buông xuống theo gió Tây thổi từng trận,
Thâm khuê nhi nữ độc miên thì. Ở chốn thâm khuê khi người thiếu phụ ngủ một mình.
Hốt văn hàn khí xâm liêm mạc, Bỗng nghe hơi lạnh thấm vào rèm màn,
Thuỷ giác nhân tình hữu biệt ly. Mới biết tình người có nỗi biệt ly.
Khứ mộng bất từ sa tái viễn, Mơ mộng ra đi, chẳng nề nơi quan ải sa trường diệu vợi,
U hoài hoạt động cổ bề ti. U uất trong lòng dấy lên tiếng trống ở ngoài trận.
Vô đoan điểm trích giai tiền vũ, Bỗng đâu tí tách giọt mưa ở trước thềm,
Tự hữu u nhân ngữ dạ trì. Như có người mang niềm u uất thủ thỉ trong đêm dài.
16. Ký Khoái Châu phủ phủ tá Cao Xá hữu nhân

Ký Khoái Châu phủ phủ tá Cao Xá hữu nhân

寄快州府府佐高舍友人 Ký Khoái Châu phủ phủ tá Cao Xá hữu nhân
快州舉趾遠相尋, Khoái Châu cử chỉ viễn tương tầm,
重敘綢繆故舊心。 Trùng tự trù mâu cố cựu tâm.
太極一圖談語了, Thái Cực nhất đồ đàm ngữ liễu,
知君透易得言深。 Tri quân thấu Dịch đắc ngôn thâm.
Dịch Nghĩa
Cất bước về Khoái Châu xa xôi tìm gặp nhau,
Để lại giãi bày tấm lòng ràng buộc những ngày xưa.
Trao đổi xong với nhau về Thái Cực đồ,
Biết bác thấu hiểu Kinh Dịch nên lời bàn sâu sắc.
17. Lan

Lan

Lan
九畹春濃僊態度, Cửu uyển xuân nùng tiên thái độ,
滿庭麝集客衣裳。 Mãn đình xạ tập khách y thường.
為報主人勤長諍, Vị báo chủ nhân cần trưởng tránh,
於清風後有玄霜。 Ư thanh phong hậu hữu huyền sương.
Dịch Nghĩa
Chín luống hoa, trời xuân đượm phong độ cõi tiên,
Đầy sân hương thơm quyện áo quần khách đến thăm.
Báo giùm chủ nhân chú ý tự ngăn ngừa,
Vì sau gió xuân sẽ có sương đông.
18. Loạn hậu quy cố viên vịnh mai

Loạn hậu quy cố viên vịnh mai

亂後歸故園詠梅 Loạn hậu quy cố viên vịnh mai
萬紫千紅都是春, Vạn tử thiên hồng đô thị xuân,
等閑開謝總紛紛。 Đẳng nhàn khai tạ tổng phân phân.
雪中不改堅貞操, Tuyết trung bất cải kiên trinh tháo,
惟有寒梅伴主人。 Duy hữu hàn mai bạn chủ nhân.
Dịch Nghĩa
Muôn tía nghìn hồng đều là xuân cả,
Hãy xem: nở rồi tàn, rối bời bời.
Trong tuyết lạnh, không đổi tiết tháo, kiên trinh,
Chỉ có mai gầy là bạn với chủ nhân.
19. Lưu đề Đoan quốc công

Lưu đề Đoan quốc công

留題端國公 Lưu đề Đoan quốc công
曾記興朝是第兄, Tằng kí hưng triều thị đệ huynh,
偶來相訪敘交情。 Ngẫu lai tương phỏng tự giao tình.
慇懃報道無他語, Ân cần báo đạo vô tha ngữ,
自古成公戒滿盈。 Tự cổ thành công giới mãn doanh.
Dịch Nghĩa
Từng ghi nhớ là anh em cùng khuông phù triều đại,
Chợt đến thăm nhau bày tỏ tình thâm giao.
Ân cần nhắc nhở nhau không có câu nào khác,
Là xưa nay khi thành công cần ngăn ngừa sự tự mãn.
20. Lưu đề Thạch quận công nhị thủ kỳ 1

Lưu đề Thạch quận công nhị thủ kỳ 1

留題石郡公二首其一 Lưu đề Thạch quận công nhị thủ kỳ 1
宇宙重開慶一新, Vũ trụ trùng khai khánh nhất tân,
五窮冬後有陽春。 Ngũ cùng đông hậu hữu dương xuân.
他時若展調元手, Tha thời nhược triển điều nguyên thủ,
記守林前托病身。 Ký thủ lâm tiền thác bệnh thân.
Dịch Nghĩa
Vũ trụ lại mở ra mừng một hội mới,
Sau mùa đông năm cùng là đến dương xuân.
Mai này nếu trở thành thầy thuốc,
Xin nhớ giúp đỡ cho thân bệnh ở bên rừng này.
21. Lưu đề Thạch quận công nhị thủ kỳ 2

Lưu đề Thạch quận công nhị thủ kỳ 2

留題石郡公二首其二 Lưu đề Thạch quận công nhị thủ kỳ 2
道非身外豈他尋, Đạo phi thân ngoại khởi tha tầm,
況有相期意氣深。 Huống hữu tương kỳ ý khí thâm.
君父綱常千古在,
孝忠誓不負初心。 Quân phụ cương thường thiên cổ tại,Hiếu trung thệ bất phụ sơ tâm.
Dịch Nghĩa
Đạo không ở ngoài thân ta, há phải tìm đâu,
Huống cùng hẹn ước với ý khí sâu xa.
Đạo cương thường vua và cha ngàn đời còn mãi,
Hiếu, trung thề không phụ với tấm lòng tự buổi đầu.
22. Ngộ Trung nguyên xá tội

Ngộ Trung nguyên xá tội

Ngộ Trung nguyên xá tội Dịch nghĩa
Thiên địa na dung tội ác nhân Trời đất nào có dung tha kẻ ác
Thị hà xá tội hữu hương thần Thế thì tại sao lại có ngày lành tha tội
Ngã kim dục trượng từ bi lực Ta nay muốn nhờ vào sức của lòng từ bi
Cửu đắc vô cô đồ thán nhân Cứu bằng được những người vô tội lầm than
Tiết Trung nguyên vào ngày rằm tháng bảy, nhà Phật còn gọi là lễ Vu Lan bồn (phiên âm chữ Phạn Ullambana, nghĩa là cực khổ tột độ, lại có nghĩa là cứu vớt khỏi cảnh cực khổ tột độ), là ngày cầu siêu, xin xá tội cho những người đã từng có tội ở đời, sau khi chết sa vào địa ngục.
23. Ngụ hứng (Cận thuỷ mao trai sổ trúc chuyên)

