Thuyết Pháp Ứng Khẩu (Trọn Bộ)

thanh sĩ, thuyết pháp ứng khẩu, thuyết pháp ứng khẩu

THÀNH KÍNH GIỚI THIỆU

THÀNH KÍNH GIỚI THIỆU


Chỉ có những người đã có nghe ông Thanh Sĩ thuyết pháp đôi lần, mới tin rằng ông có một biện tài Thuyết Pháp Ứng Khẩu từ trươc đến nay ít người làm được. Cách Thuyết Pháp Ứng Khẩu của ông không giống như các nhà sư thuyết pháp. Ai có dự một thời pháp của ông Thanh Sĩ cũng phải:

Kinh ngạc về tài ứng khẩu của ông:

Không bao giờ nghĩ đến đề mục trước, ông tự ứng khẩu và tùy theo căn cơ người cầu pháp mà thuyết ra những điều tương ứng với trình độ cơ cảm của họ. Bởi vậy cuộc thuyết pháp của ông luôn luôn rất linh hoạt vì nó ứng đối với khát vọng cầu pháp của mọi người.

Kinh ngạc vì lối văn thuyết pháp của ông: Thuyết Pháp Ứng Khẩu đã là khó, thế mà ông còn áp dụng một lối văn có vân, một lối thơ trác tuyệt. Thơ là một thể văn có vần có điệu, thế nên có sức rung cảm và điều dưỡng tính tình của con người, đúng với câu “Hưng ư thi” của Khổng Tử.

Kinh ngạc vì ông thuyết pháp ứng với tâm niệm của thính giả:

Nhiều người đã từng thí nghiệm và nhận thấy rằng một khi trong tâm niệm mống tưởng hay thắc mắc một nghi vấn nào, thì liền đó ông Thanh Sĩ ứng khẩu thuyết ngay về chỗ nghi vấn ấy. Đó chẳng qua là giữa ông và thính giả có sự cảm ứng về niệm tưởng, cho nên trong tâm của thính giả mống một niệm gì thì cái niệm ấy cảm ứng ngay đến diễn giả.

Trường hợp này thường thấy trong kinh Phật, như trong kinh Duy Ma có đoạn kể lại: khi nghe Phật thuyết về lý “Tâm tịnh tức quốc độ tịnh”, ông Xá Lợi Phất mống lòng nghĩ rằng:

“Nếu Bồ Tát tâm tịnh thì cõi tịnh độ của Phật cũng tịnh, nhưng cớ sao Đức Thế Tôn của ta trong lúc làm Bồ Tát tâm của Ngài không tịnh hay sao mà quốc độ của Ngài uế trược như vậy?”

Phật biết ngay chỗ mống niệm của ông Xá Lợi Phất liền giải về chỗ nghi vấn ấy.

Kinh ngạc vì chỗ không học mà thông:

Ai cũng biết ông Thanh Sĩ xuất thân là một tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo kém học, hay có thể nói là không học. Thế mà khi nghe những đề tài của ông đem ra thuyết pháp, như ta thấy ông luận về “Sự tu và Đạo đức” trong kỳ lễ kỷ niệm Đệ Thập Tứ Chu Niên ngày Đức Thầy Khai Sáng nền đạo Phật Giáo Hòa Hảo, người ta mới nhận thấy ông rất uyên bác về Phật Pháp thuyết minh và xiển dương giáo lý của Phật Giáo Hòa Hảo một cách thâm huyền quảng huợt.

Với bao nhiêu điều kinh ngạc ấy, chẳng những chứng tỏ rằng ông Thanh Sĩ rất xứng đáng là một tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo mà còn làm cho người đời thấy rằng Phật Giáo Hòa Hảo thường có một vài bực sáng tỏ xuất hiện mà người đời gọi là phát huệ như trường hợp của ông Thanh Sĩ vậy. Nhớ lại bài thuyết pháp của ông Thanh Sĩ từ trước tới giờ, không lần nào ông quên đặt mình là một tín đồ trung thành của Phật Giáo Hòa Hảo, để cổ võ nung đúc anh em đồng đạo việc tu hành trong khi Đức Thầy vắng mặt. Nhiều lần ông khéo khêu gợi về việc này làm cho tất cả nam nữ thính giả đều rơi lệ.

Thật là một việc khích động vô cùng hiệu quả ! Thế mà từ trên 5 năm nay, nghĩa là từ khi ông Thanh Sĩ ra đời thuyết pháp đến giờ, sau khi nghe pháp ra về, thử hỏi mấy người còn nhớ được cho đúng một đoạn văn nào của ông đã thuyết.

Đáng tiếc thay !

Nhưng đời nay có mấy ai được như Trương Tòng, “Nhứt mục khách thập hàng”, hoặc như Tôn giả A Nan nghe Phật thuyết đến đâu nhớ đến đó. Thế nên trên ngàn bài thuyết giảng của ông Thanh Sĩ đã thuyết khắp cả mấy tỉnh ở miền Hậu Giang như: Cần Thơ, Sa Đéc, Long Xuyên, Châu Đốc, Vĩnh Long trên 5 năm nay không còn lưu truyền được một bài nào.

Thật càng đáng tiếc hơn nữa !

Nhưng muốn điền bổ vào khiếm khuyết ấy, kể từ hôm khánh thành ngôi Tam bảo Tây An Cổ Tự, có nhiều anh em nghĩ ra cách luân phiên nhau mỗi người chép một câu, để sau khi giảng ráp lại thành bài. Việc làm được anh em tín đồ hoan nghinh khuyến khích không ngơt và do đó mới có sự trù tính in ra thành sách những bài Thuyết Pháp Ứng Khẩu của ông Thanh Sĩ từ Tết tới giờ. Việc khuyến khích ấy đưa ra nhiều luồng dư luận đáng chú ý:

1- Cần in thành sách những bài thuyết pháp của ông Thanh Sĩ, để cho tiện bề giữ lại những bài thuyết pháp ấy sau này, hầu tránh cái tệ “Thuật Nhi Bất Tác” của Khổng Tử ngày xưa đã bị hậu thế xuyên tạc rất nhiều, và cũng làm khổ cho các các bực tiền bối ta về thuật ngữ “Khổng Tử Viết” chẳng ít.

2- Nhận thấy trong các thời pháp của ông Thanh Sĩ gần đây, càng ngày thính giả càng đông, tự nhiên có người nghe không được rõ nên cần in thành sách những bài thuyết pháp của ông, để tiện bề xem lại khi cần. Như thế giúp cho mọi người được lãnh hội hết ý nghĩa của thời pháp và cũng còn có thể ghi nhớ một đôi điều, nếu tự mình nhận thấy bổ ích cho sự tu học của mình phần nào.

3- Ngoài ra, lại có một số người vì bận việc hoặc ở xa nơi thuyết pháp, nên không nên không thể đến thường để nghe, thì nay cần có những bài thuyết pháp của ông in ra thành sách đặng đọc lại. Như vậy, cũng như được nghe ông thuyết pháp mà không gián đoạn một phiên nào. Với những lý lẽ trên, khiến chúng tôi rất đỗi vui mừng khi hay tin những bài giảng của ông Thanh Sĩ được in thành sách. Chúng tôi không ngại tài sơ trí xiển viết mấy lời thành kính giới thiệu quyển Thuyết Pháp Ứng Khẩu này với các tăng ni đạo tục có lòng muốn hiểu rõ về Phật Giáo Hòa Hảo.

Thiện Duyên và Thiện Hạnh
LỜI BẠT (Của Tác Giả)

LỜI BẠT (Của Tác Giả)

Sinh ra cho tôi cái xác lành mạnh là cha mẹ; tạo nên cho tôi một lý tưởng đạo đức chính là Đức Huỳnh Giáo Chủ, “tức là Đức Thầy của chúng ta”.

Nhờ Sám giảng của Đức Thầy đánh thức tôi hồi lúc mới độ 16 tuổi đầu. Nhờ sức ám trợ của Đức Thầy mới khiến tôi cảm thấy hồi đầu theo Phật.

Với cách thức quy y, tôi chỉ do bài của Đức Thầy đã dạy trong các Sám giảng mà thi hành.

Mặc dù không được duyên hầu hạ bên Đức Thầy, song lòng tôi không lúc nào lảng quên hình ảnh của Đức Thầy mà trước kia trong dịp Đức Thầy đi khuyến nông tôi đã hân hạnh được thấy. Cho đến khi này hễ mỗi lần gợi đến việc của Đức Thầy thì tự thấy cõi lòng tôi nao nao, với một niềm thương kính cẩn và sợ sệt vô biên.

Vào tháng 2 năm Đinh Hợi (1947) hốt nhiên Đức Thầy thọ nạn. Sau khi tiếp được hung tin ấy, cả hai triệu tín đồ nam nữ như sét đánh ngang đầu. Trên khuôn mặt của mỗi người đều đượm tràn nước mắt và in sâu những nét buồn, sợ, thương, lo vô hạn. Vì người tín đồ vắng Đức Thầy như con lìa vú mẹ, dù sao cũng phải lo ngại và đau đớn.

Lo ngại cho hai triệu đồng đạo biết có được vững vàng đức tin chăng? Và cái tinh thần đạo đức sẽ ra sao? Trong lúc chờ đợi họ có giữ đúng theo lời của Đức Thầy dạy bảo hay để lảng quên?

Đau đớn vì Đức Thầy yêu kính của chúng ta cũng vì chúng ta mà từ lâu phải gánh chịu mọi nỗi gian truân tai khổ cho đến ngày nay cũng chưa rỗi được.

Không rõ Đức Thầy vắng mặt với sự lành mạnh ra sao?

Biết có gặp được người thành tâm thiệt ý kính đãi Đức Thầy như chúng ta chăng?

Cũng vì những nguyên nhân trên đó mà khiến tôi chẳng ngại mình tài sơ, trí siển đứng ra với cái ngu ý là để nhắc nhở khuyến khích cho anh em đồng đạo nam cũng như nữ:

-Hãy nhớ Đức Thầy, tưởng đạo lý;

- Nghĩ đến cơ nhân quả báo ứng,

- Hăng hái tu hành theo lời của Đức Thầy đã dạy rành trong Sám giảng,

- Lo bảo vệ tình thân ái giữa người đồng đạo cho được trọn vẹn và cao khiết đến ngày Đức Thầy trở lại. Tuy nhiên trong lúc chưa có cách nào hơn, thì mỗi người của chúng ta, phải đem một tấm lòng như tha như thiết, để cầu khẩn các đấng bề trên ủng hộ cho phần xác Đức Thầy được mạnh lành và sớm trở về dìu dắt một đoàn con dại đương lúc bơ vơ.

Với việc nhắc nhở ấy, tôi đã làm ngót hơn 5 năm nay, nghĩa là khởi đầu từ tháng giêng năm Mậu Tý (1948) đến giờ.

Song chỗ đi lại của tôi hầu hết mấy tỉnh ở miền Hậu Giang và lời giảng giải đã nhiều lần mà những bài ấy không được lưu truyền.

Bắt đầu từ tháng Giêng năm Quý Tỵ (1953), mỗi ngày sóc vọng tôi có đến ngôi Tây An Cổ Tự giảng dạy đạo lý do theo căn bản truyền giáo của Đức Thầy cho người đồng đạo được nhớ. Ở đây nhờ anh em có nghĩ ra cách luân phiên nhau mỗi người chép một câu, cho đến khi rồi phiên giảng về ráp lại thành bài. Phương pháp ấy đã đem lại kết quả là sự kết tập những bài giảng ứng khẩu này.

Tôi tự xét những lời của tôi đã nói ra trong khi giảng với mục đích nhắc cho toàn thể đồng đạo lớn nhỏ đều nhớ để tuân hành giáo điều của Đức Thầy, của Phật đã khổ công ra tay truyền bá. Nhắc cho đồng đạo nhớ rằng: Lời của Đức Thầy toàn là những lời réo kêu thống thiết. Ý muốn cho cả thảy nhơn sanh mau chóng quày đầu hướng thiện, cải tà qui chánh làm các việc phước đức. Tránh những sự lỗi lầm và mỗi ngày trong hai buổi sớm chiều phải thành tâm lạy Phật cầu Trời hầu nhờ ơn đức từ bi che chở cho tổ tiên cha mẹ, cho bá tánh vạn dân và cho mình thoát khỏi ngày tận diệt của buổi Hạ nguơn để bước sang kỷ nguyên mới.

Và hơn nữa còn trong vòng học Phật tu nhân, chúng ta sẽ phải tùy cơ để đáp ơn cho dân, cho nước mà chúng ta đã nhờ nhõi từ trước đến nay mới được sanh cư đầy đủ.

Tóm lại, chẳng qua vì lòng tôi quá nghĩ đến công ơn dìu dắt của Đức Thầy, sánh dường non biển; nghĩ đến chư vị siêu phàm đã đầy lòng từ bi hóa hiện cứu thế độ dân; nghĩ đến tình đồng đạo đã có sự tương quan mật thiết giữa nhau trong mọi sự vui khổ; nghĩ đến nước non dân tộc trong lúc khói lửa đao binh và nghĩ đến mình đã có lời thệ nguyện độ hết chúng sanh khỏi chốn Ta bà thống khổ; nhứt là trong khoản Hạ nguơn này, nên khiến tôi chẳng quản ngu khờ, đem tiếng nói ở tận đáy lòng của mình ra kêu gào, khuyên nhủ khắp cả chư nhơn đồng đạo và các tầng lớp dân chúng, hãy mau thức giấc Nam Kha tỉnh cơn ác mộng, gấp trau sửa cho tâm tánh hiền lành, việc làm chánh đáng, ý tưởng thanh cao để sống sót coi đời và cũng khiến cho mình đáp xong bổn phận đã thọ ân.

Và do những ý nghĩ đó. Nên tôi mới định ý cho quyển giảng này ra mắt chư đồng đạo may ra giúp ích
cho nhau được một phần nào trên đường tu niệm trong lúc vắng mặt Đức Thầy.

Vậy tất cả lời lẽ trong quyển này nếu có chỗ nào sơ sót, lầm lẫn xin đồng đạo hãy xét nghĩ vì cải thiện ý của tôi mà vui lòng điểm xuyết lại cho.

Rất thậm tạ,
Định Hòa, Mạnh thu năm Quý Tỵ.
Thanh Sĩ.

Những Bài Thuyết Pháp Năm Quý Tỵ 1953

  THÁNG GIÊNG:
01- Đêm 14 Nhân Lễ Khánh thành ngôi Tây An Cổ Tự

Đêm 14 Nhân Lễ Khánh thành ngôi Tây An Cổ Tự ở thôn Long Kiến.

“Khởi đầu bằng một đoạn tản văn chép không kịp”.

Nhơn dịp Tây An Tự khánh thành,
Mượn câu huyền diệu gọi nhơn sanh.
Hãy mau thức tỉnh lo tu niệm,
Thoát khỏi sông mê đến cõi lành.
Năm nay gọi là năm con rắn,
Loại với rồng song chẳng có chân;
Bắc Nam Trung khắp ba phần,

Chỗ nào Rắn cũng bò lần đến nơi.
Tài của Rắn ỷ hơi nọc độc.
Thừa hại người trong lúc bất phòng;
Nhưng nào qua lưới tạo công,
Gặp tay Hớn Bái mạng vong chẳng còn.
Thấy việc thế hao mòn lờ lụn.
Khuyên đạo đồng nay cũng nên nghe;
Dám đâu có tiếng bài khoe,
Chỉ thương nhau bảo lắng nghe chút tình.
Bởi cũng một cội lành trong đạo.
Nên có lời khuyến cáo cho nhau;
Để cho bớt nỗi máu đào,
Để sau cùng được bước vào đài sen.

Thừa đêm vắng lời quen đã rót.
Hỡi đạo đồng lừa lọc để vào;
Đây là giọng nói khuyên nhau,

Muốn cho trên dưới một màu từ bi.
Lời vắn tắt nên ghi tim phổi,
Để ra về sửa đổi chút nào;
Thương nhau muốn được thêm cao,

Khỏi ngày đọa lạc khỏi vào hố sâu.
Hỡi đồng đạo ngồi lâu chớ nệ.
Nghe những lời kinh kệ sĩ hiền;
Khuyên nhau đâu có vì tiền,

Nhắc nhau vì bởi lòng thiền(g)* đấy thôi.
Muốn cho đó có ngôi có vị,
Được sống còn phỉ chí ước ao;
Sĩ Thanh vắn tắt lời trao.
Anh em đồng đạo cùng nhau ra về.
14 tháng Giêng Quý Tỵ (tức 27 tháng 2-1953)
-----------------------------
* Lòng thiền hay lòng thiềng từ cũ của lòng thành.
02- Đêm Rằm Nhân Lễ Khánh Thành ngôi Tây An Cổ Tự

Đêm Rằm Nhân Lê Khánh Thành ngôi Tây An Cổ Tự ở thôn Long Kiến


“Khởi đầu bằng một đoạn tản văn chép không kịp”.

