Tam Hoàng Thơ - (Trích Kinh Tứ Thánh)

Tam Hoàng Thơ, Tứ Thánh Kinh

TAM HOÀNG THƠ
(Trích Kinh Tứ Thánh)
GIỚI THIỆU KINH TỨ THÁNH
TỨ THÁNH

Khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX , tại Châu đốc có cậu bé 9 tuổi bổng nói thơ khuyến thiện và tiên tri việc nước. Người ta ghi chép và xuất bản. Bản của Bửu Sơn Kỳ Hương có khoảng 500 câu lục bát, lời thơ cao thâm, gieo vần rất chặt chẽ . Theo Vương Kim trong đoạn viết về Tứ Thánh trong quyển Tận Thế và Hội Long Hoa do Tân Sanh, Saigon xuất bản 1965 thì quyển Tứ Thánh ra đời từ năm sáu mươi năm nay, trong lúc nước Việt Nam còn đặt dưới quyền bị trị, thế mà đã cho biết về cuộc độc lập sau này. Như vậy là quyển Tứ Thánh ra đời khoảng đầu thế kỷ XX. Có thể nhiều người ghi chép nên có nhiều bản khác nhau. Sau 1975, tôi cũng mua được một bản, bên ngoài ghi là Kim Cổ Kỳ Quan nhưng bên trong lại là Tứ Thánh. Nay đã thất lạc. Có nhiều câu thơ khác với bản này. Tôi hy vọng sẽ tìm lại được và bổ túc cho tập thơ này. Có thể ông ra đời trước hoặc đồng thời với ông Nguyễn Văn Thới (1866-1926) vì trong Kim Cổ Kỳ Quan ông Nguyễn Văn Thới có nói đến Tứ Thánh. .Nhiều đoạn Kim Cổ Kỳ Quan giống với Tứ Thánh. Đây là một tác phẩm khá lớn và khá quan trọng trong Văn học Việt Nam, trong văn học Miền Nam và trong Phật giáo Miền Nam,

Ottawa ngày 12-12-2011

TAM HOÀNG THƠ
1. Chiếu manh mà trải góc đền.
Chị vô làm bé có bền hay không?.
Trái đời gái lấy hai chồng.
Một nhà hai chủ sanh lòng tranh ăn.
5. Cái nhà chỉ có ba căn.
Căn giữa của vợ hai căn của chồng.
Cá chim nhốt lại một lồng.
Ngựa trâu chung để một đồng sao yên.
Tức cười thầy pháp sợ điên.

10. Mặt trời lố mọc thầy ghiền anh coi.
Vàng ai mà đổi con voi.
Hay vàng chú chệt đổi còi an-nam.
Thấy bông tươi tốt anh ham.
Chừng huê nó rụng nước tràn năm châu.
15.Anh sui anh trốn đi đâu.
Nhà anh lửa cháy chị dâu mất chồng.
Thầy pháp ăn ở hai lòng.
Chữa nam, chữa bắc chữa giòng tây đông.
Trâu ai mà để ở không.

20. Sao không cày ruộng kêu công cấy giùm.
Ngựa ai hung dữ quá hùm.
Trâu cày ngựa cỡi ba thùng cắt gom.
Gạo tôi đựng hũ đựng om.
Lúa ông vô bịch ông gom vô bồ
25.Ớ nầy thiện tính ông cô.
Vợ tôi, tôi giữ chồng cô, cô gìn.
Sao mầy chẳng xuống chợ kinh.
Đi qua Châu-Đốc Trà-Vinh trở về.
Ngày nay hai chú làm hề.

30.Hát tuồng nhị chúa bốn bề coi chơi.
Bán rao khắp hết nơi nơi.
Ai mà đứt cổ chỗ rơi đứt đầu.
Nầy anh nhà cửa ở đâu.
Bị quân ăn cuớp nhà đâu mà về.
35.Để tôi bắt ngựa cỡi về.
Lùa dê uống nước gà nghề đá chơi.
Tháng bảy tháng tám đi chơi.
Mời anh mời chị đá chơi một sòng.
Ăn tết đi đá thiệt đông.

40.Đi qua Chợ-Lớn Gò-Công trở về.
Đi cùng thành thị thôn quê.
Chú đi lục tỉnh trở về tay không.
Ba kỳ anh thiệt có công.
Đi nam đi bắc đi đông mới về.
45.Thằng nầy mầy thiệt nhà nghề.
Cù son lạc sắn mầy chê chú thầy.
Mầy mua guốc, mua giày.
Mua râu cá chốt cậm mày cá trê.
Ham chi cô bảy mày mê.

50.Chú mầy bảy chục con dê có chà.
Sao mầy ham của bỏ cha.
Ông mầy còn sống mầy la chết rồi.
Chú sao nói chuyện ngoài môi.
Không lo cày cấy bỏ trôi ruộng mình.
55.Rủ nhau cất một cái đình.
Rước cha về ở tụi mình ăn chung.
Ai ôi chớ nói tôi khùng.
Ba mươi tháng Chạp giở mùng muỗi vô.
Tháng Giêng mắm muối làm khô.

60.Tháng tư chú sáu dẫn cô về nhà.
Chú Năm bợ đỡ nịnh lừa.
Nhà tôi hết gạo xách vùa đi xin.
Má ôi con má chết sình.
Nó không ăn muối thúi ình má ôi.
65.Rồi đây chị chín coi tôi.
Hóa long hóa cánh kéo lôi xóm làng.
Anh mười hung dữ nghinh ngang.
Để tôi hóa lửa nướng tràn anh coi.
Chị coi tôi bắt con voi.