Ngụ hứng (Cận thuỷ mao trai sổ trúc chuyên)

寓興(近水茅齋數竹椽) Ngụ hứng (Cận thuỷ mao trai sổ trúc chuyên)
近水茅齋數竹椽, Cận thuỷ mao trai sổ trúc chuyên,
閑中好伴白云眠。 Nhàn trung hảo bạn bạch vân miên.
過門行客不相識, Quá môn hành khách bất tương thức,
這裡誰知別有天。 Giá lý thuỳ tri biệt hữu thiên.
Dịch Nghĩa
Nhà tre mái tranh cạnh bờ nước,
Trong nhàn hạ ngủ ngon trong nhà làm bạn cùng mây trắng.
Khách đi qua cửa không hiểu rằng,
Ở trong này nào ai biết có một khoảnh trời riêng.
24. Ngụ hứng (Đột ngột môn tiền thập nhị phong)

Ngụ hứng (Đột ngột môn tiền thập nhị phong)

寓興(突兀門前十二峰) Ngụ hứng (Đột ngột môn tiền thập nhị phong)
突兀門前十二峰, Đột ngột môn tiền thập nhị phong,
煙花斂卻露秋容。 Yên hoa liễm khước lộ thu dung.
倚樓一望知山意, Ỷ lâu nhất vọng tri sơn ý,
時送青來千萬重。 Thời tống thanh lai thiên vạn trùng.
Dịch Nghĩa
Cao cao trước cửa mười hai ngọn núi
Khói tan hoa rụng rõ vẻ mùa thu
Đứng tựa bên lầu xa trông biết được ý núi
Thường đưa màu xanh từ ngoài muôn nghìn dặm đến trước mắt
25. Ngụ hứng kỳ 1

Ngụ hứng kỳ 1

nội dung viết ở đây

26. Ngụ hứng phàm tứ thủ kỳ 1

Ngụ hứng phàm tứ thủ kỳ 1

寓興其一 Ngụ hứng kỳ 1
半依村市半人鄉, Bán y thôn thị bán nhân hương,
中有池園一畝強。 Trung hữu trì viên nhất mẫu cường.
庵館長閑春不老, Am quán trường nhàn xuân bất lão,
江山入畫筆生香。 Giang sơn nhập hoạ bút sinh hương.
清流借響琴聲潤, Thanh lưu tá hưởng cầm thanh nhuận,
古木留陰客夢涼。 Cổ mộc lưu âm khách mộng lương.
剩喜斯文天未喪, Thặng hý tư văn thiên vị táng,
至今幸得暴秋陽。 Chí kim hạnh đắc bộc thu dương.
Dịch Nghĩa
Nửa dựa vào chợ quê, nửa dựa vào xóm làng
Trong đó có vườn, có ao khoảng hơn một mẫu
Chốn am quán mãi mãi thư nhàn, mùa xuân không già
Non sông đưa vào tranh vẽ, ngòi bút sinh hương
Mượn tiếng vang của dòng sông làm cho tiếng đàn thêm nhuần
Giữ lại bóng cổ thụ để làm cho giấc ngủ trưa được mát mẻ
Rất mừng tư văn trời chưa làm nổi
Đến nay còn may được đem phơi trước ánh nắng mùa thu
27. Ngụ hứng phàm tứ thủ kỳ 2

Ngụ hứng phàm tứ thủ kỳ 2

寓興凡四首其二 Ngụ hứng phàm tứ thủ kỳ 2
突屼門前十二峰, Đột ngột môn tiền thập nhị phong,
煙花斂卻露秋容。 Yên hoa liễm khước lộ thu dung.
倚樓一望知山在, Ỷ lâu nhất vọng tri sơn tại,
時送青來千萬重。 Thời tống thanh lai thiên vạn trùng.
Dịch Nghĩa
Chon von trước cửa mười hai ngọn núi,
Khói mù tan hết lộ rõ dáng thu.
Dựa lầu đứng ngắm biết núi ở đó,
Thỉnh thoảng nghìn vạn trùng núi ánh màu xanh tới.
28. Ngụ hứng phàm tứ thủ kỳ 3

Ngụ hứng phàm tứ thủ kỳ 3

寓興凡四首其三 Ngụ hứng phàm tứ thủ kỳ 3
一天明月弄雙清, Nhất thiên minh nguyệt lộng song thanh,
最是良晨好景并。 Tối thị lương thần hảo cảnh tinh.
涼入津亭眠未覺, Lương nhập Tân Đình miên vị giác,
不知日已到窗明。 Bất tri nhật dĩ đáo song minh.
Dịch Nghĩa
Đầy trời trăng sáng làm sáng tỏ cả hai,
Thật là hoà hợp sớm mai tốt lành với phong quang tươi đẹp.
Hơi mát ùa vào Tân Đình, ngủ còn chưa dậy,
Không biết mặt trời đã chiếu sáng đến cửa sổ.
29. Ngụ hứng phàm tứ thủ kỳ 4

Ngụ hứng phàm tứ thủ kỳ 4

寓興凡四首其四 Ngụ hứng phàm tứ thủ kỳ 4
人間萬事是還非, Nhân gian vạn sự thị hoàn phi,
每恨年光與老違。 Mỗi hận niên quang dữ lão vi.
最愛樓前山意好, Tối ái lâu tiền sơn ý hảo,
斜陽帶得白雲歸。 Tà dương đới đắc bạch vân quy.
Dịch Nghĩa
Cõi người muôn việc đúng có thể lại sai,
Thường giận nỗi tuổi cao với sức già cứ trái nhau;
Rất mến cái tình ý của ngọn núi trước lầu,
Lúc nắng tà lại kéo được mây trắng đến.
30. Ngụ ý