Quí đáng thay cho tổng Định Hòa,
Được ngôi Tam Bảo rất nguy nga.
Cổ kim xét nghiệm đà hy hữu,
Mong mỏi từ đây đượm khí hòa.

***

Rồng mãn kế Rắn kia lại đến,
Năm cũ tàn năm mới bước sang;
Kiếp người theo cái thời gian,
Trẻ rồi già, kế thân tàn như hoa.
Người phải biết lo xa mới được,
Rán vun trồng cội phước mà nhờ;
Nước nhà rối tợ vò tơ,
Chữ tu đồng đạo vội ngơ ngẩn lòng.
Tiên Phật rất não lòng sa lệ,
Thấy chúng sanh bê trễ tu hành;
Hiện nay ít kẻ làm lành,
Mãi lo tiền bạc cạnh tranh tối ngày.
Nên Thanh Sĩ ai hoài chua xót,
Vịn từ tâm nối gót khuyên dân;
Muốn cho đồng đạo xa gần,
Nghe đây rồi phải định thần xét suy.
Đạo với lý mấy khi được gặp,
Khi gặp rồi phải gấp tu hành;
Phật Tiên bỏ thế không đành,
Mà sao người thế nỡ tình ngó lơ.
Đã hiểu biết thời cơ thống khổ,
Sao chẳng tìm phương độ lấy thân;
Mãi đeo theo cuộc hồng trần,
Ngày qua tháng lại mộ phần đến nơi.
Chừng đó dẫu buông lời hối tiếc,
Thì ăn năn sao kịp bớ người !
Nay đây khuyên nhủ trong đời,
Nghe câu đạo lý hãy rời tánh mê.
Tu cho được gặp Huê Long hội,
Tu cho tường gốc cội Rồng Tiên;
Bấy lâu phải chịu ăn phiền,
Gần ngày thoát nạn Rồng Tiên đấy rồi.
Nay chỉ có trau giồi đức hạnh,
Để Phật Trời cứu cánh đấy thôi;
Dân ôi ! kìa hỡi dân Ôi !
Lời đây khuyên đó vô hồi bi ai.
Muốn cho kẻ đời nay tỉnh ngộ,
chẳng quản chi lao khổ đời mình;
Mong sao trên dưới thuận tình,
Dẹp đi thù ghét khỏi sinh máu đào.
Đây chẳng dám lời nào ngụy biện,
Lấy lòng ngay có khuyến người tu;
Mong sao dứt được ngục tù,
Ước đời thoát khỏi sương mù ban mai.
Để được thấy sáng khai ánh nguyệt,
Khỏi phải còn mờ mịt như xưa;
Từ đây tật xấu nên chừa,
Thói tà rán tránh cho vừa thần tiên.
Hỡi đồng đạo lặng yên nghe kỹ,
Rồi in sâu tâm trí của mình;
Bởi đời nay quá mỏng manh,
Gần ngày tiêu diệt người lành rán lo.
Mặc dù phải gay go trắc trở,
Nhưng tấm lòng gắn bó đừng rơi;
Tin rằng có Phật có Trời,
Lúc nào cũng vẫn độ người hiền lương.
Chỉ những kẻ theo đường tà quấy,
Khó mong gì thoát lưới tạo công;
Ngày kia phải chịu não nồng,
Kìa tai nọ ách vô cùng thiết tha.
Nay phải rán Di Đà thường niệm;
Và luôn luôn hạnh kiểm giữ gìn,
Làm cho được sạch được thanh,
Ngày kia mới đặng mây lành phủ che.
Nay phải chịu khắt khe dưới thế,
Bởi cuộc cờ xỏ rế biết sao !
Miễn mình hiền đức đeo vào,
Ắt là sẽ được Thiên Tào đỡ nâng.
Hỡi đồng đạo thôn lân lớn nhỏ,
Từ nay đây xét rõ dữ lành;
Làm hiền sẽ được yên mình,
Tạo hung ắt phải muôn nghìn lao đao.
Phật Tiên phải lăn vào cõi tục,
Bởi thấy đời việc phúc thả trôi;
Mãi cam chịu nổi luân hồi,
Ngàn muôn kiếp phải dập dồi tử sanh.
Nên tiện có ứng thân khắp chỗ,
khuyên nhủ người lớn nhỏ tỉnh lòng;
Anh em nam nữ đạo đồng,
Khi nghe rồi phải để lòng làm theo.
Mới thoát khỏi nàn eo sắp tới,
Được nhìn xem thế giới tranh hùng;
Nạn tai xét gẫm khó cùng,
Nếu người chẳng tưởng việc công của Trời.
Ỷ lại vào thiên thời văn vật,
Vội quên đi Tiên Phật chẳng cần;
Tưởng là theo cái tiền trần,
Hưởng đầy lạc thú khỏe thân lắm rồi.
Đâu còn biết luân hồi là khổ,
Quên linh hồn ẩn chỗ xác thân;
Chừng khi tan rã huyễn trần,
Linh quang kia phải muôn phần đọa sa.
Hỡi đồng đạo trẻ già nam nữ,
Phải từ đây gìn giữ tâm hiền;
Mặc dù gặp lắm truân chuyên,
Với lòng cũng vẫn làm hiền đấy thôi.
Để tránh khỏi tai trời ách nước,
Có nhờ ơn trên trước chở che;
Bởi đời mỏng tợ màn the,
Anh em sao mãi say mê cuộc đời.
Phải tu tỉnh gặp người Thượng cổ,
Được xem coi những chỗ nhiệm mầu;
Nay khuyên chớ tưởng rằng lâu,
Việc đời mai tối ai hầu biết chăng?
Tu gặp những khó khăn trắc trở,
Mà ta không than thở mới tài;
Trên đường đâu cũng có gai,
Nhưng lòng cương quyết chớ này bớ dân.
Khuyên hãy rán bốn ân gìn vẹn,
Đến ngày kia khỏi thẹn Phật Trời;
Dân ơi ! Kìa hỡi dân ơi !
Tu hành phải rán nhớ lời Phật Tiên.
Một là phải đền ơn đất nước,
Hai nên lo cội phước gia đình;
Ba là tưởng Phật mầu linh,
Sớm hôm sùng ngưỡng không tình lảng xao.
Bốn nên nhớ đồng bào nhơn loại,
Đã bao phen nhờ nhõi nhau nhiều;
Ngày nay việc nghĩa nâng niu,.
Để hầu đền trả ít nhiều bớ dân !
Nếu vẹn bốn điều ân đã kể,
Thì được gần chín bệ dễ dàng;
Ngày nay dù phải gian nan,
Ấy là họa trước phải mang bớ người !
Miễn cho được nhớ lời Phật dạy,
Mở lòng nhơn hà hải giúp nhau;
Không còn ô nhiễm trần lao,
Lại càng việc nghĩa sửa trau thêm hoài.
Đến chung cuộc gặp ngày vui đẹp,
Có mây lành thay dép đỡ chân;
Hoặc là có được châu trân,
Trị bao thủy hỏa muôn phần ứng linh.
Thưởng cho kẻ vẹn mình đạo Phật,
Ban những người chơn chất lương hiền;
Thương cho những kẻ tham tiền,
Tạo nhiều tội ác liên miên khổ sầu.
Khuyên đồng đạo cần âu việc đạo,
Nên giữ điều ngay thảo chớ rời;
Trên đầu tin có Phật Trời,
Lòng luôn trau sửa cho đời thanh cao.
Mấy khi gặp trần lao thay đổi,
Lập đời tân nhiều nỗi lạ lùng;
Muốn người được thấy ngọc trung,
Để xem cho biết anh hùng vang danh.
Muốn người rõ hương lành rừng thẳm,
Bay khắp trời càng ngâm càng thơm;
Nay dầu túng thiếu tiền cơm,
Với lòng cũng vẫn để ôm chữ từ.
Luôn luôn nhớ tiêu trừ tham ố,
Phải tìm phương Tịnh Độ tu hành;
Di Đà sáu chữ để tình,
Ngày kia sẽ được khỏi mình chông gai.
Sự khổ não ngày nay cũng lắm,
Nhưng có nơi còn đặng an cư;
Sợ e gặp loạn gia cư,
Thảy đều bỏ trống người người vắng hoe,
Nay khuyên chúng không nghe lại giận,
Nhưng nghĩ vì bổn phận phải làm;
Muốn đời nhập thánh siêu phàm,
Mà trong thế sự còn ham việc trần.
Có mấy kẻ xa lần tội ác,
Để tìm phương giải thoát từ đây;
Anh em tin tưởng Đức Thầy,
Vưng trên Thượng Đế xuống nay cõi trần.
Chúng ta được hữu phần tỉnh ngộ,
Thời sớm toan rứt bỏ trần ai;
Có về nơi cảnh Bồng Lai,
Yên nhàn hôm sớm liễu mai bạn tình.
Đâu còn phải trói mình bể tục,
Chịu mọi điều khổ nhục tháng ngày;
Anh em đồng đạo gái trai,
Hữu tâm đi đến đêm nay rất nhiều.
Nghe rồi phải mai chiều sửa dạ,
Đừng để cho sa ngã từ đây;
Ngày kia mới đặng sum vầy,
Dưới mình đẹp đẽ trên Thầy vui tươi.
Nay chớ có buông lơi đạo cả,
Vì mấy khi gặp mở trường lành;
Ai cần chuyên chú học hành,
Đến ngày thi cử đặt mình bực cao.
Khi bẻ quế biết bao khoái lạc,
Danh hiền kia ghi tạc bảng vàng;
Đạo đồng chớ quá lời than,
Từ nay nên nhủ sắt gang đến cùng.
Chẳng hề có bươi bòng thay đổi,
Vẫn được trau chung thủy một lòng;
Ngày kia được thỏa dạ mong,
Gặp Thầy gặp Chúa vô cùng đẹp xinh.
Long Hoa Hội mối manh tại đó,
Song bởi trong lớn nhỏ chẳng tìm;
Thế nên không rõ cổ kim,
Để tâm kia mãi im lìm lẳng lơ.
Khi biết được huyền cơ mầu nhiệm,
Thì luôn luôn tinh tiến một đường;
Kịp ngày biến cải tang thương,
Để mà chầu Đức Phật Vương non Thần.
Hỡi đồng đạo ân cần tu tỉnh,
Phải nói làm chơn chánh mới là;
Chớ nên tiếc của tham nhà,
Đừng đeo danh lợi gây ra tội tình.
Phải cương quyết hy sinh nhứt thế,
Giúp cho người rách rưới mồ côi;
Lòng nhân cứ mãi vun bồi,
Bảo sao chẳng được đứng ngồi tòa sen.
Còn dạ mãi ố hoen keo bẩn,
Cứ lo cho thân phận ấm lành;
Không hề thương kẻ nhọc nhành,
Chẳng đem giúp đỡ nhân sanh một tiền.
Đến ngày thác điền viên cũng bỏ,
Tội tình kia hồn đó phải mang;
Chi bằng nay sớm lo toan,
Ngày kia sẽ được vẻ vang trăm bề.
Thương nhau mới vỗ về cạn kỹ,
Muốn cho nhau gắng chí tu luôn;
Vì đây là một lớp tuồng,
Có trung có nịnh vui buồn trộn pha.
Nên có cuộc nồi da xáo thịt,
Lại phải còn kẻ chích người châm;
Càng suy gan ruột héo bầm,
Gọi kêu đồng đạo tỉnh tâm tu cần.
Chữ tu ấy trau thân sửa nết,
Nguyện một lòng đến chết không thôi;
Dầu cho sóng dập gió dồi,
Tâm kia cứ giữ một lời sơn minh.
Như vậy ắt cảm trên Chư Phật,
Ngày nguy nàn kịp bước hộ trì;
Nhược bằng dân chúng mê ly,
Ở trong tràng mộng đạo nghì vội quên.
Khi gặp phải đạn tên ách biến,
Vái van nào được chuyện linh mầu;
Bây giờ khuyên hãy khẩn cầu,
Sớm hôm phải rán dập đầu vái van.
Hỡi đồng đạo xóm làng lân ấp,
Từ nay đây gấp gấp sửa mình;
Bởi đời khác thể chỉ mành.
Cho nên Thanh Sĩ không đành làm thinh.
Khiến phải tỏ chút tình mến đạo,
Để cho người xốc xáo tu cần;
Ngày kia gặp hội Phong Thần,
Được xem phép nhiệm muôn phần hay ho.
Nay cần mẫn toan lo sớm tối,
Kẻo phải thân lạc lối bớ người !
Lòng kia khuyên chớ để rời,
Bao nhiêu ngọc quí trong đời tại đây.
Tu khác thể cấy cày ruộng rẫy,
Sốt sắng thời lúa ấy dồi dào;
Nhược bằng biếng nhác chẳng trau,
Thì ngay kia ăt lua vao it oi.
Thương nhau phải rạch ròi bày biện,
Mong mọi người tinh luyện ân cần;
Trên không thẹn với Phật Thần,
Dưới làm cho cả muôn dân đẹp lòng.
Lời dịu ngọt như ngân chậm rãi,
Khiến cho người nghe lấy được rành;
Không vì cái giọng rất thanh.
Mà là muốn kẻ xét tình thiệt hơn.
Nếu ngay chánh ghi xương khắc cốt,
Còn vạy tà hãy lột hãy buông;
Đây không có phải thơ tuồng.
Mà là tiếng kệ não buồn khuyến dân.
Bởi sợ kẻ xa lần bổn thiện.
Nên kêu gào tiếng đến xa gần;
Anh em đồng đạo định thần,
Để mà nghe rõ một lần thử coi.
Đây quyết chí để noi gương Phật,
Chẳng màng chi khổ cực kiếp này;
Miễn làm được vẹn lời Thầy,
Thêm gây lợi ích muôn loài đây thôi.
Song ít kẻ nhớ lời khuyên bảo,
Tưởng chừng như nói láo gạt người;
Nào đâu có rõ mạng trời,
Từ bi khiên kẻ đem lời dạy dân.
Nào Tiên Phật Thánh Thần bốn phía,
Cùng rập nhau tiếp kế lâm phàm;
Hoặc là ở Bắc ở Nam,
Đông Tây cũng có đặng làm Phật ngôn.
Kêu gọi kẻ tỉnh hồn tỉnh trí,
Nhắc nhở người sửa cải việc làm;
Bỏ đi những tánh tham lam,
Rèn cho được chữ từ nhân trong lòng.
Mới khỏi phải dấn thân cảnh khốn,
Bởi đời nay sắp đến tận tiêu;
Mấy năm điền địa đìu hiu,
Dân gian thưa thớt đã nhiều thấy chưa.
Nhưng còn lắm ngẩn ngơ thêm nữa,
Vì Bắc, Trung nước lửa chưa ngưng;
Miền Nam e sợ họa Tần,
Lại còn nội loạn muôn phần gớm ghê.
Tranh mạnh yếu thảm thê thảm,
Giành địa điền u ám ám u;
Bây giờ chỉ có thật tu,
Thương nhau như một thì cù hóa long.
Hỡi đồng đạo để lòng xét nghiệm,
Rồi tự mình soi kiêm lẽ mầu;
Phận này dám gạt ai đâu,
Thừa ân Tiên Phật một câu khuyên đời,
Kẻ gần gũi nhiều ngày lờn lã,
Tưởng rằng mang xác giả như người;
Hay đâu tâm được chói ngời,
Để chờ có dịp cứu đời qua truông.
Nay vận bỉ chưa suông phải ẩn,
Đợi chờ ngày phong vận đến nơi;
Thuyền kia ắt phải tách rời.
Để mà rước khách khỏi nơi bến sầu.
Hỡi đồng đạo bây lâu tu tỉnh,
Được mấy ai nhập thánh siêu phàm;
Bởi vì cõi tục còn ham,
Tâm trần chẳng dứt chưa kham chứng thành.
Nay khuyên nhủ phải canh phải cửi,
Gạn ruộng lòng cho cỏ đừng sanh;
Nhứt tâm gieo hột giống lành,
Ắt là bông trái tốt xinh muôn vàn.
Dân bởi sợ tai nàn đưa lại,
Nên phải tu hoặc vái sớm chiều;
Nhược bằng mai khuyên luât điều,
Đời không tới ít kẻ theo đạo trường.
Vì sợ chết phải nương theo Phật,
Rồi thấy lâu bỏ vất không cần;
Dễ đâu khuất lấp mắt thần,
Thấy đời lợi dụng muôn phần xót đau.
Khuyên nhủ phải mau mau thành thật,
Nên tưởng rằng có Phật có Trời;
Ngày kia tận thế lập đời,
Có Long Hoa Hội cho người được xem.
Có rắn độc tràn lan cắn mổ,
Có tượng voi hùm hổ nuốt người;
Lại còn có sấu lội bơi,
Giựt giành ăn hại những người dối tu.
Lại còn có ám u âm khí,
Ngày Phiên Tần gây lấy thiên tai;
Lại còn bịnh hoạn khổ thay,
Trái ban ôn dịch ai ai cũng sầu.
Âm dương phải một bầu xáo trộn,
Để rồi phân căn bổn mới rành;
Ai ơi ! Khuyên hãy làm lành,
Đặng mà cứu rỗi gia đình một phen.
Thêm nữa khỏi ố hoen sử sách,
Được thơm tho khí phách anh hùng;
Lời đây khuyên đó chẳng cùng,
Bởi lòng tràn ngập thương trong mọi người.
Ví xác thịt của tôi đem xé,
Để chia ra mỗi phía mỗi manh;
Thì đâu đó được an lành,
Với lòng đây nguyện hy sinh chẳng cần.
Ngặc vì luật công bằng tạo hóa,
Tội ai làm nấy trả hẵn hòi;
Tình thương đây để mà coi,
Biết sao thế phút hóp hoi của trần.
Vậy đồng đạo có thân phải liệu,
Để đến đời bận bịu không rồi;
Bây giờ lớn nhỏ trau giồi,
Sớm trưa đi đứng nằm ngồi chớ quên.
Sau sẽ được lâu bền quốc độ,
Khỏi gặp ngày tai khổ lâm vào;
Hỡi này nhơn loại đồng bào,
Khổ này là khổ chung nhau một lần.
Để lập lại Thượng nguơn khắp chốn,
Đặng an cư toại hương đủ đầy;
Ngày nay lắm vạy ít ngay,
Kẻ giàu no ấm người nghèo đói đau
Ít kẻ biết chia nhau để sống,
Thế cho nên lắm chốn lịch chinh;
Vì đây mà sắc Thiên Đình,
Đổi đời lập lại công bình cho dân.
Khi lập lại cõi trần kỳ chót,
Phật Thánh Tiên nối xuất ra nhiều;
Tùy phương cứu độ sớm chiều,
Hoặc đem cơ bút hoặc điều thuốc thang.
Để được cảm tâm can chư chúng,
Rồi dắt người hành đúng chơn truyền;
Anh em hãy giữ lòng nguyền,
Tin rằng trên có Hoàng Thiên hiểu rành.
Kẻ bị hiếp với tình chẳng rúng,
Người được hơn ắt cũng phải kinh;
Ngoài ra còn luật công bình,
Không tư không vị chúng sanh rán chừa.
Đây khuyên đó đường tơ kẽ tóc,
Phải cần nên gìn chặt chớ rời;
Càng ngày càng khổ dân ơi !
Ấy do hệ của Phật Trời định ra.
Theo nhân quả người ta mới có,
Nên phải đành chịu khổ tứ phương;
Bây giờ tỉnh mộng hoàn lương,
Thì là sẽ được an khương thái bình.
Lời luận biện vì tình bác ái,
Tiếng nhắn nhe bởi lấy lòng thương;
Anh em không nại gió sương,
Để nghe lời lẽ bày tường Sĩ Thanh.
Thì phải rán tưởng tin chắc chắn,
Ngày gần đây sẽ đặng gặp Thầy;
Trong khi nhơn loại Đông Tây,
Thảy đều ngước mặt bó tay kêu trời.
Nói chỗ ấy mọi người nên nhớ,
Rồi khỏi e bỏ dơ đường tu;
Ngày nay rán vén ngút mù,
Để cho thần trí khỏi vào chỗ mê.
Thì sẽ được Long Huê trực đáo,
Rõ nhiệm mầu Phật đạo sau này;
Nhủ khuyên đồng đạo đến đây,
Giảng đà sắp hết lòng này chưa buông.
Vì chưa buông nên mới nói thêm,
Khiến cho sanh chúng nỗi niềm gắng ghi.
Trông thấy nhân sanh quá thiết tình,
Với lòng thương xót biết muôn nghìn.
Không đành dứt hẳn lời khuyên nhủ,
Sóc vọng từ đây tỏ mối manh.
15 tháng Giêng Quý Tỵ -Tức 28 tháng 2-1953.