70.Bắt con chuột nhắt nó moi vách nhà.
Chị nào mặc áo lang sa.
Cho tôi một vạt đây mà con beo.
Ăn lạt dân lại mang nghèo.
Mèo không bắt chuột chuột trèo lên ăn.
75.Con rắn mà nói con trăn.
Chị dâu có chửa đẻ bằng trứng không.
Tôi khùng nói chuyện minh mông.
Xin làng xin xóm chớ hờn giận tôi.
Tôi điên thân lại mồ côi.

80.Không cha không mẹ mồ côi một mình.
Tôi khùng tôi biết động tình.
Cớ sao cậu mợ vô tình giết tôi.
Bởi tôi không có mặt vôi.
Không son không phấn chê tôi không nhìn.
85.Hát chơi ở chốn ba đình.
Ai kêu ai réo mặc tình ai ai.
Anh em hãy rán trồng khoai.
Trồng khoai trồng bắp cấy cày ruộng tâm.
Chừng nào dứt giặc bảy năm.

90.Ông bà ăn tết một năm vui mừng.
Thiếu chi kẻ dọn người bưng.
Chừng Ông về tới Mặc Dưng chẳng còn.
Cả kêu bớ chú cõng con.
Cha về tới rạch Tàu mòn rả tiêu.
95.Đói ăn rau muống rong rêu.
Chừng Ông về tới dựng nêu cấm cờ.
Tôi khùng đặt lợp đặt lờ.
Đặt trên chót núi đặng chờ cá vô.
Chú giàu chú lập cơ đồ.

100.Tôi nghèo tôi giữ cái mồ của cha.
Đất trời tôi ở không xa.
Nhưng mầy muốn đuổi giấy mà mầy đâu.
Tranh nhau thì phải dập đầu.
Ai mạnh thì được ai cầu xin ai.
105.Xưa nay mầy cuốc trồng khoai.
Bây giờ mầy bỏ tao cày đất tao.
Quân bây khua đũa đánh nhau.
Cơm tao tao giữ, tao nào bỏ đâu.
Nuôi tầm ta khỏi trồng dâu.

110.Qua sông tao khỏi bắc cầu nữa chi.
Nước trong cá lội thấy vi.
Nhà tao sẵn của tao thì ấm no.
Ai khôn tôi dại đưa đò.
Chèo qua khúc vịnh tôi hò hát chơi.
115.Hò nam hò bắc trời ôi.
Chợ không người nhóm ruộng thời vô canh.
Ta ngu ta dại còn anh.
Cha thì nó lú chú thì nó khôn.
Mặc ai xây luỹ đấp đồn.

120.Đố cha nào dám dựt cồn Hà-Tiên.
Bán buôn không vốn không tiền.
Không tờ không giấy không quyền ký tên.
Giỏi sao không giựt Cao Miên.
Cậu năm ở trển chú lên hồi nào.
125.Mầy ham mua chức quyền cao.
Chức mầy để nướng ăn rau với hành.
Chú nó khôn dại thiệt lanh.
Cù lao Ông-Chưởng như manh đệm bườm.
Cô sang giầy vớ hột cườm.

130.Chú giàu sang quá lòng hờm giựt trâu.
Sang giàu như cá mắc câu.
Như chim mắc bẩy như trâu khôn g chuồng.
Lỡ vui lỡ khóc lỡ buồn.
Lỡ bần lỡ phú lỡ luồng gió mây.
135.Nam mô mấy chú mấy thầy.
Mô làng mô xóm mô hoài mô không.
Mô cho thầy ký thầy thông.
Mô sao cho khỏi cái còng Diêm-Vương.
Mô sao chẳng kẻ đi đường.

140.Nhà không người ở ruộng vườn vỏ hoang.
Sài Gòn con cuốc quá sang.
Le le choán ổ bạc vàng hết trơn.
Nói ra thầy chú chớ hờn.
Tôi đây ngây dại có khi điên khùng.
145.Bán mền bán chiếu bán mùng.
Mua cho đòn gánh cặp thùng không quai.
Người nầy con gái hóa trai.
Con trai hóa gái thiệt tài phép Tiên.
Chị sao đáng mặt thuyền quyên.

150.Chị đừng quí tử con hiền của ông.
Anh ôi chớ có hai lòng.
Giữ trung giữ hiếu, giữ lòng với cha.
Hỏi mầy ai đẻ mầy ra.
Ông mầy già yếu ông mầy còn kia.
155.Mầy hung như khoá không chìa.
Đất cày bảy cục mầy lìa đi đâu.
Ông cha còn ở điện đầu.
Biểu mầy phải niệm một câu Di-Đà.
Thân mầy côi cút không cha.

160.Thương dân miền Bắc cha già đợi trông.
Chị sao không chịu lấy chồng.
Cam đành ở góa tuyệt giòng không con.
Khen ai lựa chọn miếng ngon.
Ai người nam tử ai tròn nam nhi.
165.Đố ai ta nói chuyện chi.
Ai mà hiểu đặng đáng ghi con trời.
Tới đây tuyệt bút hết lời.
Kêu cùng nam nữ mau thời tầm tri.


HẾT

Đánh giá bài viết

4.98/32 rates

إرسال تعليق

Cảm ơn Đạo Hữu đã đóng góp. Chúc Đạo Hữu một ngày an lạc! A Di Đà Phật