Ngụ ý

寓意 Ngụ ý
名遂功成休矣休, Danh toại công thành hưu hĩ hưu,
等閒世故一虛舟。 Đẳng nhàn thế cố nhất hư châu.
風來江館涼宜夏, Phong lai giang quán lương nghi hạ,
月到書樓明正秋。 Nguyệt đáo thư lâu minh chính thu.
紅日東昇知大海, Hồng nhật đông thăng tri đại hải,
白雲西望是神州。 Bạch vân tây vọng thị thần châu.
溪山亦足供吾樂, Khê sơn diệc túc cung ngô lạc,
忍負前盟萬里鷗。 Nhẫn phụ tiền minh vạn lý âu.
Dịch Nghĩa
Như thế cũng gọi là công toại danh thành rồi đấy, thôi thế cũng nên thôi, Việc đời phó mặc cho con thuyền vơi vơi nọ lênh đênh muốn đến đâu thì đến mà ta tìm lại cái thú vui của ta. Khi cơn gió mát thổi vào cái quán chỗ ta ngồi bên sông nọ, là mùa hạ, Lúc bóng trăng soi vào cái lầu chỗ ta ngồi xem sách kia, ấy chính mùa thu. Ta trông thấy vầng hồng mọc lên ở đàng đông thì ta biết đó là nơi đại hải, Ta trông thấy mây trắng phủ ngất ở đàng tây thì ta biết đó là chỗ thần chầu. Ấy cái thú nước non như thế cũng đủ cho ta vui,
Vậy đàn bồ nông ngoài bể khơi muôn dặm mà trước ta đã thề cùng với chúng kết làm bạn “vong cơ”, thì nay ta nỡ lòng nào mà phũ phàng với thề xưa cho đặng.
31. Ngụ ý phàm tứ thủ cảnh thế tam thủ kỳ 1

Ngụ ý phàm tứ thủ cảnh thế tam thủ kỳ 1

寓意凡四首警世三首其一 Ngụ ý phàm tứ thủ cảnh thế tam thủ kỳ 1
一壺別占小乾坤, Nhất hồ biệt chiếm tiểu càn khôn,
半畝方塘五畝園。 Bán mẫu phương đường ngũ mẫu viên.
月館雲閑看更好, Nguyệt quán vân nhàn khan cánh hảo,
箇中誰識是桃源。 Cá trung thuỳ thức thị Đào Nguyên.
Dịch Nghĩa
Một vùng chiếm riêng khoảng trời đất nhỏ,
Nửa mẫu ao vuông với năm mẫu vườn.
Ở quán trăng ngắm mây lửng lơ càng đẹp,
Trong đây ai biết là Đào Nguyên.
32. Ngụ ý phàm tứ thủ cảnh thế tam thủ kỳ 2

Ngụ ý phàm tứ thủ cảnh thế tam thủ kỳ 2

寓意凡四首警世三首其二 Ngụ ý phàm tứ thủ cảnh thế tam thủ kỳ 2
風輕雲淡浴沂天, Phong khinh vân đạm dục Nghi thiên,
景與心融契自然。 Cảnh dữ tâm dung khế tự nhiên.
淺綠深紅春正晚, Thiển lục thâm hồng xuân chính vãn,
老鶯聲外有新蟬。 Lão oanh thanh ngoại hữu tân thiền.
Dịch Nghĩa
Gió nhẹ mây thưa, tắm ở vùng sông Nghi,
Cảnh vật cũng tâm tình hoà hợp tự nhiên.
Màu xanh đã nhạt, đỏ đã thẫm, xuân đã cuối mùa,
Ngoài tiếng oanh già có tiếng ve non.
33. Ngụ ý phàm tứ thủ cảnh thế tam thủ kỳ 3

Ngụ ý phàm tứ thủ cảnh thế tam thủ kỳ 3

寓意凡四首警世三首其三 Ngụ ý phàm tứ thủ cảnh thế tam thủ kỳ 3
舊筍成林新筍生, Cựu duẩn thành lâm tân duẩn sinh,
翠芭醉後一般青。 Thuý ba tuý hậu nhất ban thanh.
年年春色催人老, Niên niên xuân sắc thôi nhân lão,
誰謂東風不世情。 Thuỳ vị đông phong bất thế tình.
Dịch Nghĩa
Măng cũ thành rừng, măng mới mọc ra,
Sau cơn say, các loại hoa cỏ xanh thơm đều mượt mà.
Mỗi năm sắc xuân thúc giục con người già đi,
Ai bảo gió đông không mang tính đời.
34. Ngụ ý phàm tứ thủ cảnh thế tam thủ kỳ 4

Ngụ ý phàm tứ thủ cảnh thế tam thủ kỳ 4

寓意凡四首警世三首其四 Ngụ ý phàm tứ thủ cảnh thế tam thủ kỳ 4
花發新枝是舊枝, Hoa phát tân chi thị cựu chi,
榮枯消長要相隨。 Vinh khô tiêu trưởng yếu tương tuỳ.
年年泊岸垂煙柳, Niên niên phách ngạn thuỳ yên liễu,
幾度舒眉幾皺眉。 Kỷ độ thư mi kỷ trứu mi.
Dịch Nghĩa
Hoa nở cành mới, chính từ cành cũ,
Tươi hay héo, tàn hay lớn chủ yếu tuỳ thuộc vào nhau.
Hằng năm cây liễu rủ bên bờ hồ,
Mấy hồi nở mày, mấy hồi chau mày.
35. Nguyên Đán thuật hoài

Nguyên Đán thuật hoài

Nguyên Đán thuật hoài
Kim ngã hành niên lục thập chi,
Lão lai khước dữ bệnh tương kỳ.
Tích xuân cưỡng khuyến sổ bôi tửu,
Ưu quốc hưu ngôn lưỡng mấn ti.
Chức nhẫm bất cần ta lãn phụ,
Gia đình vô giáo tiếu si nhi.
Nhàn trung liêu ngụ nhàn trung thú,
Khởi vị phùng nhân thuyết lãng thi.
Dịch Nghĩa
Tuổi đời của ta nay đã sáu mươi,
Già đến, lại cùng bệnh tật hẹn hò nhau.
Tiếc xuân, gượng khuyên mời vài chén rượu,
Lo nước, đừng nói hai mái tóc đã bạc như tơ.
Canh cửi chẳng siêng năng, than thở về người đàn bà lười nhác,
Gia đình không dạy dỗ, đáng cười cho đứa con ngây dại.
Trong lúc thảnh thơi hãy gửi cái thú thanh nhàn,
Há đâu nói về thơ một cách phóng túng với những người gặp mặt.
36. Nhân thôn