  THÁNG HAI:
03- Ngày Rằm tại Tây An Cổ Tự: Tam Quy-Ngũ Giới

Ngày Rằm tại Tây An Cổ Tự: Tam Quy-Ngũ Giới

Thưa quý đồng đạo, 
Lần giảng này cũng như lần giảng rồi, đều được đồng đạo trưởng ấu tham thính đông đúc, khiến cho lòng tôi tràn ngập nỗi vui mừng và đau đớn. 

Tôi vui mừng vì được thấy việc đạo đức còn được nhiều người nhớ tưởng, song phải đau đớn vì sự vắng mặt của Đức Thầy hơi lâu, làm cho có nhiều trường hợp gay ngạnh xảy ra giữa khối tín đồ, làm thành duyên cớ cho kẻ ngoại đạo mỉa mai và một phần người thiếu đức tin đâm ra chán nản mà gần như không còn giữ lấy việc công phu trai giới theo thường lệ. 

Vì lẽ ấy tôi không ngại sự hiểu biết non kém của mình, đã nhiều lần đứng ra nhắc nhở đạo đức từ vùng này đến vùng khác trong khu vực Phật Giáo Hòa Hảo, để cho người đồng đạo sực nhớ lại lời phát nguyện, sự quy y của mình (trước Tam Bảo và Cửu Huyền) mà chữa trị cái lầm lạc, tội lỗi mà chính mình đã gây ra sau ngày Đức Thầy vắng mặt tới giờ, cho không còn tái phạm nữa. 

Thưa đồng đạo, 

Chúng ta đã đặt chơn vào cửa đạo, đã mang danh một “Tín Đồ Nhà Phật”, nhứt thiết về kinh luật của Phật, chúng ta phải học và trước tiên phải hiểu rõ Tam Quy Ngũ Giới, vì đó là một nấc thang đầu của sự hành đạo. 
Tôi xin lược giải Tam Quy Ngũ Giới như sau: 

Tam Quy: 
  1. Quy y Phật. 
  2. Quy y Pháp. 
  3. Quy y Tăng.
Đức Phật đã vì quá thương xót nhân loại chúng sanh còn bận trong cõi khổ, Nên từ trước đến nay, có vô số kiếp Ngài đã phải ra vào cõi Ta Bà này cứu vớt vô lượng chúng sanh khỏi biển trầm luân thống khổ. 

Không có một sự chánh đáng nào mà Phật Ngài không hành, không có một cái phương tiện nào mà Phật Ngài không dùng và không có một việc đau khổ nào mà Phật Ngài không chịu được, chỉ vì sự hóa độ chúng sanh vậy thôi. 

Cái đức độ Từ Bi của Phật thật không chỗ cùng tột. Ngài từng hy sinh mọi sự nhu cầu cần thiết có quan hệ đến tánh mạng của Ngài cho chúng sanh. Ngài tự phải nén lòng trốn xa cha già trong khi hiu quạnh; lìa bỏ con vợ đương độ thơ ngây; địa vị vua chúa đối với Ngài không màng; lầu son gác tía đối với Ngài không luyến, mà hết cả trân phẩm báu vật, mỹ nữ cung nga, mọi sự dục lạc thường tình đối với Ngài chẳng hề cảm nhiễm, chỉ quyết lòng đi tìm kiếm cho kỳ được chánh đạo nhiệm mầu, trước độ mình thoát khổ, sau cứu vớt chúng sanh khỏi nẻo sanh tử bệnh tật.

Quả nhiên, sau 6 năm tham thiền khổ hạnh Ngài chứng quả Như Lai. Từ đó Ngài trụ thế dạy dỗ chúng sanh suốt 49 năm trời, độ được vô số chúng sanh đắc đạo và Ngài cũng độ cho vua cha và vợ con của Ngài, với tất cả quyến thuộc thân thích đa số được thành tựu viên mãn. 

Tuy nhiên lòng từ bi của Phật Ngài chưa lấy làm thỏa mãn. Ngài nguyện cho đến khi nào không còn một chúng sanh chịu khổ nơi cõi Ta Bà thì Ngài mới vui nhập Niết bàn. Như vậy đủ tỏ cho chúng ta cảm thấy rằng Đức Phật không lúc nào bỏ quên chúng ta, mà vẫn thương yêu chúng ta như mẹ đối với con, hằng muốn chúng ta được an vui lâu dài, chớ chẳng hề muốn trông thấy chúng ta đau khổ. 

Đối với tâm đức cử chỉ của Phật như đã kể lược nơi trên, khiến cho lòng chúng ta không siết cảm động và kính phục mà thành tâm nương về nơi Đức Phật, trước nhờ sự cứu vớt của Ngài, sau soi lấy tấm gương đại từ bi, đại hùng lực đó, để trau giồi cho chúng ta trong một ngày gần đây hoàn toàn trở nên một người đầy đủ giác ngộ đạo lý, đáng được hầu hạ dưới chơn Đức Phật. 

Như thế gọi là Quy y Phật. 


Song chúng ta không chỉ nương về Đức Phật bằng cách kính phục hoặc làm theo một ít việc đại khái của Phật quá suông sẻ vậy được mà chúng ta phải gia tâm cứu xét Kinh nghĩa, Luật, Luận của Phật một cách tường tận, rồi tuần tự hành theo từ khoản một, cho hợp với trình độ hoàn cảnh của mình mới dẫn nhập đến chỗ cực tinh, cực diệu của đạo Phật được. Vì các giáo pháp đã có trong đạo Phật bấy lâu đó là do Đức Phật lúc tại tiền thuyết ra. 

Sau khi Ngài tịch rồi, các chư vị đại đệ tử của Ngài mới cũ hợp nhau lại mà biên lục thành tập gồm có 3 tạng: Kinh, Luật, Luận. Trong đó, Phật có phân tách rành rẽ từng việc một của cả vũ trụ vạn hữu cho các chúng sanh hiểu thấy đâu là nhân duyên hợp thành, đâu là nghiệp quả kết hiện một cách tỉ mỉ rõ rệt, để cho chúng sanh đầy đủ đức tin mà cả quyết được sự giải thoát của mình. 

Kinh pháp như là một ngọn đuốc, một cây thước, nó có sức làm ngay được vật, làm soi sáng được lối đi, kẻ tu hành không thể không lấy nó làm ni tấc được. Mà nhứt định phải có hơn nữa, chúng ta cung kính và nương về nơi Kinh Pháp, vì Kinh Pháp đó do Phật thuyết ra. 

 Như vậy gọi là Quy y Pháp. 


Đối với các vị tăng đã được Phật truyền phó y pháp hoặc đạo đức uyên thâm, tu hành chơn chánh, từng hy sanh cứu thế độ nhân, không quản đến sự khổ sở, chẳng núng trước cảnh sang trọng, hằng giữ gìn tinh nghiêm giới luật. 

Trong lúc chưa gặp Đức Phật chúng ta phải nương về các vị này, để trông nhờ sự dạy dỗ, không dám dãi đãi hoặc khinh lờn, vẫn một lòng chăm lấy sự đạo đức do các vị dạy cho mà làm theo. 

Cũng như trường hợp của chúng ta đối với Đức Thầy hiện giờ vậy. Tuy không có y pháp cụ chứng nhưng được Phật sắc truyền giao. 

Như vậy gọi là Quy y Tăng. 

Ngũ Giới: 
  1. Sát sanh, 
  2. Đạo tặc, 
  3. Tà dâm, 
  4. Vọng ngữ, 
  5. Ẩm tửu. 
Những khi rượt bắt con vật để làm thịt, ta sẽ thấy nó trốn chạy một cách thương hại. Nó sợ chết và muốn sống như ta, ta há nỡ lòng giết nó một cách vô cớ được ư? Trong khi ta chưa trì trai được, vì lẽ lúc này ta còn phải làm việc sóc vác theo khuôn khổ của đạo nhân nhiều hơn. Thành thử buộc ta dùng một ít cá thịt vừa với sự nhu cầu, để giúp cho sức khỏe của ta được có nhiều, để làm cho công việc khỏi bị chậm chạp vậy thôi. Chớ ta không vì lấy miếng ăn làm thú vị, rồi đây ta sẽ lần lượt từ chỗ tâm chay tiến đến thực chay một cách trọn vẹn, nếu trình độ và hoàn cảnh của ta cho phép ta đến đó.
 
Đối với loài vật cũng như loài người, lúc nào ta cũng phải xem xét cái tít tắc trong việc làm của ta, không để phải hại đến mạng sống của nó và ta không nuôi ý muốn giết, hoặc vui thấy, hay nghe cho kẻ khác giết nó một cách vô cớ, lại ta cũng không nên nuông chìu cái khẩu dục, sát hại loài vật một cách quá đáng hơn sự nhu cầu thường lệ của ta. 

Như vậy gọi là giới sát sanh. 


Phải làm lấy việc để cung vào sự sống, phải có sanh kế để nuôi vững xác thân. Song trước khi làm những việc này ta phải củ soát lại nhiều lần, thấy rằng chơn chánh rồi sẽ thi thiết sau. 

Giàu có Không được bê tha xa xí cho phải nghèo, cũng như người nghèo không được dựa vào chỗ thiếu hụt chẳng chịu nỗ lực làm ăn, lại sanh ra biển lận trộm cướp của người về nuôi sống cho mình mà quên rằng kẻ đã làm ra được của ấy họ đã đổ ra biết bao nhiêu mồ hôi công khó mới tạo ra. Nay ta lấy của họ ta sung sướng, họ đau khổ mà họ là đồng bào ta, không thì cũng là cũng loài người vẫn muốn sung sướng, sợ đau khổ và biết tiếc như ta, thì lẽ phải ta nên giúp họ nhiều hơn, chớ lòng ta đâu vui xài của họ bằng cách gian tặc như vậy được. 

Tóm lại bất luận sự vật nào nếu không phải của ta thì nhứt định không được lấy và ta cũng không xúi cho kẻ khác lấy, ví dầu thiếu món ấy mà phải chết đi nữa, thà là ta chịu chết chớ không đành làm việc phi nghĩa có hại cho đạo đức của ta và người khác. 

Như vậy gọi là giới đạo tặc. 


Sắc đẹp là món ưa thích nhứt của cả một thế giới loài người, trái lại nó cũng chẳng kém gì hầm lửa, biển sóng hay giết được người dễ dàng, kẻ tu hành phải tránh nó, đừng đợi nó tránh mình. Thắng được nó là một việc rất khó, song không phải là không thắng được mà hễ khi thắng được nó rồi sẽ nhẹ được nửa phần chướng ngại của sự tu học. Cho nên sắc đẹp đối với người tu hành nào cũng cần phải thắng phục được nó, đừng để nó sai khiến lại mình. Dù nam nữ cũng vậy đều phải chú trọng lẽ trinh chánh làm gốc, sẽ coi nó là việc quan hệ đến đời sống hiện hữu và tương lai của mình rất nhiều mà hết sức bảo vệ cho trong sạch. 

Kẻ thắng được sắc đẹp là hạnh phúc, bại vì sắc đẹp là khổ nhục vậy. Cả đến sự nằm, ngồi, đi, đứng, nghe, thấy, nghĩ tưởng có thể phạm tội dâm được, nếu trong lúc đó nơi mình có chỗ quấy mà điều này bề trái của nó rất dễ phạm tội dâm, vì nó không hình và rất hại cho trí tưởng phải mờ ám điên đảo. Cho nên luật đạo răn ta không nên ve vãn vợ con người, phải giữ sự trinh trắng cho ta và cho kẻ khác, để tránh khỏi cái nhân quả hỗn loạn của ngày mai, việc này dù phải nát thây cũng gắng làm cho được, mới đạt đến quả phẩm siêu việt của đạo Phật. 