Nhân thôn

Nhân thôn Dịch Nghĩa
Tổng tổng lâm lâm sinh chí phồn, Nườm nượp sum suê sinh sản ra rất đông đúc,
Sở cư xứ xứ hữu hương thôn. Nơi nơi có người ở là có xóm làng.
Hào hoa hấp nhĩ tỉ lân hội, Hào hoa tập hợp, xóm giềng kề bên nhau,
Nhân hậu y nhiên mỹ tục tồn. Nhân hậu vẫn thế, phong tục tốt đẹp còn nguyên.
Tác tức tư đào
Nghiêu nhật nguyệt,Theo sách Mạnh Tử, dân đời vua Nghiêu sống an lạc, hát rằng: "Nhật xuất nghi tác, nhập nhập nhi tức, tạc tính nhi ẩm, canh điền nhi thực, đế lực hà hữu ư ngã tai", nghĩa là: Mặt trời mọc thì dậy đi làm, mặt trời lặn thì đi nghỉ, đào giếng mà uống, cày ruộng mà ăn, sức nhà vua có làm gì cho ta đây. Ý nói đức vua Nghiêu lớn quá, bao trùm tất cả, dân hưởng cảnh thái bình mà không cần biết là do công ơn của vua Nghiêu.
Làm và nghỉ cùng thoải mái trong ngày tháng đời Nghiêu,
Âu ca cộng lạc Thuấn kiền khôn. Hò và hát cùng vui vẻ trong trời đất đời Thuấn.
Thái bình tể tướng ư tư hiển, Quan tể tướng đời thái bình mở mày mở mặt ở đó.
Quan cái tinh xu diệu lý môn. Mũ lọng đi nhanh như sao, rực sáng cổng làng
37. Phục quái

Phục quái

復卦 Phục quái
下一陽微上五陰, Hạ nhất dương vi thượng ngũ âm,
於初動處細推尋。 Ư sơ động xứ tế suy tầm.
靜觀萬古生生意, Tĩnh quan vạn cổ sinh sinh ý,
應見無窮天地心。 Ứng kiến vô cùng thiên địa tâm.
Dịch Nghĩa
Một hào dương ít ỏi ở dưới, năm hào âm ở trên,
Từ lúc bắt đầu vận động hãy tìm hiểu kỹ càng.
Chú ý quan sát sinh ý mọi vật từ trước đến nay,
Sẽ thấy cái tâm vô cùng của trời đất.
38. Quan kỳ ngẫu hứng

Quan kỳ ngẫu hứng

觀棋偶興 Quan kỳ ngẫu hứng
兩河戰罷氣方酣, Lưỡng Hà chiến bãi khí phương hàm,
妙奪兵機重笑談。 Diệu đoạt binh cơ trọng tiếu đàm.
天數一周離更合, Thiên số nhất chu ly cánh hợp,
長江誰謂限東南。 Trường Giang thuỳ vị hạn đông nam.
Dịch Nghĩa
Sau cuộc chiến ở Lưỡng Hà, khí thế còn say sưa,
Khéo vận dụng binh cơ và chú trọng cả việc trao đổi đàm phán.
Số trời hết một chu kỳ phân ly rồi lại hoà hợp,
Dải Trường Giang ai bảo là giới hạn mãi đông và nam.
39. Quan kỳ ngụ hứng

Quan kỳ ngụ hứng

觀棋寓興 Quan kỳ ngụ hứng
古今勝負幾英雄, Cổ kim thắng phụ kỷ anh hùng,
劉項相爭百戰中。 Lưu, Hạng tương tranh bách chiến trung.
一自固陵騅失路, Nhất tự Cố Lăng, Chuy thất lộ,
鴻門豈待割西東。 Hồng Môn khởi đãi cát tây đông.
Dịch Nghĩa
Xưa nay được thua biết bao anh hùng,
Lưu Bang, Hạng Vũ tranh đấu với nhau trải trăm trận đánh.
Từ ngày ngựa Chuy mất ở đường ở Cố Lăng,
Há phải đợi đến hội nghị Hồng Môn mới chia cắt tây với đông.
40. Tân quán ngụ hứng kỳ 15

Tân quán ngụ hứng kỳ 15

津觀寓興其十五 Tân quán ngụ hứng kỳ 15
別占溪泉景致幽, Biệt chiếm khê tuyền cảnh trí u,
歸來結屋覓閑遊。 Quy lai kết ốc mịch nhàn du.
護花半掩臨風樹, Hộ hoa bán yểm lâm phong thụ,
待月先開近水樓。 Đãi nguyệt tiên khai cận thuỷ lâu.
消長隨時知物理, Tiêu trường tuỳ thì tri vật lý,
窮通有命豈吾憂。 Cùng thông hữu mệnh khởi ngô ưu.
這般真假誰能會, Giá ban chân giả thuỳ năng hội,
一曲寒山一釣舟。 Nhất khúc Hàn Sơn nhất điếu chu.
41. Tân quán ngụ hứng kỳ 16