Như vậy gọi là giới tà dâm. 


Cái lỗ miệng là một tai trong tam tai, việc nói láo là một tội ác trong 4 tội ác của lỗ miệng, chuyện có nói không chuyện không nói có, việc đủ cho rằng thiếu việc thiếu cho rằng đủ, đặt điều kiếm chuyện làm cho giữa người này với người khác hiểu lầm nhau. Giao kết hứa hẹn ngày kia đổi ra ngày nọ và trước tụng đình không biết bao nhiêu sự đôi chối lẫn nhau, đến nỗi phải thề thốt đủ lẽ... Giai do một phần lớn của sự nói láo mà ra. 

Lời nói của mình thường được kẻ khác tín nhiệm, danh giá của mình đã làm cho người kính nể mà chỉ vì một việc nói láo là cũng đủ làm hư hại hết cả, mà khi đã bị hư hại thì khó mà thâu hồi như cũ được. 

Cho nên kẻ ở trong đạo đã hiểu lấy cái vọng ngữ là một cái hại cho sự tin tưởng, sự thân ái, sự hòa nhứt giữa nhau và cũng là một cái nhân không chánh đáng cho mình mà lúc nào cũng nhắm vào sự thật để mà nói năng, hứa hẹn và tường thuật với kẻ khác. Tránh tất cả chuyện mơ hồ sai siển, dối mị trong việc nói, dù hạng nào cũng vẫn giữ như thế. 

Như vậy gọi là giới vọng ngữ. 


Kẻ thù của trí não là rượu. Nói nhây nhưa nhầm lẫn, thấy cháng váng, mù lòa thần tri, dễ bị hỗn loạn điên đảo là kết quả của bịnh rượu vậy. Rượu khiến cho người gây nên tội sát nhân, tội tà dâm, tội phạm thượng, tội cướp bóc và tội hay đánh vợ mắng con, gây ó chửi rủa kẻ hàng xóm và đến phải nằm bờ ngã buội, la liệt đầu đường xó chợ, không còn biết nhục nhã xấu xa. 

Rượu dẫn người tới chỗ tù tội xấu hổ khôn cùng, kẻ tu hành đạo đức phải cự tuyệt nó không hề dùng đến một giọt nhỏ (chỉ trừ khi bịnh do lương y dạy cho mới được dùng, khi khỏi bịnh rồi thôi) để bảo vệ trí não được bình dị sáng suốt hầu tránh được mọi sự thấy biết sai lầm có tai hại cho mình và cho kẻ khác. 

Tóm tắt, rượu là một thứ có tánh nóng cực đoan, nó hay làm hư hại trí óc của ta, dễ dắt ta đến chỗ tội ác tình tệ và cũng làm trở ngại đức hạnh của ta chẳng nhỏ, nên ta tự quyết không uống rượu và cũng không bao giờ ước ao nghĩ tưởng đến nó nữa. 

Như vậy gọi là giới ẩm tửu.

 
Tóm lược, Tam quy Ngũ giới dạy cho ta phải nương về Đức Phật, chăm học pháp giáo của Phật và hướng theo các vị tăng sư chơn chánh để mà tu tập. Ngoài ra ta phải tránh hẳn sự giết chóc, trộm cướp, dâm loàn, láo khoét, chè rượu, đổi lại lòng nhân ái, bố thí, lễ độ, chân thật, sáng suốt và bồi dưỡng cội nguồn phước huệ cho ngày càng được phổ cập rộng ra khắp cả mọi người, thì sẽ nắm lấy được cái diệu quả nơi cõi chí thiện được. 

Thưa quý đồng đạo, Còn có cái phúc nào hơn được cái phúc chúng ta sắp chết trong cõi Hạ nguơn mà được Đức Thầy ra tay cứu vớt. 

Tuy trót 7 năm trường Đức Thầy vắng mặt, song không phải là tuyệt vọng mà là có một ngày gần đây Đức Thầy sẽ trở về. Và hiện giờ Sám Giảng vẫn còn sờ sờ tại nhà của mỗi chúng ta, ấy là phương dược rất mầu, để cứu sống chúng ta đến ngày kết cuộc. Chúng ta không để cho vật chất lôi cuốn, tiền bạc cám dỗ, sắc đẹp mê hoặc, hay một sức mạnh của danh vị nào trên đời này quyến rũ lòng chúng ta được. 

Chúng ta phải khắc phục được mọi lẽ ấy bằng cách tự giác lẽ “Dinh Hư Tiêu Trưởng” của trường đời một cách hẵn hòi, để tiến đến chỗ cao siêu của đạo đức. 

Có thế, chúng ta mới tránh được sự hối tiếc của ngày mai, vì tội lỗi mà hái lấy cái quả rất thê thảm dở dang cho đời mình.
04- Hồi 10 giờ 50 tại Tây An Cổ Tự: Nhân ngày Vía

04- Hồi 10 giờ 50 tại Tây An Cổ Tự: Nhân ngày Vía

Phật Thích Ca nhập Niết bàn
Tháng Hai thường lệ đến ngày Rằm,
Vía Phật Thích Ca nhập Niết bàn.
Nam nữ đồng tâm lai Cổ Tự,
Nguyện cầu thế giới sớm bình an.
Nhắc tới đạo khiến lòng chua xót,
Tiếc sanh linh từ giọt máu đào.
Muốn cho không bị mòn hao,
Nhưng ôi ! dòng máu cứ trào chưa ngưng.
Đêm ngồi nhớ rưng rưng nước mắt,
Ngày nghĩ ra ruột thắt gan bào.
Muốn cho đồng đạo cùng nhau,
Dưới trên đều được giồi trau tâm hiền.
Nhưng lắm kẻ tham tiền tham bạc,
Chẳng kể chi sống thác đồng bào.
Đến đây khuyên nhủ cùng nhau,
Từ nay xin hãy nêu cao tấc lòng.
Hãy tu tỉnh sạch trong chơn chánh,
Nên giồi mài tâm tánh thẳng ngay.
Cuộc đời dời dạt đổi thay,
Tuồng đời càng siết tới hoài không thôi.
E cho kẻ bạc vôi rồng rắn,
Khó mong gì sống đặng đến cùng.
Tuy là nay quá hào hùng,
Luật trời khi đến vẫy vùng khó thay.
Cất tiếng gọi gái trai đồng đạo,
Tưởng Đức Thầy trí não giồi mài.
Đường xa chớ lạc đừng phai,
Gánh gồng dầu mỏi chớ lay tấm lòng.
Phải gắng chí mới hòng thấy đạo,
Nên thiệt tình mới rõ báu năm non.
Phải gìn trọn nghĩa tôi con,
Dầu rằng lao lý chớ mòn chớ lơi.
Cuộc thay đổi cùng nơi khắp chốn,
Đâu cũng đều hỗn độn như mình.
Ngày kia nhờ có Ngọc Đình,
Ra tay mầu nhiệm để bình nhân gian.
Nay khuyên chớ sầu than lắm nỗi,
Phải thiệt hành giềng mối kệ kinh.
Mặc dầu lao lý đến mình,
Khuyên nên giữ lấy bạch trinh tấc lòng.
Tu thời phải có công có đức,
Cả hai điều gắng sức mà làm.
Tam quy ngũ giới phải kham,
Ba giềng năm mối rán làm chớ quên.
Mong đồng đạo được nên Tiên Phật,
Đến ngày cùng rõ biết cơ huyền.
Nay còn chờ cuộc biến thiên,
Để xem nhơn loại ngửa nghiêng thế nào.
Tài của chúng hùng hào cho mấy,
Dối có Trời xét thấy dễ không.
Ngày kia nhơn loại đại đồng,
Tưởng chừng như thể ở trong lửa lò.
Họa ấy thật rất to bớ chúng,
Cần trau giồi ắt cũng tránh xa.
Hỡi này đồng đạo trẻ già,
Sự đời càng mãi diễn ra tai nàn.
Bởi nhơn loại tham gian thái quá,
Mãi giành nhau cơm cá giết nhau.
Đến chừng nhơn loại đồng bào,
Thảy đều thương mến cùng nhau một nhà.
Vậy mới khỏi can qua khói lửa,
Được tránh ngày nghiêng ngửa đao binh.
Nay còn xao xiến chơn tình,
Kẻ hiền người dữ muôn nghìn lao lung.
Hỡi đồng đạo thủy chung như nhứt,
Để trau giồi đạo đức vẹn tròn.
Dầu cho biển cạn núi mòn,
Với lòng mình vẫn sắt son một màu.
Vậy mới được đạo cao đức cả,
Vậy mới rằng vị quả thơm tho.
Bây giờ hãy rán lần dò,
Tìm qua cho được chuyến đò từ bi.
Đời lao khổ bởi khi tận diệt,
Đạo lu mờ vì mất thiện căn.
Lắm người buổi trước xung xăng,
Sau rồi lảng trí không bằng khi xưa.
Nay đồng đạo sớm chưa gắng gổ,
Nên thành lòng Phật Độ chẳng xa.
Cuộc đời nhiều nỗi thiết tha,
Với lòng phải rán hiền hòa bớ dân !
Thương nhau phải lăm lần khuyên dứt,
Muốn cho nhau cùng bực sau này.
Cũng đồng gặp Phật gặp Thầy,
Cũng đồng dự hội Rồng mây non đài.
Đâu nỡ để nhơn loài thống khổ,
Há đành vui những chỗ điêu linh.
Nên đây khuyên nhủ tận tình,
Anh em đồng đạo rán gìn chớ buông.
Khuyên gắn chí qua truông vượt ải,
Để gặp kỳ Tướng bái Đàn đăng.
Tuy là tình trạng khó khăn,
Ơn Trên cũng đã bủa giăng lưới mầu.
Tội với phước hai đầu định rõ,
Dữ hay lành đã có phân minh.
Chỉ còn chờ sắc Ngọc Đình,
Ra oai thì mới được bình thế gian.
Nay khắp xóm cùng làng dưới thế,
Có Phật Tiên bày kế đã rồi.
Thuốc men hoặc giúp bằng lời,
Gọi kêu chư chúng biết đời Hạ nguơn.
Kẻ hữu chí xác thân chẳng kể,
Quyết trau giồi kinh kệ được tròn.
Dầu cho ốm yếu gầy mòn,
Dầu cho tai nạn lòng son một màu.
Kẻ ngu dại được trau tâm tánh,
Đến ngày kia nhập thánh siêu phàm.
Nhưng người quỉ quyệt khôn ngoan,
Ỷ mình tài cán chẳng toan tu trì.
Sau trở lại ngu si dại dột,
Lại còn e chẳng được sống còn.
Cuộc đời nhiều nỗi thon von,
Anh em đồng đạo rán bòn phước duyên.
Tu cho rạng con Tiên cháu Phật,
Tu cho thêm non nước rỡ màu.
Một phen nước mạnh dân giàu,
Cũng nhờ trên có Thiên Tào giúp tay.
Muốn cả thảy ai ai cũng được,
Nhờ ơn trên ban phước ít nhiều.
Ngày nay giữ lấy qui điều,
Gia công lạy lục sớm chiều chớ quên.
Tu phải được vững bền tâm chí,
Ngọc mài lâu ngọc ấy mới tinh.
Mặc dầu hiền hậu lấy mình,
Không làm việc phước chơn tình cũng lu.
Khuyên người hay cần tu cho chóng,
Bởi cuộc đời đã mỏng lắm rồi.
Đời ơi ! kia hỡi đời ơi,
Vì đâu mà phải có lời dạy khuyên.
Bởi muốn kẻ thoát miền lao khổ,
Bởi cuộc đời sắp đổ cũng gần.
Muốn sao cho được toàn thân,
Muốn sao cho khỏi chịu phần nát tan.
Nên đây phải kêu vang từ chập,
Muốn cho người tu tập tháng ngày.
Từ đây đồng đạo gái trai,
Những ngày sóc vọng vãng lai chùa này.
Để nghe giảng nhớ Thầy nhớ đạo,
Để trau giồi ngay thảo ý mình.
Bởi vì thế cuộc linh đình,
Nay vầy mai khác chưa bình chưa yên.
Sợ đồng đạo vì tiền vì bạc,
Để lương tâm phai lạc lu mờ.
Nên đây phải dụng kệ cơ,
Khuyên người gắn bó hằng giờ chớ phai.
Hỡi đồng đạo gái trai già trẻ,
Đi đến đây lặng lẽ để nghe.
Nghe rồi khuyên hãy e dè,
Tránh điều tội ác mới là thiệt tu.
Nay cuộc thế dân đâu cũng loạn,
Nhờ Phật Trời Ngài rán chở che.
Để cho dân chúng khỏi mê,
Lại còn được chóng quay về Bồng Lai.
Đến đó mới an cư bình thản,
Khỏi vướng điều tai nạn hải hùng.
Đạo đồng khuyên hay giữ lòng,
Đừng cho ma quỉ đèo bồng nhiểu nhương.
Tâm với trí thường thường mài miệt,
Đức cùng ân cần thiết lo làm.
Một khi đạo lý gìn kham,
Thiên cơ sẽ rõ Bắc Nam sẽ tường.
Muốn cho kẻ hiền lương chơn chất,
Ấy là điều chưa Phật mong chờ.
Đạo đồng khuyên chớ ngẩn ngơ,
Có ngày sẽ được hết mờ hết lu.
Nay phải rán cần âu việc phải,
Nên lo làm chớ nại nhọc nhằn.
Như xưa Tam Tạng Đường Tăng,
Gian lao biết mấy mới thăng Phật Đài.
Tu sung sướng khó thay cho thế,
Tu nhọc nhằn Ngọc Bệ mới gần.
Nay chưa đến việc họa Tần,
Mà trong bá tánh lui lần chữ tu.
Khuyên hãy rán vọng cầu trên trước,
Sớm mau đem việc phước rải ban.
Khiên người mình thịt hóa vang,
Chống nơi tà mị mới an bớ trần.
Lời khuyên nhủ đạo đồng vưng chi,
Từ nay đây đạo lý giồi mài.
Ngày kia mới đặng gặp Thầy,
Lại còn chứng quả non đài xuê xang.
Nay tề tựu Tây An Cổ Tự,
Cùng nhau nghe từ chữ từ câu.
Ra về hãy để nhớ lâu,
Đặng ma trau trỉa đạo mầu nơi tâm.
Mong cho kẻ ngọc lâm bước tới,
Muốn sao người đại hội được gần.
Nay đây mài miệt tâm thần,
Khuyên đừng uể oải bớ dân thời này.
Như Đức Phật, Đức Thầy xuống thế,
Bởi thương đời bê trễ đường tu.
Sợ ngày tiêu diệt ám u,
Mới đem đạo lý vân du phổ truyền.
Hỡi đồng đạo não phiền hay dứt,
Điều tham sân nên diệt cho cần.
Ngày kia mới được an thân,
Là ngày gặp Phật gặp Thần vui tươi.
Lời khuyên nhủ mọi người gắn bó,
Tiếng giảng khuyên cho đó vui lòng.
Đến đây chào hết đạo đồng,
Giảng cơ đã dứt thong dong ra về.
15 tháng 2 Quý Tỵ -Tức ngày 20 tháng 3-1953.
05- Ngày 30 hồi 10 giờ 55 tại Tây An Cổ Tự: Tam Độc

Ngày 30 hồi 10 giờ 55 tại Tây An Cổ Tự

Hỡi đồng đạo,
Nay ngày 30 tháng 2 năm Quý Tỵ, lần giảng này là kỳ thứ ba của phiên giảng thường lệ ở tại ngôi Tây An Cổ Tự.
Muốn đem lại cái kết quả chắc chắn của người hành đạo trong nền đạo Phật Giáo Hòa Hảo, tôi không ngần ngại đem ra bàn giải cùng các chư đồng đạo. Có 3 điều độc hại trở ngại cho sự đạo đức của chúng ta như sau:

1- Độc Tham Lam:
Tại sao gọi tham lam là độc? 
Đối với cái lợi nó hay làm mờ ám đôi mắt của người, khiến cho cho nước lớn xâm chiếm nước nhỏ, khối mạnh lấn hiếp khối yếu, giàu sang bức sách nghèo hèn và cá nhân này mưu hại cá nhân nọ, gây ra nhiều cuộc nồi da xáo thịt, chém giết ghê tởm, đều chỉ vì muốn tham lấy cái lợi cho mình mà tạo thành sự tranh đấu khốc liệt, để phải tội lỗi tàn ác cho người và cho mình điêu linh khổ sở.