Tân quán ngụ hứng kỳ 16

津觀寓興其十六 Tân quán ngụ hứng kỳ 16
故園歸去覓閑遊, Cố viên quy khứ mịch nhàn du,
得喪囂然豈我憂。 Đắc táng hiêu nhiên khởi ngã ưu.
出岫無心雲更懶, Xuất tụ vô tâm vân cánh lãn,
朝東有意水長流。 Triều đông hữu ý thuỷ trường lưu.
生平名把文章誤, Sinh bình danh bả văn chương ngộ,
畢竟官隨老病休。 Tất cánh quan tuỳ lão bệnh hưu.
借問生涯何處是, Tá vấn sinh nhai hà xứ thị,
五湖煙浪一扁舟。 Ngũ hồ yên lãng nhất thiên chu.
Ngũ hồ: Năm hồ gồm hồ Động Đình và các hồ lân cận. Lấy tích Phạm Lãi 20 năm phò Việt vương Câu Tiễn đánh bại Ngô vương Phù Sai, việc thành một mình lặng lẽ bơi chiếc thuyền con qua Tam giang vào Ngũ hồ.
Có 21 bài cùng chú thích:
  • Bạch Đằng giang phú (Trương Hán Siêu)
  • Cảm tác kỳ 4 (Nguyễn Xuân Ôn)
  • Đáp Vương thập nhị hàn dạ độc chước hữu hoài (Lý Bạch)
  • Đằng Vương các tự (Vương Bột)
  • Đề Tuyên Châu Khai Nguyên tự thuỷ các, các hạ Uyển Khê, Giáp Khê cư nhân (Đỗ Mục)
  • Hoạ Bàn Sa Nguyễn tiên sinh, tức ông Nguyễn Đình Tiến, thu bạc Xuân Hoà độ hữu hoài mỹ nhân nguyên vận (Nguyễn Phúc Ưng Bình)
  • Hoạ thị độc Hồ Trai Phạm Khắc Khoan tiên sinh hồi hưu lưu giản nguyên vận kỳ 3 (Nguyễn Phúc Ưng Bình)
  • Kỳ 4 (Vũ Phạm Hàm)
  • Lợi châu nam độ (Ôn Đình Quân)
  • Mạn thành kỳ 1 (Nhãn trung phù thế tổng phù vân) (Nguyễn Trãi)
  • Quá Nguyễn Nhược Trứ cố cư hữu cảm (Nguyễn Thượng Hiền)
  • Tả hoài kỳ 1 (Cao Biền)
  • Thảo đường (Đỗ Phủ)
  • Thu nhật tạp cảm kỳ 2 (Trần Tử Long)
  • Thuật hoài kỳ 2 (Nguyễn Xuân Ôn)
  • Tiễn biệt Vương thập nhất nam du (Lưu Trường Khanh)
  • Tống Lý tú tài nhập kinh (Cố Huống)
  • Tống Ô Trình Vương minh phủ biếm Ba giang (Bao Hà)
  • Trung thu dạ bạc chu Đà Nẵng (Nguyễn Phúc Ưng Bình)
  • Tư cố nhân (La Ẩn)
  • Vĩnh Vương đông tuần ca kỳ 07 (Lý Bạch)
42. Thu thanh

Thu thanh

Thu thanh Dịch nghĩa
Tiêu điều thu dạ trích hàn canh, Đêm thu tiêu điều, giọt nước nhỏ điểm canh lạnh lùng,
Ngọc luật hồi âm ám thổ thanh. Ống ngọc luật đồng vọng, âm thầm mà phát ra thành tiếng.
Đãn giác thụ gian minh tích tích, Chỉ nghe thấy trong cây tiếng kêu sột soạt,
Hốt kinh nguyệt hạ hưởng tranh tranh. Bỗng giật mình dưới trăng tiếng vang lanh canh.
Sơ văn thú phụ sầu vô mị, Mới nghe, người vợ lính thú buồn rầu không ngủ,
Tự xúc hàn tương nhạ bất bình. Như xui con dế gợi nỗi bất bình.
Nghĩ tác Dĩnh Xuyên Âu Tử phú, Toan làm bài phú như Âu Tử đất Dĩnh Xuyên,
Khủng hoảng mô phỏng bị thời khinh. E rằng lại chỉ làm việc bắt chước bị người đời khinh bỉ.
CHÚ THÍCH
Ngọc luật hồi âm ám thổ thanh
Ngọc luật, ám thổ thanh: ngọc là cái ống bằng ngọc người xưa đốt tro của màng cây sậy bỏ vào trong, đến các tiết hậu như đông chí, lập xuân, v.v... thì chất tro trong ống luật được khí trời thổi bay lên, người ta dựa vào đó để xem thời tiết; ám thổ thanh là ngầm có tiếng thổ, theo Thái cực đồ thì ngũ hành (kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ) ứng với tứ thời, kim ứng với mùa thu, mộc ứng với mùa xuân, thuỷ và thổ ứng với mùa đông, hoả ứng với mùa hè. Ở đây ý nói rằng tuy là đang trong mùa thu mà trong ống ngọc luật đã ngầm có tiếng thổ, tức là báo trước sắp tới mùa đông.
Dĩnh Xuyên Âu Tử
Âu Tử tức là Âu Dương Tu, người đất Dĩnh Xuyên, sống vào đời Tống ở Trung Quốc, là một danh sĩ có làm bài phú "Thu thanh" (Tiếng thu) nổi tiếng.
43. Thuỷ hành phó doanh cảm tác

Thuỷ hành phó doanh cảm tác

Thuỷ hành phó doanh cảm tác Dịch nghĩa
Chỉ kỳ thệ phục cựu sơn hà, Định kỳ hạn thề khôi phục giang san cũ,
Khảng khái đăng chu phát hạo ca. Khảng khái lên thuyền cất cao giọng hát.
Trạo bãi thuỷ văn đôi bạch tuyết, Mái chèo khua gợn nước, chập chồng những đống tuyết trắng.
Phàm di nguyệt ảnh lộng hàn ba. Cánh buồm theo bóng trăng, giỡn nhởn trong làn sóng lạnh.
Cô trung đối việt càn khôn lão, Tấm lòng cô trung dầu dãi, trời đất già nua,
Tứ cố vi mang thảo thụ đa. Đoái trông bốn phía lờ mờ, cỏ cây nhiều lắm.
Ký thủ tặc nô bình đình hậu, Ghi nhớ sau ngày dẹp xong bọn giặc hèn,
Trùng tầm Tân quán lữ ngư hà. Lại tìm về quán Trung Tân làm bạn với tôm cá.
44. Tống lão thiếp hoàn thôn cư

Tống lão thiếp hoàn thôn cư

送老妾還村居 Tống lão thiếp hoàn thôn cư
無限東風暖襲人, Vô hạn đông phong noãn tập nhân,
醉中扶起老來身。 Tuý trung phù khởi lão lai thân.
慇懃報道無他語, Ân cần báo đạo vô tha ngữ,
江館煙村共一春。 Giang quán yên thôn cộng nhất xuân.
Dịch Nghĩa
Gió đông thật đầm ấm theo quanh người,
Trong say dìu đỡ tấm thân già yếu.
Trước sau nhắc nhở dặn bảo:
Quán nhỏ bên sông và xóm toả khói chiều cũng cùng trong một trời xuân.
45. Trách tử