Rốt lại nó cũng không đưa mình đến chỗ vinh diệu trường cửu mà chỉ thường đem lại cho mình một cái chết vô nghĩa.
Cho nên gọi cái tham lam đó là độc.

2- Độc Sân Hận:
Tại sao gọi sân hận là độc?
Đối với vua tôi hốt nhiên lỗi trung, đối với cha mẹ hốt nhiên lỗi hiếu, đối với vợ chồng hốt nhiên lỗi nghĩa, đối với anh em hốt nhiên lỗi hòa, đối với bậu bạn hốt nhiên lỗi tín, dễ gai mắt dễ trái tai, dễ nói ra những lời cắt đứt sự thân yêu cung kính và dẫn đến sự thoi đánh, chém giết, chửi rủa, đưa thân ra tụng đình, dẫn mình đến chỗ tù tội, cuộc sanh hoạt dễ bị hư hỏng tan nát, con người mau cằn cỗi bịnh tât, không đem lại cho ta cái khoan nhã thư thái nào, lại thường làm cho ta phải cuồng táo khổ nhục. Các điều này chỉ do lòng sân hận gây ra.

Cho nên gọi cái sân hận đó là độc.

3- Độc Mê Si:
Tại sao gọi mê si là độc?
Những cái phải cho là quấy, cái quấy cho là phải, những cái chánh cho là tà, cái tà cho là chánh, những
cái thật cho là hư, cái hư cho là thật, điều lành việc dữ luôn luôn hiểu ngược lại, làm cho sai siển chơn lý, gieo ra nghiệp nhân đen tối từ một người này đến một người khác, chằn chịt, chồng chéo lẫn nhau để phải buộc vào cái bánh xe luân hồi sanh tử trong cõi Ta Bà mà mỗi chúng sanh từ khi vô thỉ đến nay, đã gấp mấy lần muôn triệu kiếp mà chưa thoát thân ra được. Trái lại càng ngày càng thêm siết buộc cho mình vào đường tội lỗi mà tựa hồ như ngây như ngất, chưa nhận ra đâu là sanh tử đâu là Niết bàn, để mãi chịu thời gian giết mòn, vô thường vật ngã, xương thịt chồng như núi Thái sơn, huyết lưu đỏ như biển đại dương, nước mắt chảy dầm dề hơn suối thác, mọi việc ấy toàn là ở trong cái luyến ái, cái dục lạc mà nguồn gốc của nó sanh chỗ mê si.

Thế nên gọi cái mê si ấy là độc.

Tham, sân, si ba điều này độc hại như thuốc độc, như rừng lửa, như lượn sóng to nó hay làm chìm hay
đốt rụi và hay giết chết cội phước sinh mạng trí huệ của ta. Chúng ta không nên dung túng nó một cách
cẩu thả, cần phải tìm cách để đối trị: Thay gì cái tham lam đổi lại cái bố thí, cái sân hận đổi lại cái nhẫn nhục, cái mê si đổi lại cái trí huệ, thì cái tham lam, sân nộ, mê si không còn nữa.

Thưa đồng đạo,

Con người của chúng ta chẳng may sanh nhằm cái đời chiến tranh hỗn loạn, quanh mình đầy dẫy những
gai gốc tàn ác, hầm hố tội lỗi. Tuy nhiên còn được chút duyên lành mới gặp Đức Thầy ra đời, nhủ lòng từ bi dạy dỗ chúng ta được biết sự nhân quả luân hồi mà gắng sức tu hành làm lành lánh dữ. Để trước độ rỗi tổ tiên, cha mẹ được siêu thăng, sanh linh dân tộc khỏi đồ thán và sau đó cũng là một phương nhiệm cứu lấy chúng ta khỏi nỗi oan khiên, xa nơi bể khổ.

Nếu chúng ta không nhận lấy cái cơ hội này để tu hành, thì một ngày kia nó đã qua rồi không sao tìm
được, ngày ấy là ngày chúng ta rất hối tiếc, nhưng đã muộn.

Vậy đồng đạo cũng như tôi khó thể bỏ qua. Mỗi người phải tự trau lấy đức hạnh của mình, hầu đưa
mình đến ngày thành đạt đạo quả:

Rèn lòng thương hết sanh linh,
Học theo gương Phật quên mình cứu dân.
Quản chi gầy ốm xác thân,
Miễn cho đạo lý bủa gần đến xa.
Khiến cho trên thuận dưới hòa,
Cùng trau lấy một sắc dà đấy thôi.
Gác qua tất cả việc tồi,
Để làm dân sự đứng ngồi được an.
Nay đành cất một lời than,
Than đời không chúa như thoàn chạy khơi.
Biết đâu góc biển chân trời,
Trong cơn tấn thối giữa vời lưỡng nan.
Lại là cùng phải thở than,
Lúc này Thầy lại xa ngàn ở đâu.
Trong cơn gió thảm mưa sầu,
Lắm điều khổ nạn một bầu chịu chung.
Từ đây thế cuộc hãi hùng,
Cầu trên Chư Phật nhủ lòng cứu dân.
Đức Thầy mau sớm trở chân,
Dắt dìu bổn đạo thoát lần nạn tai.
Hỡi này đồng đạo gái trai,
Từ đây phải rán miệt mài chữ tu.
Vì thân lao lý mặc dù,
Với lòng cũng vẫn sự tu vuông tròn.
Tu cho rạng vẻ nước non,
Tu cho nhơn loại sống còn mai sau.
Tu cho khắp cả đồng bào,
Thảy đều hưởng lấy sắc màu thơm tho.
Nay đây người phải rán lo,
Cuộc đời còn lắm gay go chưa ngừng.
Sợ e nhiều cuộc dửng dưng,
Hết Phiên rồi kế họa Tần đảo điên,
Lại còn giặc dậy ngoài biên,
Ở trong nội địa ngửa nghiêng vô cùng.
Ấy là tai họa trần trung,
Ngày giờ tận diệt khó hòng tránh xa.
Mỏi mong đồng đạo trẻ già,
Từ đây rán niệm Di Đà chớ quên.
Đức Thầy vẫn ở một bên,
Vô hình hữu ảnh người hiền chớ ly.
Nếu mình lòng tưởng từ bi
Ắt là sẽ được hưởng thì nhiệm sâu.
Khuyên nhau trau trỉa đạo mầu,
Từ đây phải rán khẩn cầu thêm lên.
Phải cần hòa thuận dưới trên.
Từ Nam chí Bắc hãy bền tâm tu.
Đừng cho đạo lý mờ lu,
Phải cần gìn vẹn một câu tín thành.
Không nên úy tử tham sanh
Phải cần liều chết giữ tình hiền lương.
Mặc dầu gai gốc bốn phương,
Với tâm hiền Đức Phật đường cứu cho.
Cảnh tình thiệt quá đắn đo,
Nhưng mà chơn chánh khỏi lo nạn nghèo.
Mong sao qua ải leo đèo,
Mỗi người được thoát hùm beo khỏi nàn.
Để cùng chầu đức Minh Hoàng,
Để cùng gặp hội Nhà Bàng thử nao.
Sự tư thì phải gian lao,
Gian lao mới được quả cao bớ người !
Mặc ai nói nói cười cười,
Phận mình cứ giữ cho đời thanh cao.
Dẫu rằng bão táp ồ ào,
Tâm kia bình tịnh được vào cõi Tiên.
Khỏi đeo các cuộc trần duyên,
Không còn luân chuyển nơi miền phàm gian.
Ơn trên chư Phật giáo troàn,
Bởi vì thấy chúng mê mang giấc sầu.
Sợ cho đến cuộc đáo đầu,
Vì gây tội ác khó hầu tồn sanh.
Nên chi đem mối đạo lành,
Giảng cho tất cả nhơn sanh nghe tường.
Nghe rồi đạm bạc rau tương,
Tu hành hai chữ hiền lương ân cần.
Lại làm tròn việc Tứ Ân,
Tránh xa Thập Ác mới gần Phật Tiên.
Cuộc đời còn lắm đảo điên,
Sợ e thế giới ngửa nghiêng tan tành.
Việt Nam dân quốc rối đoanh,
Xiết bao khốn khổ dữ lành chịu chung.
Nhưng mà đến cuộc hãi hùng,
Hiền còn dữ mất lẽ trong luật Trời.
Khuyên ai hãy nhớ từ lời,
Ra về cũng rán gìn nơi chơn thành.
Nhớ rằng tu phải thiệt hành,
Ăn chay thì phải làm lành mới chay.
Niệm Phật thì phải làm ngay,
Mới là theo kịp với Ngài Phật Tiên.
Xưa kia các đấng thiêng liêng,
Cũng là chịu khổ vô biên đấy rồi.
Mới là được có vị ngôi,
Mới là siêu xuất hơn người trần gian.
Bây giờ thế giới nghinh ngang.
Dựa vào vật chất mà toan phế Trời.
Chừng khi tai nạn đến nơi,
Sức mình đã kiệt mới lời vái van.
Chừng ni thì rất muộn màng.
Phật Trời đâu cứu bạo tàn bớ dân !
Nhủ khuyên đồng đạo xa gần,
Bởi vì nay cái xác trần chưa yên.
Mãi còn đeo cái bịnh phiền,
Cho nên không thể giảng khuyên được nhiều.
Đến đây chỉ có mấy điều,
Chúc cầu đồng đạo được nhiều phước duyên.
Lời giảng đến đây đã dứt rồi,
Đạo đồng lớn nhỏ đứng hay ngồi.
Thung dung cất bước ra về nghỉ,
Kỳ tới sang nghe chớ thả trôi.

Dứt hồi 11 giờ 10 phút, 30 tháng 2 Quý Tỵ (tức 13 tháng 4-1953).

  THÁNG BA:
06- Ngày Rằm, hồi 11 giờ 5 phút tại Tây An Cổ Tự: Thân Ngũ Uẩn

Ngày Rằm, hồi 11 giờ 5 phút tại Tây An Cổ Tự: Thân Ngũ Uẩn – Thơ: Văng Đức Thầy

Thưa quý đồng đạo,
Lòng tôi lấy làm hoan hỷ và cảm động mà nhận thấy 3 kỳ giảng qua rồi cho đến kỳ giảng này, anh em đồng đạo càng lúc càng đến nghe đông đảo. Cái hoan hỷ của tôi là vì tôi tin có một ngày gần đây nền Phật giáo sẽ chấn hưng lại được. Cái cảm động của tôi là vì tôi được thấy giờ phút đen tối này mà lòng tin tưởng, sự cố gắng đạo đức của đồng đạo còn nhiều.

Thưa quý đồng đạo,
Hôm nay tôi xin giảng về cái “Thân Ngũ Uẩn” giả hợp quá ư dơ bẩn và cam chịu mọi nỗi đau khổ vô tận của con người.
Người đời thường cho xác thân là tốt đẹp sạch sẽ, nếu tô điểm chuốt gọt nước thơm xà phòng vào thì lại
càng tự đắc, cho cái tốt đẹp cái sạch sẽ đó được tăng thêm gấp bội. Thế rồi cứ tha hồ mà vui sướng theo mọi hình ảnh do các thị dục biến hóa ra.
Song họ quên rằng cái xác thân nó bọc ngoài một lớp da mịn màng hào nháng, chỉ được tạm gọi là đẹp đẽ, Chớ kỳ thật, bên trong của nó chứa đầy một bộng to tướng nào là: Gan, ruột, phổi, phèo, tim, cật, xương, mỡ, máu, thịt và cứt đái...v. v... Rất đỗi dơ bẩn, còn bên ngoài của xác thân thì có chín lỗ như: Hai lỗ con mắt thì có ghèn cháo, hai lỗ tai thì có cứt rái, hai lỗ mũi thì có nước mũi, một cái lỗ miệng thì có đờm đạnh, hai lỗ đại tiểu thì có nước phẩn và nước tiểu. Mỗi ngày nó thường rịn chảy những mùi chất hết sức thúi hôi, không khác gì cái cầu tiêu. Cái bọc đồ dơ dáy mà lúc nào con người cũng phải mang đai theo mình một cách nặng nề bẩn thỉu. Dầu cho bậc vua chúa cũng phải như vậy, chớ không tài nào tránh khỏi được.
Như thế mà bảo cho xác thân tốt đẹp sạch sẽ được ư?
Thương ôi ! bởi chúng sanh không nhận ra được sự dơ bẩn của xác thân, nên phải đem hết cả tâm thần
sức lực của mình bổ vào sự đòi hỏi trau chuốt của thân xác thái quá. Rốt lại cũng chỉ đeo lấy cho mình mọi nỗi đau khổ, do lòng ham muốn ích kỷ không được thỏa mãn là cùng, Cái đau khổ của con người có thể kể ra một vài điều trong cả ngàn muôn điều đau khổ như sau, để cho chúng ta xét nghiệm như:

1- Hồi còn trong bụng mẹ thì cái thân này chẳng khác nào bị giam cầm trong ngục tối, ngồi chồm hỗm trên đồ ăn của mẹ vừa ăn tiêu, đỡ đội đồ ăn của mẹ vừa mới ăn vào, cái đi đứng nằm ngồi của người mẹ cũng đều dễ khiến cho đứa con phải giựt mình khiếp sợ cả. Đến ngày lâm bồn của mẹ, thân đứa con phải trải qua một cơn hoảng hốt, rồi mới chen ra khỏi thân mình của người mẹ được, chẳng khác nào một con tượng lớn mà phải chen qua kẹt đá nhỏ hẹp vậy. Mà thôi đâu, sau đó cái thân đứa trẻ còn phải chịu một hồi tắm rửa của bà hộ sanh gần muốn đứt ruột, vì da thịt còn non bị xối nước vào, quá ư đau rát.
Đó la cái đau khổ thứ nhứt.

2
- Từ đó cái thân mới dần dần lớn lên cả tâm hồn lẫn xác thịt, đều bị sự chi phối sự hấp dẫn của cảnh đời:
Nào là phải nỗ lực tranh đấu cho có danh vị lớn lao, có hầu thiếp đẹp đẽ, có nhà cửa đồ sộ, có xe tàu lộng lẫy, có tiền của dồi dào, có đất đai mênh mông, có thế lực mạnh mẽ, có vậy kiếng đông đảo và có cả mọi sự thỏa thích của nhục dục. v. v... Cái muốn này khiến cho con người quên mất cái nặng nhọc, cái luồn lụy mà không được như ý nguyện, hoặc được rồi lại mất đi khiến cho lòng đâm ra phiền não.
Đó là cái đau khổ thứ hai.

3- Những người thân yêu của mình, bình thường gần gũi quyến luyến như: Cha mẹ, vợ con, quyến thuộc chẳng hạn, rủi phải chết mất đi, xa cách đi, hoặc bất ngờ mà phải lạc loài thì khiến cho lòng phải nhớ thương trông ngóng, ăn không ngon ngủ không yên, tâm não thồi thộp bối rối. Nước mắt rơi chứa thành sông, mồ hôi đổ như nước xối, kẻ khóc đứng người than ngồi, thân người trở nên võ vàng tiều tụy, có nhiều khi muốn chết theo, hoặc đi theo mà không làm sao được, lại có khi phải điên cuồng xé quần, xé áo, ca hát nghêu ngao giữa chợ ngoài đường không còn biết gì là xấu hổ.
Đó là cái đau khổ thứ ba.

4
- Những kẻ thù ghét nhờm nhụa của mình, lòng mình không muốn gặp gỡ ưa thích mà trái lại phải gặp
gỡ đối phó, hoặc giả vì hoàn cảnh bắt buộc cho mình phải luồn lụy những việc mà ý mình không muốn.
Đó là cái đau khổ thứ tư.

5
- Các việc ở trong người của mình như sung sướng quá, cực nhọc quá, thương yêu quá, ghét sợ quá, đói quá, ngủ quá, thức quá, mập quá, ốm quá. v.v...
Mất sự thăng bằng trong người trở lại khó chịu.
Đó là cái đau khổ thứ năm.

6
- Ngày tháng trôi qua giết mòn cái son trẻ, cái khỏe mạnh của con người đi, để đến một tuổi già thân hình xấu xí, da dùn như vỏ ổi, đầu bạc tựa gối sương, mắt thấy không đặng xa, tai nghe không đặng tỏ, gối mỏi lưng cong, đi đứng chậm chạp, nói năng hiểu biết lầm lẫn nhiều điều mà cũng phải gượng ăn uống, gượng thuốc men để cầu thêm sự sống.
Đó là cái đau khổ thứ sáu.

7
- Có thân, lẽ phải cam chịu bốn mùa nóng lạnh, hai khi nắng mưa thì tránh sao cho khỏi cái bịnh, hơn nữa thân con người rất dễ gây bịnh, nếu sau một cơn mưa nắng quá sức cầm cự của xác thân, hoặc ăn uống hoặc thức ngủ không giờ giấc. v.v... Cũng có thể sanh bịnh được.
Đến khi trong người có bịnh chẳng luận nặng nhẹ đều thấy khó chịu, song nếu bịnh nhẹ thì bịnh nhân chỉ lo sơ sài thôi. Trái lại, bịnh nặng thì bịnh nhân chợt nhớ đến cái chết mà phải lo lắng chạy chữa đủ phương, để cầu lấy cái mạnh, cái lo chạy này không nhứt định vào hạng nào mà hết thảy giàu nghèo, chi đến kẻ dư trăm tuổi cũng vẫn lo chạy như đứa nhỏ một tháng. Bịnh nhơn đành phải lo sợ cho tính mạng của mình nhiều hơn. Trái lại các người ở chung quanh bịnh nhơn, với sự lo sợ ấy cũng không kém, kẻ nằm trơ thim thíp, người ngồi ngó lom lom, đôi đàng ăn không ngon ngủ không yên, thầy bà chạy vạy thuốc men lu bù, chỉ cầu cứu cho bịnh nhân được mạnh. Thật không còn cái khổ cái nghèo nào hơn cái bịnh.
Đó là cái khổ thứ bảy.


8
- Đứng sau cái bịnh là cái chết, cái chết này nó chẳng hẹn già, nó cũng không hẹn ngày, nó nhắm lúc
nào nó có thể đến được thì đến, chớ không nể sợ một ai cả. Còn chi đau khổ hơn cái chết, lúc gần chết,
nghĩa là trong cơn hấp hối, thì trong người bức ngặt vô cùng, hơi thở cái ngắn cái dài, chết từ lóng xương, đứt từ đoạn ruột vì tiếng kêu than của kẻ thân yêu đang đứng xoay quanh, kẻ sắp chết lòng muốn được sống và cố gượng lấy hơi thở để được sống mà không sao sống được, thì những sự luyến tiếc thương yêu vợ con, nhà cửa, danh vị, của tiền đó rất là bực tức đau khổ mà ôm theo cái hơi thở cuối cùng, kế nghe lên tiếng ghê rợn thê thảm ấy là thân nhân của kẻ bất hạnh kêu má kêu cha. v.v...
Đó là cái đau khổ thứ tám.

Bao nhiêu sự nghiệp vĩ đại trong cái khôn ngoan, bao nhiêu cơ đồ vương bá trong cái mạnh bạo, cũng như bao nhiêu cái sanh hoạt đơn giản, cái đời sống thanh đạm của con người bất hạnh ấy đến đây không còn nữa, nó chỉ lưu lại trong sử sách, hay ngoài cửa miệng của người đời những lời bình phẩm tốt xấu mà tỏ ra kính trọng hoặc khinh chê vậy thôi.

Thưa đồng đạo,
Cũng vì bao nhiêu nỗi đau khổ này, mà Đức Thầy của chúng ta đành phải buộc lòng xa cha già mẹ yếu,
lìa chị lớn em khờ, đi đó đi đây kêu gọi dạy bảo cho chúng ta sớm biết quay đầu về đường đạo đức. Vì cái đạo đức ấy mới có đủ năng lực cứu thoát chúng ta khỏi được mọi nỗi khổ đau. Tại sao? Vì cái đau khổ này giai do ở cái nghiệp tạo quá khứ và cái nhân duyên đương đời của chúng ta mà có, song cái nghiệp nhân ấy kỳ thật do ta kiến, cái vị ngã nó kết thành mà kẻ tiêu diệt được nó chính là ta.

Gia dĩ, cõi Hạ nguơn này chẳng khác nào đợt sương trên ngọn cỏ, chỉ mành treo chuông to, chuông kia sẽ rớt, sương nọ phải tan, vì không chịu nổi cái sức nặng, cái ánh sáng của mặt trời. Chỉ mành đó là cái phước mong, chuông to nọ là tội dầy của chúng sanh, đợt sương ấy là ác khí của Hạ nguơn, ánh sáng mặt trời đây là thiên đạo của Thượng nguơn vậy.

Nhắm vào các nguyên nhân trên đây, mà chúng ta tự quyết định cho cái sự tu của chúng ta được đi đến chỗ thành tựu viên mãn, hầu đáp ơn cho Đức Thầy, cho tổ tiên cha mẹ, cho cả chúng sanh và cứu cho ta thoát khỏi biển khổ sanh tử.

Tôi xin nhắc lại một lần nữa rằng: Cái xác thân tứ đại của con người rất là dơ bẩn và cam chịu mọi nỗi đau khổ, chúng ta không nên quyến luyến nó nhiều, song không được hủy hoại, phải mượn nó làm chiếc thuyền đưa chúng ta qua sông.

Vì ngoài cõi Ta Bà này thuộc về hướng Tây, cách đây chừng mười muôn ức cõi Phật, có một nước hiệu
là Cực Lạc, do Đức Phật Di Đà làm giáo chủ, xác thân chúng sanh nước ấy do bông sen hóa thành, bền chắc như kim cang không biên hoại, không già bịnh chết chóc, có lục thông, đáng cho chúng ta thác sanh về đó.

Không nữa, ngày Thượng nguơn sắp đến gấp, cái tôn chỉ Phật giáo chúng ta đang sùng bái đây, chính nó là một ngọn đuốc lớn nhứt hiện giờ, có đủ sức sáng đưa dắt chúng ta đến đó. Cõi Thượng nguơn này như cõi Thiên Đàng vậy.

Chúng ta phải hăng hái lên, để trau giồi đạo đức chơn chánh cho có nhiều đức hạnh, nhờ các đấng bề
trên ủng hộ cho chúng ta đến được cõi Thượng nguơn Thiên Đàng ấy. Vì nó là một phần thưởng vô giá của chúng sanh hiền đức trong kiếp Hạ nguơn này.

Nhìn nhau mà bắt mủi lòng,
Xa Thầy ta phải bế bồng lấy nhau.
Nhìn nhau mà giọt lệ trào,
Trò đây Thầy ở phương nào bặt tin.
Nhìn nhau mà bắt động tình,
Thân mình no ấm Thầy mình ra sao.
Nhìn nhau đau lại càng đau,
Xa Thầy con trẻ khác nào mù đui.
Nhìn nhau chi siết ngậm ngùi,
Xa Thầy bổn đạo rối nùi như tơ.
Nhìn nhau lòng luống ngẩn ngơ,
Xa Thầy bổn đạo như cờ túng con.
Nhìn nhau lòng bắt héo von,
Xa Thầy con trẻ như còn xác trơ.
Nhìn nhau đôi mắt muốn mờ,
Xa Thầy bổn đạo như tờ giấy lem.
Thấy vầy đâu nỡ ngồi xem,
Ra tay dìu dắt cùng đem một đàng.
Thương nhau đâu nại khổ nan,
Lấy lời đạo đức dịu dàng réo kêu.
Thương nhau nước bọt mây bèo,
Muốn đem kết lại trôi theo một dòng.
Thương nhau như đứa tiểu đồng,
Lạc tiên trong cảnh vô cùng thảm thê.
Thương nhau vẽ mặt làm hề,
Muốn cười phải khóc muốn trề phải khen.
Thương nhau thời vận còn đen,
Noi gương Hàn Tín theo đàng Quan Công.
Thương nhau như cá ròng ròng,
Xa bầy lạc mẹ giữa đồng bơ vơ.
Thương nhau như chuối ngoài bờ,
Gió giông thổi mạnh xác xơ từ tàu.
Thương nhau vàng ít nhiều thau,
Lâu ngày ten đống sắc màu hết tươi.
Thương nhau buổi trước mười người,
Bây giờ còn lại đâu thời đôi ba.
Thương nhau trong cảnh gà nhà,
Lại đành bôi mặt để mà chọi nhau.
Thương nhau như cảnh bên Tàu,
Hai phe Quốc Cộng đánh nhau tơi bời.
Thương nhau như hạn nắng trời,
Đồng khô cỏ cháy vô hồi thon von.
Thương nhau như mẹ lạc con,
Kẻ trông người đợi mõi mòn con ngươi.
Thương nhau khuyên nhủ từ người,
Từ đây phải rán vẹn mười nghĩa ân.
Thương nhau đạo lý chuyên cần,
Để mà gặp hội Phong Thần đặng xem.
Thương nhau đoàn tụ chị em,
Để mà gắng gổ có đem đường lành.
Thương nhau như sợi chỉ mành,
Mà treo chuông lớn nỗi tình héo von.
Thương nhau muốn được sống còn,
Phải cần giữ vẹn lòng son một bề.
Thương nhau bớt miệng nhún trề,
Hãy nên đau xót đem về giúp nhau.
Thương nhau đâu quản gian lao,
Réo kêu từng chập tiếng gào chẳng ngưng.
Muốn cho nhau rèn đúc tinh thần,
Cho tròn Mười thiện Bốn ân của Thầy.
Cuộc đời lao lý dẫy đầy,
Anh em đồng đạo nhớ Thầy chớ ngưng.
Sự tu phải rán ân cần,
Con đường diệu viễn bước gần tới nơi.
Dầu cho lao khổ với đời,
Tâm kia khá giữ một lời sơn minh.
Lúc nào cũng phải tưởng tin,
Có Trời có Phật mà gìn luật răn.
Những điều trái việc Pháp, Tăng,
Phải nên rứt bỏ đạo hằng mới cao.
Anh em đồng đạo cùng nhau,
Hôm nay tạn mặt lời trao tận tường.
Phải cần trau trỉa cho thường,
Nhắm vào hai chữ hiền lương mà làm.
Tu cho thấy cảnh trời Nam,
Những người nhập thánh siêu phàm hữu duyên.
Tu cho rạng mặt tôi hiền,
Được gần thánh bệ sạ duyên mới lành.
Tu sao cho được đắc thành,
Ngày kia mới toại ý mình chơn tu.
Sự tu thì phải công phu,
Sớm chiều lạy lục khẩn cầu chớ quên.
Phải cho dai dẻo bỉ bền,
Mới là thân nọ được lên sen vàng.
Sự tu phải giữ ngay đàng,
Mới là thoát khỏi cuộc nàn mai sau.
Trẻ già đồng đạo cùng nhau,
Đến đây thì rán sửa trau cho hiền.
Ở đây là cảnh chùa chiền,
Tây An Cổ Tự di truyền Phật Ông.
Đến đây thì phải tỉnh lòng,
Làm sao cho được sạch trong mới là.
Sự tu bất luận trẻ già,
Thành lòng niệm Phật Di Đà được siêu.
Từ đây trong lúc sớm chiều,
Nhớ Thầy tưởng Phật nâng niu tháng ngày.
Dầu cho trăm đắng ngàn cay,
Khuyên người hãy rán miệt mài chớ buông.
Vươn mình để có qua truông,
Ngày kia mới gặp được tuồng khải ca.
Thấy nhau mà ứa ruột rà,
Bề ngoài vô số trong đà ít oi.
Làm sao cho rạng cốt nòi,
Làm sao cho được dễ coi bớ người !
Sự tu không phải trò chơi,
Đây là việc Phật việc Trời rất cao.
Miệt mài cần mẫn sửa trau,
Không giờ phút để lảng xao mới thành.
Cuộc đời như sợi chỉ mình,
Không tu ắt phải tan tành thây thi.
Phật Tiên vì tánh từ bi,
Xuống đời nào có quản chi khổ sầu.
Miễn là khắp cả năm châu,
Vạn dân đều biết cúi đầu quy y.
Đặng cho kịp đến khoa kỳ,
Long Hoa chiếm bảng vậy thì mới vinh.
Nay còn rối loạn quân binh,
Vạn dân phải chịu điêu linh khổ nàn.
Tâm người đồng đạo vững vàng,
Tin rằng Tiên Phật nhãn quang soi tường.
Đức Thầy chừng thuận buồm trương,
Trở về dìu dắt bốn phương vui vầy.
Hiện nay trong cảnh chua cay,
Tớ xa Thầy rất khổ thay cho mình.
Muốn lòng kia được hiền lành,
Ắt Trời Phật giúp cho mình thảnh thơi.
Lời khuyên đồng đạo đôi nơi,
Từ đây cuộc thế giữa vời linh đinh.
Phải cần xem Bắc Đẩu tinh,
Để mà tìm thấy được bên mé bờ.
Cuộc đời thay đổi ai ngờ.
Rán tu được có hưởng nhờ bớ dân !
Tại sao có Phật có Thần.
Bởi người trung nghĩa hiếu ân vẹn tròn,
Muốn sao rồi phận tôi con,
Giữ đường trong sạch mới còn bớ ai !
Khuyên răn hãy nhớ miệt mài,
Đạo đồng già trẻ gái trai phải hành.
Cần chiêm nghiệm kiếp phù sanh.
Là đời tạm giả để mình gắng tu,
Tu cho vén ngút mây mù,
Huệ tâm được phát ngục tù được ra.
Bây giờ nhiều quỉ nhiều ma,
Khuyên người tỉnh mỉnh mới là tránh xong.
Phải cần chí sức gia công,
Tu cho gặp hội Hoa Long mà nhờ.
Nay chưa đến bến đến bờ,
Thuyền kia còn phải dật dờ giữa sông.
Ấy là tuồng sâp hóa công,
Rất nên nhặc nhiệm phàm không biết nào.
Tại sao Nam Bắc, Tây Tàu,
Mỗi ngày đánh đập ồn ào gớm ghê.
Bởi vì sắp tẩy trần mê,
Cho nên có cuộc ủ ê như vầy.
Nhờ ơn Trời Phật độ rày,
Cho người được thoát khỏi ngày lao lung.
Từ đây đồng đạo rèn lòng,
Rán chừa việc ác làm xong việc lành.
Sự tu thì phải thật hành,
Nói làm cho một mới rành sự tu.
Đến đây phân biện đâu đâu,
Lời tuy vắn tắt nghĩa âu đã rành.
Xin chào đồng đạo an lành,
Giảng đây đã dứt lòng mình chưa nguôi.
15 tháng 3 Quý Tỵ (tức ngày 28 tháng 04-1953)

  THÁNG TƯ:
07- Ngày mùng 1 hồi 10 giờ 50 phút tại Tây An Cổ Tự: Tâm Vô Thường - Pháp Vô Ngã

Ngày mùng 1 hồi 10 giờ 50 phút tại Tây An Cổ Tự: Tâm Vô Thường - Pháp Vô Ngã

Thưa quý đồng đạo,

Kỳ giảng rồi tôi đã giảng về thân ngũ uẩn chẳng sạch và rất là đau khổ của con người. Đến lượt hôm nay tôi định giảng về cái “Tâm vô thường và Pháp vô ngã” của chúng sanh.

Cái tâm nó là một quan năng có sức biến hóa thiên hình vạn trạng, vô lượng vô biên và cái tâm nó cũng có thể như là cái kho tàng vô tận. Cả thảy sự sự vật vật xưa và nay của thời gian và không gian, của một người và vô số người, của một vật và cả thảy vật, của có phạm vi và không phạm vi, của có hình thức và không có hình thức, của có hình ảnh và không hình ảnh, của ở trong người và ngoài người, của rộng lớn như hư không và nhỏ như mũi kim, cho đến việc của đời và của đạo. v.v... Cái tâm nó đều hàm chứa được tất cả.

Bởi thế cho nên cái tâm nó cũng có thể nghiễm nhiên như một vị đế vương, nó cũng có thể trở thành một anh ăn mày vất vả, nó cũng có thể như ông quan thanh liêm, nó cũng có thể trở thành như một anh đạo chích tàn ác, nó cũng có thể như kho vàng và rồi nó cũng có thể biến thành như thùng rác mà cái tâm này là cái vọng tâm.

Vì cái vọng tâm nên nó có đủ thất tình lục dục.