Trách tử

責子 Trách tử
父在不遠遊, Phụ tại bất viễn du,
惟疾父之憂。 Duy tật phụ chi ưu.
聖賢所垂訓, Thánh hiền sở thuỳ huấn,
斯言豈我誣。 Tư ngôn khởi ngã vu.
爾既生為人, Nhĩ ký sinh vi nhân,
胡不業為儒。 Hồ bất nghiệp vi nho.
芥羽事鬥雞, Giới vũ sự đấu kê,
金鈴走韓盧。 Kim linh tẩu hàn lô.
夜覓錢樹兒, Dạ mịch tiền thụ nhi,
晨擊花街毬。 Thần kích hoa nhai cầu.
師友不親炙, Sư hữu bất thân chá,
詩書反寇讎。 Thi thư phản khấu thù.
生子既如此, Sinh tử ký như thử,
於我復何求。 Ư ngã phục hà cầu.
且進一杯酒, Thả tiến nhất bôi tửu,
聊寫萬古愁。 Liêu tả vạn cổ sầu.
46. Trung Tân ngụ hứng

Trung Tân ngụ hứng

Trung Tân ngụ hứng Dịch nghĩa
Nhân thôn quán tây nam, Phía tây nam quán ấy có làng xóm,
Giang thuỷ quán tây bắc. Phía tây bắc quán ấy có sông ngòi.
Trung hữu bán mẫu viên, Ở giữa có nửa mẫu vườn,
Viên tại Vân Am trắc. Vườn ở bên am Bạch Vân.
Luân ưởng trần bất đáo, Bụi ngựa xe không bám vào được cái am ấy,
Hoa trúc thủ tự thực. Hoa và trúc ở trong vườn chính tay tự trồng lấy.
Trượng lý tập hoa hương, Khi chống gậy, lê dép ra vườn chơi thì hương thơm của hoa bám vào gậy, dép
Trản giả xâm hoa sắc. Khi nâng chén rượu để thưởng thức thì sắc hoa ánh vào chén rượu.
Điểu tị phanh trà yên, Khí đun nước để pha trà thì loài chim lánh khói,
Ngư thôn tẩy nghiễn mặc. Khi rửa nghiên mực, mực chảy xuống thì loài cá nuốt lấy.
Khiển hứng nhậm thi cuồng, Khi thích chí thì ngâm thơ tràn để tiêu khiển,
Phù suy da hữu lực. Lại nhờ có chén rượu nhắp cho hăng hái để đỡ sức già yếu.
Nhân xảo, ngả giả chuyết, Người ta khéo léo mà mình lại vụng về,
Thuỳ tri chuyết giả đức, Biết đâu vụng về ấy lại là một đức tốt!
Ngã chuyết, nhân giả xảo, Ta khờ dại mà người thì xảo quyệt,
Thuỳ tri xảo giả tặc. Biết đâu lòng xảo quyệt ấy lại là một cái hại lớn!
Kiền khôn tĩnh lý suy, Khi tĩnh, suy lẽ tạo hoá,
Cổ kim nhàn trung đắc. Lúc nhàn, ngẫm việc xưa nay.
Hiểm mạc hiểm thế đồ, Không gì hiểm bằng đường đời,
Bất tiển tiện kinh cúc. Nếu không biết cắt bỏ đi thì toàn là chông gai cả.
Nguy mạc nguy nhân tâm, Không gì nguy hiểm bằng lòng người,
Nhất phóng tiện quỷ quắc. Nếu không biết giữ gìn mà buông phóng ra thì hoá thành quỷ quái cả.
Quân tử cầu sở chỉ, Vì vậy, người quân tử phải tìm nơi đứng cho vững,
Chí thiện tư vi cực. Lấy điều “chí thiện” làm tiêu chuẩn tuyệt đối.
Quán Trung Tân do Nguyễn Bỉnh Khiêm, khi về ở ẩn tại quê nhà, đã cùng các vị bô lão dựng lên ở xã Trung An, huyện Vĩnh Lại, nay là huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương, vừa là nơi “thắng địa” (vùng đất đẹp hơn cả), vừa là nơi nghỉ ngơi cho những người qua đường. Quán Trung Tân đã trở thành đề tài quen thuộc trong thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Bài thơ này được sử dụng làm bài đọc thêm trong chương trình SGK Văn học 10 giai đoạn 1990-2006.
47. Trung Tân quán ngụ hứng kỳ 1

Trung Tân quán ngụ hứng kỳ 1

中津觀寓興其一 Trung Tân quán ngụ hứng kỳ 1
滿目干戈苦未休, Mãn mục can qua khổ vị hưu,
暫乘餘暇覓閒遊。 Tạm thừa dư hạ mịch nhàn du.
棲棲燕壁多孫衍, Thê thê Yên bích đa Tôn Diễn,
寂寂箕山幾許由。 Tịch tịch Cơ sơn kỷ Hứa Do.
千丈光搖新劍氣, Thiên trượng quang dao tân kiếm khí,
三春暖入舊書樓。 Tam xuân noãn nhập cựu thư lâu.
老來未沒先憂志, Lão lai vị một tiên ưu chí,
得喪窮通豈我憂。 Đắc táng cùng thông khởi ngã ưu.
Dịch Nghĩa
Mắt trông ngổn ngang đầy những can qua, cái khổ ấy biết bao giờ cho thôi?
Thế thời ta nhân còn được lúc thong thả thừa này ta hẵng giong chơi tạm chút.
Kìa ngoài thành Yên quốc kia tất tả tinh phường Tôn Diễn đi dâng chước đồ thành,
Mà trong núi Cơ nọ vắng vẻ ai là ông Hứa Do cố từ chối thiên hạ.
Ai kia thì ánh hào quang nghìn trượng của lưỡi gươm mới rõ sáng choang,
Ta đây thì khi hoà noãn ba xuân ở lầu thư cũ vẫn đầm ấm.
Ta từ trở về gia tới nay già thì già mà cái long lo trước thiên hạ nào đã nguội lạnh đâu,
Ta có bận lòng gì đến những sự cùng thông đắc táng riêng của ta đâu.
Quán Trung Tân do Nguyễn Bỉnh Khiêm, khi về ở ẩn tại quê nhà, đã cùng các vị bô lão dựng lên ở xã Trung An, huyện Vĩnh Lại, nay là huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương, vừa là nơi “thắng địa” (vùng đất đẹp hơn cả), vừa là nơi nghỉ ngơi cho những người qua đường. Quán Trung Tân đã trở thành đề tài quen thuộc trong thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm.
48. Trung Tân quán ngụ hứng kỳ 2