Cái vọng tâm nó hay mừng những cái lợi lộc mà riêng nó chiếm được và những người thù ghét của nó khi bị thiệt hại hay đau khổ.

Cái vọng tâm nó hay giận tất cả người nào chạm đến tự ái và quyền lợi đã có của nó và nó còn giận luôn cả thảy việc gì chính lòng nó muốn mà không được đem lại kết quả như ý.

Cái vọng tâm nó hay thương một cách hẹp hòi ích kỷ, nghĩa là nó chỉ hay thương lấy nó và cái gì thuộc về của nó. Dầu rằng cái thương ấy không được chánh đáng, có hại cho kẻ khác cũng mặc, miễn đem lại thỏa mãn cái thương của nó là đủ.

Cái vọng tâm nó hay vui nghe những tiếng nỉ non trầm bổng, vui thấy những cảnh bày trí lả lơi, vui trông vào kẻ mạnh hiếp người yếu và nó cũng hay vui thấy nó hơn trên được người về phương diện nào và nó cũng hay vui khi thấy lợi lộc về tay nó được nhiều.

Cái vọng tâm nó hay yêu cái giàu sang, cái tước vị, ái tiền của và cái sắc đẹp của nó đã có hay đương có mà hết sức gìn giữ. Kẻ nào chạm rờ vào việc yêu của nó sẽ la kẻ thù độc nhứt của nó vây.

Cái vọng tâm nó hay ghét những ai cao hơn nó, giỏi hơn nó hay giàu hơn nó, mạnh hơn nó và hưởng được nhiều sung sướng danh vị hơn nó. Những kẻ ấy toàn là những cây đinh trước mắt nó, nó sẽ tìm hết cách để đối phó.

Cái vọng tâm nó hay sợ cái gì đã thuộc về của nó như danh vị , sắc dục, tài lợi, phú quý mất đi, nên nó có đủ cách để bảo thủ cho kỳ được viên mãn.

Sở dĩ cái Tâm nó có nhiều cái mừng, giận, thương, yêu, vui, ghét, sợ giai do là nó chỉ bồi dưỡng cho cái xác thân. Nhưng nó quên rằng cái xác thân vốn của đất, nước, gió, lửa hợp thành, đến một ngày kia nó sẽ già, sẽ bịnh, sẽ chết và sẽ tan ra.

Những chất đặc như thịt xương thuộc về đất nó tan rã theo đất. Những chất lỏng như máu thuộc về nước nó tan rã theo nước. Những chất hơi như hơi thở thuộc về thuộc gió nó tan rã theo gió. Những chất ấm nóng thuộc lửa nó tan rã theo ánh nóng của mặt trời.

Bây giờ thì cái thân đâu còn nữa mà chỉ gọi nó cho đến đây là cùng.

Ví bằng một vị đế vương có hàng trăm cung phi, cả vạn kho lẫm và gấp triệu cây số ngàn đất đai đi nữa, đến khi chết cũng không sao giữ cho cái thân còn nguyên vẹn được.

Hàng trăm cung phi ấy cũng không đem theo được một người nào, cả vạn kho lẫm đó cũng chẳng hề rờ mó vào tay được một hột và gấp triệu cây số ngàn đất đai kia nó chỉ dành cho một khoảng nhỏ, để chôn cất cái xác thân hôi thúi ấy thôi. Kỳ dư những cái khác như: Cung phi thì để lại cho kẻ khác yêu, kho lẫm thì để lại cho kẻ khác xài và đất đai thì để cho kẻ khác ở mà bao nhiêu việc tội việc phước đã vì cái thân này mà gây tạo trong lúc bình tố thì để phần hồn mang chịu.

Nếu có phước nhiều thì sanh lên thiên đường, còn có tội thì đọa xuống địa ngục và luân hồi vào các loài trong cõi khổ mà chịu lấy mọi sự thống khổ, để đền lại tội trạng ác nghiệp đã gây ra ở kiếp qua.

Té ra, những cái danh lợi, sắc tài của mỗi đời không tồn tại và rất là mộng huyễn, nó gạt con người phải vì nó mà tội khổ, rồi nó không hề một lời an ủi hay chia sớt. Trái lại, nó càng rà rê ngã ngớn khêu gợi lại cái tập quán, cái háo kỳ, cái dị cảm của con người đã có, để lọt vào lưới của nó đặng nó giết hại.

Ôi ! Giả dối thay thân xác. Tai hại thay cho lòng ô nhiễm của chúng sanh ! Thế mà từ cổ chí kim chẳng biết bao nhiêu người cũng vì cái thân xác mà đem hết tài năng trí lực, nước mắt mồ hôi của mình ra để mà tranh đấu tất cả cái lợi, cái đẹp, cái danh cho cái thân, xong rồi cũng không đi đến đâu hơn là chỉ đi đến cái chết là hết. Như vậy mà đến bây giờ cái cạm bẫy cái lầm lạc ấy chưa phải là dứt hay là không có được. Nếu chúng sanh hiện nay không sớm hồi tỉnh mà xa tránh nó.

Hỡi đồng đạo,

Xét lại cái thân này là vô thường, vọng tâm này là giả dối không có cái gì bền bỉ chắc chắn, cũng đủ khiến cho chúng ta nhàm chán cái tư lợi, cái ích kỷ lắm rồi, huống chi còn được nhớ lời dạy dỗ của Đức Thầy đã cho chúng ta biết rằng: Cõi đời Hạ nguơn này nhân loại sắp đến chỗ tận diệt để lập lại Thượng nguơn, Mà cái Thượng nguơn ấy là một nơi để chọn lọc những người lương thiện được sống sót, trên thì chúa thánh dưới tôi hiền, cả thảy dân gian đồng sống trong khuôn khổ đạo đức trật tự, không còn có những cuộc dối gạt, chém giết, ngang tàn theo thói thường như cõi đời bây giờ nữa. Thế là càng khiến cho chúng ta thêm chán cái huyễn ảo của đời nay mà bước mạnh đến cái đạo.

Vì Cái Đạo nó là một cứu cánh tuyệt đối của đời chúng ta, nếu chúng ta không nhơn lúc này, kiếp này để mà tu tỉnh cho đến chỗ giải thoát, thì có bao giờ mà chúng ta gặp lại cái may trong muôn một ở một lần thứ nhì nữa, nghĩa là được sanh nhằm cái đời có Phật giáng thế hóa độ chúng sanh, lập đời Thượng cổ và mở Hội Long Hoa như ngày nay.

Song cái sự tu của chúng ta không chỉ ngồi niệm Phật, ăn chay, cúng lạy một cách không trơn như vậy được mà là chúng ta phải vừa tu lấy cho mình và đồng thời phải đem hết việc làm, lời nói sáng suốt của mình thuộc trong phạm vi đạo đức chơn chánh ra mà giúp đời giúp đỡ cho kẻ khác nữa mới được.

Vì rằng cái chủ nghĩa từ bi bác ái, tự giác giác tha của Đức Phật đã dạy, là phải được đem ra phổ cập rộng cùng khắp cả chúng sanh trên thế giới, mà hiện giờ chúng ta chưa có thể trong nhứt thời, mà tiến đến một địa hạt quảng đại qua hơn trình độ và sức cảm chịu của chúng ta được. Vậy chúng ta phải tuần tự, từ chỗ hẹp mà tiến lần đến một chỗ rộng, nghĩa là phải gieo rải cái đạo đức, cái từ thiện từ một cá nhân của chúng ta đến toàn người trong gia đình của chúng ta, đến người quanh vùng của chúng ta và từ đó dần dần đi đến một xã hội, một quốc gia, cả nhơn loại và khắp hết chúng sanh.

Có được như thế, mới làm cho con người của chúng ta trở nên một người có ích của thiên hạ, không sự tội lỗi, được nhiều công lợi phước đức và mới không phụ cái giáo lý cao siêu của Đức Phật đã lưu truyền hơn 2500 năm nay và cũng làm cho Đức Thầy của chúng ta được hài lòng.

Và con người chúng ta đã được có những hành động chơn chánh phước đức như trên, thì chẳng khác nào chúng ta đã có một con thuyền vững chắc, có đủ sức đưa chở cho chúng ta từ bên này sông Hạ nguơn sang được bên kia bờ Thượng cổ hay giải thoát.

Hơn nữa chúng ta phải nhờ cái thuyền phước đức ấy mới có thể cứu vớt Cửu Huyền Thất Tổ, cha mẹ họ hàng của chúng ta và bao nhiêu người khác đồng thoát khổ như chúng ta được.

Thương nhơn loại trong cơn đồ thán,
Thảm đồng bào lâm cảnh gạo châu.
Phận sĩ hiền cần phải lo âu,
Thân tráng sĩ hãy toan vùng vẫy.
Làm những việc mọi người nhờ cậy,
Tạo các phương đất nước vững vàng.
Bởi chúng sanh sắp đến điêu tàn,
Nên Tiên Phật lắm lời kêu gọi.
Sợ cho kẻ vội quên dòng dõi,
E nỗi người xa mất đạo lành.
Chỉ có tu mà chẳng có hành,
Miệng niệm Phật lòng không tưởng Phật.
Khuyên nhủ kẻ tận tường lời thật,
Mong mọi người nghe rõ mà làm.
Cõi hồng trần khuyên chớ có ham,
Đường Tiên Phật hãy nên lai đáo.
Đã được ở trong nền Phật giáo,
Phải gìn tròn mối Đạo Thích Ca.
Nếu sự tu gác bỏ lòng tà,
Thời sau ắt sang qua cõi Phật.
Bởi nhơn loại lắm người giảo hoạt,
Nên gây ra nhiều việc hãi hùng.
Từ kẻ này nước nọ lung tung,
Đến kẻ trí người ngu rối khổ.
Nay Nam Việt Phật Tiên giáng độ,
Giống Lạc Hồng hăng hái tu hành.
Đến ngày kia mới đặng tồn sanh,
Sau khỏi chịu những điều tai khổ.
Rất mong mỏi cho nhau tỉnh ngộ,
Nhưng ít người được biết rèn lòng.
Chỉ cạnh tranh theo việc tiền đồng,
Ít trau trỉa tấm lòng chơn thật.
Nên kêu gọi cho nhau tỉnh thức,
Từ thi bài cho đến giảng lời.
Mong cho nhau được biết cơ trời,
Hầu xử lấy cuộc đời chơn chánh.
Nếu chẳng sớm nghe lời Phật thánh,
Để muộn màng tu tỉnh không rồi.
Hỡi đạo đồng ! Đồng đạo hỡi ơi !
Nầy dân chúng chúng dân nên liệu.
Cả thế giới nhục thân nặng trịu,
Chốn non bồng ngọc cốt nhẹ nhàng.
Lại còn thêm được sống vững vàng,
Không còn chịu rày tan mai hiệp.
Nay đây cũng có cơ tu kịp,
Vậy mỗi người hãy rán sửa mình.
Kẻo ngày kia sắc lịnh Ngọc Đình,
Sai Thiên tướng răn trần thêm khổ.
Nay khuyên nhủ chỉ vì cứu độ,
Cho người sau này được sống còn.
Để xứng mình là phận tôi con,
Thêm vẹn vẽ trong hàng Phật tử.
Hỡi đồng đạo đây là phận sự,
Của một người trau lấy đạo trường.
Hợp cùng nhau phân biệt chính đường,
Mong mỏi kẻ ghi lời hữu lý.
Sự tu phải diệt lòng ích kỷ,
Điều thiện nên dẹp bỏ cá nhân.
Phải tập rèn lòng được đại ân,
Nên chuyên luyện cho thân quảng ái.
Sự tu nhớ đi theo việc phải,
Điều thật cần nên lấy chữ tin.
Nhớ rằng cơ nhơn quả rất linh,
Điều tu tỉnh tháng ngày gìn giữ.
Ai có đến Tây An Cổ Tự,
Cũng lấy làm lạ mắt mọi điều.
Sự phượng thờ hay cách biểu nêu,
Đều có chỗ vô vi huyền bí.
Mong ai có đó để lòng suy nghĩ,
Nhắc người không quên chữ trần điều.
Tuy vật khinh mà giá cao siêu,
Hãy thành kính chớ lời khinh bội.
Đến ngày kia cuộc trần thay đổi,
Có siết bao tà thuật gieo vào.
Người tu hành đạo quả thâm cao,
Nhờ Tiên Phật hộ trì an vững.
Thảm cho kẻ đặng trau bổn phận,
Mãi xua mình theo việc vạy tà.
Đến ngày kia hồn phách ra ma,
Còn thân xác tiêu tan tro bụi.
Trên Đức Phật phép mầu nhuần gội,
Dưới chúng sanh đều phải cúi đầu.
Giữ vẹn lòng được gặp mưa ngâu,
Bền chí sẽ gần nơi đạo lý.
Đây khuyên nhủ phải nên nhắc kỹ,
Lời giáo truyền cần nhớ tu thân.
Đến ngày kia gặp hội Phong Thần,
Sẽ được biết những điều mầu nhiệm.
Sự tu tỉnh nơi tâm phải kiếm,
Điều hiền lương ở chí nên làm.
Đến chừng nào lòng chẳng còn phàm,
Ngày đó mới trở về tiên cảnh.
Nay dân chúng mãi còn tranh cạnh,
Thời trần gian chưa hết não nùng.
Phải tu chơn đến lúc toàn trung,
Cần hành thiện chừng khi trọn nghĩa.
Một khi đã sự lành vẹn vẽ,
Thời ngàn muôn kiếp được thanh nhàn.
Hỡi trần gian ! Nầy hỡi trần gian !
Ở dân chúng ! Nầy trong dân chúng !
Việc đạo lý biết sao là phủng,
Điều nhiệm mầu bay to không cùng.
Mong mỏi người soi rạch tâm trung,
Để được biết mọi điều sâu sắc.
Phật Tiên thánh đáy lòng trong vắt,
Thương hồng trần bụng dạ đục nhơ.
Đem việc mình khám rõ huyền cơ,
Chỉ dạy thế lần đường theo dõi.
Hỡi đồng đạo ! cuộc cờ chống chỏi,
Đến chừng nào toàn thắng được bàn.
Mới hiểu rằng nơi cõi Tây Phang,
Vị Tiên Phật xuống trần đa diệu.
Nay dân chúng phải cần thông hiểu,
Hỡi trần gian ! Nên gắng liệu lường.
Tu để cho đến cõi Thượng nguơn,
Cùng chầu đức Minh Vương mới toại.
Dân không chúa như thuyền không lái,
Trò lạc Thầy như tối chẳng đèn.
Lửa cháy nhà không nước rối ben,
Bụng đói rũ không cơm thê thảm.
Đem trí lực phá màn hắc ám,
Dùng đức mầu hái quả thơm tho.
Cuộc đời này khác thể ngao cò,
Trần gian đấy như cờ sắp bí.
Nay mùng Một tháng Tư năm Tỵ,
Khuyên cùng nhau gắng sức tu hành.
Nghe giảng thời thứ nhứt làm thinh,
Sau kế đó để tâm ghi nhớ.
Nhớ cho kỹ để rồi trau sửa,
Sửa cho mình đều được chánh chơn.
Đến ngày kia mới được tồn thân,
Hầu dưới bệ nghe lời Phật thuyết.
Nay cuộc thế như trời soi tuyết,
Cảnh hãi hùng trước mắt rất gần.
Nỗi buồn cho khắp cả vạn dân,
Theo vật chất xa lần đạo lý.
Xưa Khương Tử nghèo nàn thậm chí,
Lòng vẫn chờ đến lúc phò Châu.
Ai bảo đành chờ đợi chưa lâu,
Nay vội nỡ quên lần tu niệm.
Trễ việc đạo sau này khó kiếm,
Đợi cơ nguy vai Phật muộn rồi.
Hiện bây giờ dân chúng hỡi ôi,
Cần xét nghĩ cuộc đời tạm giả.
Từ tâm phải trau giồi đạo cả,
Chính phận mình mài miệt sự hiền.
Cái chữ tu phải được cần chuyên,
Từ ngày một đến hằng năm tháng.
Cả việc làm phải điều cân đoán,
Lẽ chánh chơn cương quyết thật hành.
Sự vạy tà khuyên chớ lưu tình,
Điều phải nghĩa nên cần sốt sắng.
Đến giờ chót Đức Thầy gặp đặng,
Ấy toại nguyền cho cả đạo đồng.
Hiện bây giờ thuyền nọ giữa dòng,
Sự lui tới nhiều điều khó nghĩ.
Mong tất cả đạo đồng bền chí,
Ước thảy người hãy gắng phân minh.
Giờ phút này đạo lý còn tin,
Người ấy cũng được phần lương thiện.
Có lắm kẻ bạc bài say ghiện,
Cũng nhiều người chè rượu xình xoàng,
Miệng đọc cơ đọc giảng nghe vang,
Lòng chứa dữ chứa hung vô lượng.
Những kẻ ấy khó mong chung hưởng,
Cùng Phật Tiên trong cuộc lập đời.
Đạo đồng ơi ! Kìa đạo đồng ơi !
Lời giảng giải hãy ghi vào dạ.
Khuyên nhủ đó chỉ vì đạo cả,
Nhắc nhở đây tại việc phải làm.
Làm cho đời rõ thánh hay phàm,
Nói những việc của Tiên hoặc tục.
Tu không phải để tâm hì hụt,
Làm chớ nên theo đuổi vạy tà.
Nên nhớ rằng đây cõi Ta bà,
Muôn việc khổ xảy ra khôn kể.
Sự giảng giải chỉ do lời thệ,
Điều biện phân ở tại sự nguyền.
Nguyện cứu đời thoát khỏi phàm duyên,
Thề độ chúng xa miền tục lụy.
Nên mới có nêu tên Thanh Sĩ,
Cùng gọi ra những tiếng lương hiền.
Nhắc chỗ này chỗ nọ liên miên,
Kêu từ nhóm từ chòm không siết.
Nhưng chọn lọc những người hiểu biết,
Thật xem ra thì quá ít oi.
Mong làm sao cho rặc con nòi.
Hầu nêu rõ khí hùng Nam quốc,
Sau đạo Phật bủa tràn quả đất.
Khắp quần sanh nhuần gội dẫy đầy,
Hiện bây giờ trăng nọ bị mây.
Nên bá tánh có mòi lợt lạt.
Hỡi đồng đạo ! Đây lời chơn thật,
Mong cùng nhau chớ có hiểu lầm.
Sĩ Thanh nầy noi lấy từ tâm,
Nên phải gắng khuyên người tu niệm.
Sợ kẻ việc trần gian quá ghiện,
E người đem tục lụy đeo vào.
Thế cho nên đây mới kêu gào,
Lòng mộ đạo đó mau xét lấy.
Giảng chỉ yếu ở lời phải quấy,
Kinh không nài điệu giọng dở hay.
Hỡi đạo đồng ! Cần sửa lòng ngay,
Sau mới được hưởng điều nhàn hạ.
Cảnh tình này thật đà quái lạ,
Tu hú kia gởi quạ gìn con.
Nỗi niềm riêng thật rất héo hon,
Tình chung nghĩ lắm điều thống thiết.
Cơ tạo hóa nhiệm mầu khó biêt,
Lẽ xoay vần kín đáo khôn lường.
Đồng đạo ơi ! Việc thiện rán nương,
Chư môn hỡi ! Lời ngay nên nhớ.
Tuy nay phải Thầy cam xa tớ,
Có ngày kia Tần Sở tương phùng.
Ấy là khi Nam Bắc khốn cùng,
Vô phương giải cầu Trời cứu độ.
Nay những kẻ có tâm giác ngộ,
Thời tìm làm những việc lợi đời.
Dầu cho mình khốn khổ lăm nơi,
Chẳng vì đó không tìm sự phải.
Người đến đây nghe rồi nhớ lấy,
Để thiệt hành sau sẽ lợi mình.
Sự tu thời phải có đức tin,
Dầu lao lý chớ lòng xao xuyến.
Mong nhau được tâm hồn tinh tiến,
Ước có ngày trên dưới thuận hòa.
Để tượng trưng tôn chỉ Thích Ca,
Hầu làm rõ danh từ Phật giáo.
Lời khuyên nhủ khắp trong đồng đạo,
Tiếng kêu gào tất cả chư hiền.
Nên nhớ rằng sự khổ chưa yên,
Cần ghi lấy cõi phàm rất giả.
Nay đây cả muôn màu rườm rã,
Đến phút kia trắng sắc xơ rơ.
Ngày biến thiên dân chúng gật gờ,
Khi tiêu diệt hoàn cầu rúng động.
Lời khuyên nhủ người nên để bụng,
Rồi ngày kia khỏi việc trách than.
Cuộc đời này thật lắm mỏng man,
Đạo lý đó là phương cứu cánh.
Lời giảng giải chung qui chữ tín,
Sự khuyên răn tóm tắt điều lành.
Nếu được rồi đạo quả sẽ thành,
Bằng không trọn tu hành luống uổng.
Đây khuyên nhủ mặc người ghét chuộng,
Chỗ nói ra tùy kẻ thích không.
Lời thánh hiền tự lập nơi lòng,
Đem phổ biến cho người được sửa.
Nhân trong khoản đao binh khói lửa,
Thừa những cơn tai ách khốn nàn.
Gọi từ tâm khắp cả trần gian,
Khêu đuốc huệ kêu cùng thiên hạ.
Người biết đạo nghe rồi để dạ,
Kẻ theo đời cho đó là thường.
Lời khuyên răn đây chỉ lòng thương,
Hỡi đồng đạo chớ đem dạ ghét.
Gọi nhau cho nhau khác nào lửa thét,
Để ngày kia cho được thiệt vàng.
Có những lời đạo lý biện bàn,
Không ý nhụy thì người bỏ gác.
Chỉ yếu chỗ mong người giải thoát,
Nhắm vào nơi gọi kẻ tu hiền.
Hiện bây giờ say bạc say tiền,
Sau phải chịu trách trời trách đất.
Tu thời phải rèn lòng chơn thật,
Hành nên in não óc hiền từ.
Ai để lòng cho được như như,
Thời sau sẽ hưởng phần chói chói.
Đây khuyên đó tâm hồi rắn rỏi,
Lời nhắc kia trí lực bỉ bền.
Lời khuyên nhau chẳng phải lời rên,
Tiếng nhắc nhở không hề quyến rũ.
Đây tóm tắt khuyên người tự chủ,
Đừng để cho vật chất khiến mình.
Có đôi lời đồng đạo hãy tin,
Và nên nhớ thiệt hành cho đúng.
Giảng với kệ tùy thời mà dụng,
Đạo với đời theo thuở mà bày.
Đến Hạ nguơn Phật giáng trần ai,
Đem tiếng giảng gọi là kết cuộc.
Phải gấp rút trau làm việc phước,
Nên cầu âu luyện tánh thương người.
Đến nghe đây giữ vẹn từng lời,
Để nhớ đó trở về tinh tấn.
Lời khuyên nhủ mong nhau giữ phận,
Giảng đến đây lời đã dứt rồi.