Trung Tân quán ngụ hứng kỳ 2

中津觀寓興其二 Trung Tân quán ngụ hứng kỳ 2
虛室渾無半點埃, Hư thất hồn vô bán điểm ai,
柴門盡日傍江開。 Sài môn tận nhật bạng giang khai.
漁舟晚向漁溪泊, Ngư chu vãn hướng ngư khê bạc,
野藪香隨野客來。 Dã tẩu hương tuỳ dã khách lai.
亂世苟全知有幸, Loạn thế cẩu toàn tri hữu hạnh,
危時弘濟愧無才。 Nguy thì hoằng tế quý vô tài.
乘閒卻借東風力, Thừa nhàn khước tá đông phong lực,
留取春光入壽盃。 Lưu thủ xuân quang nhập thọ bôi.
Dịch Nghĩa
Nhà trống không nửa chút bụi trần
Suốt ngày cửa mở toang ở bên sông
Thuyền chài chiều hôm về bến chài đậu
Màu hương đồng quê theo khách quê tới
Đời loạn thoát chết biết là may phúc
Thời nguy cứu nước tự thẹn không tài
Nhân khi nhàn rỗi mượn sức gió đông
Giữ ánh sáng mùa xuân lại trong chén rượu thọ
49. Trừ tịch tức sự

Trừ tịch tức sự

Trừ tịch tức sự Dịch nghĩa
Tân tuế tài lân cựu tuế trừ, Năm mới vừa đến năm cũ hết,
Lão lai tiếu ngã thái dung sơ. Về già tự cười mình lười nhác sơ xuất.
Kiền khôn bất tận yên hoa cảnh, Cảnh khói hoa là bất tận trong trời đất,
Môn quán vô tư thuỷ trúc cư. Nơi có nước có tre, không giữ riêng cho nhà cửa mình.
Lưỡng độ thủ tằng phù nhật cốc, Hai phen đã ra tay phò xe vua,
Nhất phong thư khẳng thướng công xư (xa), Một phong thư đâu có chịu dâng lên xe công.
Niên niên quản đắc xuân quang hảo, Năm năm được làm chủ ánh sáng đẹp mùa xuân,
Tri thị thiên tâm độc hậu dư. Biết đó là lòng trời riêng hậu với ta.
50. Tự thuật nhị thủ kỳ 1

Tự thuật nhị thủ kỳ 1

自述二首其一 Tự thuật nhị thủ kỳ 1
年方七十已休官, Niên phương thất thập dĩ hưu quan,
重憶幽居覓故山。 Trùng ức u cư mịch cố san.
津館日高眠未起, Tân Quán nhật cao miên vị khởi,
青雲爭似白雲閑。 Thanh vân tranh tự Bạch Vân nhàn.
Dịch Nghĩa
Tuổi vừa bảy chục, đã nghỉ việc quan,
Nhớ lại nơi ở vắng, tìm đến dãy núi xưa.
Mặt trời lên cao, ở Tân Quán ngủ chưa dậy,
Mây xanh ganh với Bạch Vân được nhàn hạ.
51. Tự thuật nhị thủ kỳ 2

Tự thuật nhị thủ kỳ 2

自述二首其二 Tự thuật nhị thủ kỳ 2
得優遊可便優遊, Đắc ưu du khả tiện ưu du,
心逸神閒日日休。 Tâm dật thần nhàn nhật nhật hưu.
最愛五湖湖上客, Tối ái Ngũ Hồ hồ thượng khách,
清風明月一扁舟。 Thanh phong minh nguyệt nhất biên chu.
Dịch Nghĩa
Được vui chơi hãy cứ vui chơi,
Hằng ngày nghỉ ngơi, tâm thần thoải mái.
Yêu biết bao những khách du vùng Ngũ Hồ,
Trăng trong gió mát, một chiếc thuyền con.
52. Ưu đàm hoa

Ưu đàm hoa

優曇花 Ưu đàm hoa
碧水池邊長綠陰, Bích thuỷ trì biên trưởng lục âm,
幽林花好趁禪林。 U lâm hoa hảo sấn thiền lâm.
開時不要爭春色, Khai thì bất yếu tranh xuân sắc,
只要如如見佛心。 Chỉ yếu như như hiện Phật tâm.
Dịch Nghĩa
Bên ao nước biếc, bóng xanh tốt rậm rạp,
Loại hoa rừng tối khéo đến nơi rừng thiền.
Khi nở hoa không cốt để thả xuân sắc,
Chỉ mong thấy được rõ ràng tâm Phật.
53. Vấn ngư giả

Vấn ngư giả

問漁者 Vấn ngư giả
Hỏi Ông Lão Câu Cá
湖海扁舟漁者誰, Hồ hải thiên chu ngư giả thuỳ,
生涯一笠一蓑衣。 Sinh nhai nhất lạp nhất thoa y.
水村沙近鴟為侶, Thuỷ thôn sa cận si vi lữ,
江興秋高鱸正肥。 Giang hứng thu cao lư chính phì.
短笛清風閒處弄, Đoản địch thanh phong nhàn xứ lộng,
孤帆明月醉中歸。 Cô phàm minh nguyệt tuý trung quy.
桃源往事依然在, Đào Nguyên vãng sự y nhiên tại,
秦晉興亡是卻非。 Tần Tấn hưng vong thị khước phi.
54. Vịnh thương cối

Vịnh thương cối

詠蒼檜 Vịnh thương cối
西山老檜翠成圍, Tây sơn lão cối thuý thành vi,
樑棟人將大用期。 Lương đống nhân tương đại dụng kỳ.
莫謂林泉終見屈, Mạc vị lâm tuyền chung kiến khuất,
蟠根已有蟄龍知。 Bàn căn dĩ hữu chập long tri.
Dịch Nghĩa
Thông già trên núi phía tây xanh tốt thành cụm,
Sắp đến lúc người dùng làm việc lớn: rường cột nhà.
Chớ bảo ở chốn suối rừng kết cục là bị ẩn khuất,
Gốc co cuộn đã có loài rồng nép dưới đất biết.
55. Vọng triều lâu

Vọng triều lâu

望潮樓 Vọng triều lâu
數頃金江數尺梅, Sổ khoảnh Kim giang sổ xích mai,
滔滔逝水為誰開。 Thao thao thệ thuỷ vị thuỳ khai.
寒潮漲退今猶古, Hàn triều trướng thoái kim do cổ,
留得人間笑白頭。 Lưu đắc nhân gian tiếu bạch đầu.
Dịch Nghĩa
Mấy khúc sông Kim bên mấy gốc mai,
Nước chảy cuồn cuộn vì ai khơi nguồn.
Thuỷ triều vẫn lên xuống, bây giờ cũng như ngày xưa,
Chỉ lưu lại cho người đời câu cười “Sóng bạc đầu”.
56. Vô đề (Phiêu nhược thù ti Bích Hán xâm)

Vô đề (Phiêu nhược thù ti Bích Hán xâm)

無題(縹若蛛絲碧漢侵) Vô đề (Phiêu nhược thù ti Bích Hán xâm)
縹若蛛絲碧漢侵, Phiêu nhược thù ti Bích Hán xâm,
輕於蟬蛻掛幽林。 Khinh ư thuyền thuế quải u lâm.
一從天外涼風起, Nhất tòng thiên ngoại lương phong khởi,
誰識無心更有心。 Thuỳ thức vô tâm cánh hữu tâm.
Dịch Nghĩa
Thăm thẳm xa vời như tơ nhện trên sông Thiên Hà,
Nhẹ bồng như xác con ve treo ở rừng tối.
Khi ngoài trời nổi lên cơn gió mát,
Ai biết rằng vô tâm nhưng lại có ý.
57. Vô đề (Tĩnh quan vãng phục tri thiên đạo)

Vô đề (Tĩnh quan vãng phục tri thiên đạo)

無題(靜觀往復知天道) Vô đề (Tĩnh quan vãng phục tri thiên đạo)
靜觀往復知天道, Tĩnh quan vãng phục tri thiên đạo,
細把窮通驗世途。 Tế bả cùng thông nghiệm thế đồ.
黑白兩般真莫掩, Hắc bạch lưỡng ban chân mạc yểm,
錯嫌俗眼太謨糊。 Thác hiềm tục nhãn thái mô hồ.
Dịch Nghĩa
Tĩnh lặng quan sát việc có đi có lại thì biết được đạo trời,
Chú ý nắm bắt cùng với thông thì nghiệm ra đường đời.
Hai mặt trắng đen rõ ràng không che đậy,
Nhầm lẫn là do con mắt trần tục quá mơ hồ.
58. Vũ

Dịch nghĩa
Âm dương hoà hợp vận huyền ky (cơ), Máy huyền diệu chuyển vận, âm dương hoà hợp,
Giải tác cam lâm hỷ cập thì. Mừng được kịp thời vụ, phát ra trận mưa ngọt.
Bái tự cửu thiên ân ký ốc, Rào rạt tự chín tầng trời, ơn đã đầy rẫy,
Nhuận triêm thứ thổ vật hàm nghi. Thấm nhuần mọi khoảng đất, mọi vật thoải mái.
Dân tô nghê vọng vương sư chí, Để được sống, dân mong quân nhà vua đến như đợi mống,
Sĩ hấp phong thành thánh giáo thi. Kẻ sĩ hợp nên phong hoá thi hành được giáo hoá của thánh nhan.
Vũ thuận cố đăng kim thượng thuỵ, Mưa thuận hoà, lúc được mùa, đó là điềm lành của nhà vua,
Thái Bình hựu nhất thử hưu kỳ. Thái bình đây lại là một thời kỳ tốt đẹp.
59. Xuân đán cảm tác

Xuân đán cảm tác

Xuân đán cảm tác Dịch nghĩa
Hành niên thất thập tứ niên dư, Tuổi đời đã ngoài bảy mươi tư,
Hỷ đắc đầu nhàn phỏng cựu cư. Mừng được cảnh nhàn về thăm chỗ ở cũ.
Tuế thuỷ bàng quan tân vũ trụ, Đầu năm nhìn quanh vũ trụ mới,
Gia bần duy phú cựu thi thư. Nhà nghèo, chỉ giàu sách vở cũ.
Tú hoa dã trúc tam xuân hảo, Hoa đẹp tre hoang ba xuân tươi tốt,
Tịnh nguyệt minh song nhất thất hư. Trăng trong cửa sổ sáng, một căn nhà trống.
Thuỳ thị thuỳ phi hưu thuyết trước, Ai phải ai trái, thôi không nói làm gì,
Lão cuồng tự tiếu thái dung sơ. Già ngông, tự cười mình lười nhác quá.
60. Xuân hàn

Xuân hàn

春寒 Xuân hàn
十二韶光春一團, Thập nhị thiều quang xuân nhất đoàn,
一天料峭送餘寒。 Nhất thiên liệu tiễu tống dư hàn.
輕陰借雨侵花易, Khinh âm tá vũ xâm hoa dị,
殘雪因風墜柳難。 Tàn tuyết nhân phong truỵ liễu nan.
繡闥佳人低玉帳, Tú thát giai nhân đê ngọc trướng,
香街醉客促金鞍。 Hương nhai tuý khách xúc kim an.
還乾自有神功在, Toàn kiền tự hữu thần công tại,
已播陽和滿祭繁。 Dĩ bá dương hoà mãn tế bàn.
Dịch Nghĩa
Mười hai thiều quang, một vừng xuân sắc,
Một ngày lành lạnh tiễn đưa cái rét còn lại.
Trời râm mát nhờ mưa dễ thấm vào bông hoa,
Tuyết tàn bị gió rơi xuống cành liễu.
Giai nhân trong phòng gấm rủ thấp màn ngọc,
Ngoài đường sực nức hoa thơm, khách say giục giã yên vàng.
Xoay chuyển càn khôn, tự có công phu thần diệu,
Đã gieo rắc khí dương hoà khắp cả trời đất.

Đánh giá bài viết

4.98/32 rates

Đăng nhận xét

Cảm ơn Đạo Hữu đã đóng góp. Chúc Đạo Hữu một ngày an lạc! A Di Đà Phật