Lời giảng đến đây đã dứt xong,
Xin ai ghi lấy ở nơi lòng.
Ra về gắng chí làm cho trọn,
Kỳ tới sang nghe được số đông.
1 tháng Tư Quý Tỵ - tức 13 tháng 5-1953
08- Đêm mùng 8 hồi 23 giờ 20 phút tại Nhà Thờ ông Nguyễn Văn Thới gọi là Ông Ba Thới Nhân dịp lễ giỗ

Đêm mùng 8 hồi 23 giờ 20 phút tại Nhà Thờ ông Nguyễn Văn Thới gọi là Ông Ba Thới Nhân dịp lễ giỗ

Thưa quý đồng đạo,
Đến đây hồi chiều này, lòng tôi lấy làm vui được thấy ngày kỵ cơm của Ông Ba trong năm nay có phần đông đảo hơn năm rồi gấp đôi lần. Như vậy đủ chứng tỏ tấm lòng của đồng đạo không hề quên ơn một bậc vĩ nhân đạo đức đã quá cố. Sở dĩ có được như vậy là do tấm lòng tu hành sốt sắng của anh em đồng đạo mà ra.

Thưa quý đồng đạo,
Tiện đây đồng đạo cùng tôi đem ra bàn xét một “Vài vấn đề đạo đức”, để chúng ta chiêm nghiệm lấy lẽ hư thiệt, hầu giúp cho chúng ta trong một phần nào về mặt tu tiến hiện thời.

Con đường mà chúng ta đương đi đây hẳn chúng ta đã có chủ định. Cái chủ định ấy là một chữ Đạo, chữ
Đạo ấy vốn ở sự nhân quả, nghĩa là gieo giống chi hưởng trái nấy. Nói một cách rõ hơn, làm lành được
kết quả lành, làm dữ sẽ kết quả dữ, dữ phải sa đọa, lành được siêu thăng. Nên chúng ta phải làm lành.
Rồi đó chúng ta còn phải xử sự cái bổn phận làm người:

Chúng ta có thể liều chết với đất nước để bảo vệ sự Trung.
Chúng ta có thể liều chết với cha mẹ để bảo vệ sự Hiếu.
Chúng ta có thể liều chết với thân danh để bảo vệ sự Tiết.
Chúng ta có thể hy sinh cho mọi người để bảo vệ sự Nghĩa.

“Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa” là mục đích của Đạo làm người mà lúc nào chúng ta cũng cần phải thiệt thi một cách chu đáo. Vì nó có thể làm rạng vẻ đất nước chúng ta, cha mẹ chúng ta, mọi người xung quanh chúng ta và riêng cho đời chúng ta nữa. Đồng thời chúng ta còn phải hành lấy cái đạo Phật
mà chúng ta đương sùng kính.

Chúng ta phải lấy lòng từ bi chế ngự cái khẩu dục đương đòi hỏi nơi chúng ta một cách không chánh
đáng. 
Chúng ta phải lấy lòng công Nghĩa để tiêu trừ cái tánh tham lam mà lúc nào nó cũng chờ chực, xúi biểu chúng ta làm những việc trộm đạo cướp bóc một cách phi pháp.

Chúng ta cần phải lấy lòng trinh chánh chân đứng lại cái tà dâm lăng mạ, nó đương rù quến cám dỗ chúng ta làm những điều thương luân bại lý, có hại đến phong hóa nước nhà.

Chúng ta cần phải lấy lòng chơn thật, để mà gác bỏ tất cả những lời lẽ dối mị láo khoét, làm chia rẽ nghi ngờ lẫn nhau, có hại đến sự thân ái và đoàn kết của giữa chúng ta với mọi người một cách vô bổ.
Chúng ta phải lấy lòng đạo đức, trí sáng suốt để đào bới tận gốc cái bịnh rượu. Vì nó thường hay làm cho thần trí của chúng ta phải cuồng sảng, thân danh của chúng ta phải tan nát mà từ cổ chí kim không biết bao nhiêu người cũng vì nó mà thành nghêng vách đổ, thân thể nổi trôi.

Thuở xưa có 500 vị La Hán dạo xem nơi cõi địa ngục, khi đi ngang qua cái ngục nọ, trong ngục đương
giam một tội nhân dưới sự hình phạt rất thảm thiết, ngoài cửa ngục có một ché rượu to. Tội nhân thấy 500 vị La Hán đến bèn có lời van cầu: “Làm sao cho hết được ché rượu ấy thì người mới được đầu thai”. Vì cảm lòng từ bi mà 500 vị La Hán cùng chia nhau uống cạn hết ché rượu, tức thời tội nhân đó được đầu thai.

Trái lại, 500 vị La Hán kia phạm tửu giới phải bị đọa xuống phàm hóa 500 con ốc bươu. Sau nhờ ông Bàng Công cư sĩ lấy công đức của mình sám hối cho mới được thoát kiếp.

Lấy đó chúng ta đủ hiểu rằng rượu có hại cho đức mạng của chúng ta là ngần nào. Đối với 500 vị La Hán kia đã dày công tu hành nhiều kiếp, một khi phạm tới tửu giới còn phải đọa vào loài noãn sanh đó thay, huống chi, chúng ta là kẻ phàm phu công đức mỏng manh, tu hành ít ỏi, dám ỷ lại vào đâu mà phạm vào tửu giới.

Thưa quý đồng đạo,
Đồng đạo cũng như tôi đã từng đọc sám giảng của Đức Thầy, đều nhận được lời của Đức Thầy cho biết
rằng cõi Hạ nguơn này sắp đi đến một ngày biến đổi lớn lao gần đây, để lập lại Thượng nguơn và Hội Long Hoa mà cái Hội Long Hoa ấy của Phật lập ra. Theo tôi tưởng thì nó cũng như trường đua, cũng như tòa đại hình và cũng như sự phân kim của anh thợ bạc.

Trường đua ấy để so lấy cái thắng, tòa đại hình ấy để xử kẻ trọng phạm và anh thợ bạc để chọn thứ vàng cao tuổi.

Toàn diện của vấn đề này chỉ có tánh cách đạo đức chơn chánh hiền lương được đem cái ưu điểm tồn tại ấy thôi.

Vì thế, chúng ta muốn đến được Hội Long Hoa và cõi Thượng nguơn đều phải thật hành cho kỳ được cái đạo nghĩa ở chúng ta đến mọi người, như mấy khoản mà tôi đã kể vừa qua đó, thì mới tự cứu được mình được người, và được xứng đáng là một tín đồ của Đức Thầy và đệ tử của nhà Phật.

Nếu làm trái lại, chúng ta sẽ không làm sao cứu được mình và không ích lợi cho ai, lại cũng không tránh khỏi làn sóng tận diệt mà hầu hết nhơn loại trên mặt địa cầu này phải chịu lãnh lấy thê thảm một ngày tới đây:

Đạo như ánh sáng mặt trời,
Chiếu ra khắp chỗ mọi nơi được nhờ.
Ngày nay đến lúc lu mờ,
Bởi lòng đồng đạo còn ngờ hóa công.
Chưa tin sự có mà không,
Sự không mà có nên lòng còn nghi.
Quên lời của đấng từ bi,
Cho nên mới để đạo nghì siển sai.
Phải nên gắng chí giồi mài,
Mới mong đi đến một ngày chung qui.
Con đường lắm chỗ hiểm nguy,
Anh em đồng đạo chạm ghi một lòng.
Xa Thầy ta rất não nồng,
Lệ ngoài đượm ướt lòng trong sụt sùi.
Thấy nhau đạo lý phai mùi,
Nên kêu nhau tỉnh tô bồi được xong.
Hỡi này tất cả đạo đồng,
Hãy nên lặng lẽ để lòng mà nghe.
Cuộc đời mỏng tợ màn the,
Gọi tu nào phải thơ vè xỏ xiên.
Đêm nay nghe thửa lời truyền,
Nhớ lo tỉnh thức tu hiền gắng công.
Có nghe hay lại để không,
Mặc tình nơi kẻ đạo đồng liệu lo.
Vì trên đã có hẹn hò,
Hợp nhau dắt chúng phải lo như vầy,
Nương chơn của Phật của Thầy,
Đem câu đạo lý tỏ bày vạn dân.
Ước sao khắp cả thôn lân,
Từ nam chí nữ tinh thần gắng lên.
Ngày đêm niệm Phật đừng quên,
Dầu trong giấc ngủ cũng bền chớ phai.
Mấy khi Thượng cổ tái lai,
Nếu không sớm sửa ngày mai lỡ làng.
Lời kêu đây rất dịu dàng,
Chỉ lo người hội Nhà Bàng rã thây.
Biết bao nạn ách ngày nay,
Thấy vầy phải rán miệt mài thêm lên.
Phiên bang rồi lại Cao Mên,
Chánh tà xáo trộn đổ lên cuộc đời.
Dân ơi ! Kìa hỡi dân ơi !
Ngày nay phải rán tưởng Trời Phật thêm.
Cuộc đời chưa đến chỗ êm,
Hai bên còn vẫn thù hềm chưa ngưng.
Thấy đời bắt dửng dừng dưng,
Tuy an mà chưa dám mừng bớ ai !
Vắng Thầy thuyền đạo trở day,
Mắc cồn sa bãi khổ thay đạo đồng.
Nhắc lời ít kẻ nhắc lòng,
Cho nên kẻ bưởi người bòng nhiều hơn.
Đêm nay tiếng kệ khuyên lơn,
Khuyên lơn nhau chớ giận hờn mà chi.
Con đường cùng một bước đi,
Phải gìn đến chốn gặp kỳ ứng khoa.
Cả kêu đồng đạo trẻ già,
Phải nên lập chí để mà lo tu.
Ngày kia sẽ được ngao du,
Dạo cùng khắp cõi khỏi ân nợ đời.
Ngày nay sống giữa cõi người,
Thấy ra dân chúng lắm nơi khổ nàn.
Lấy mưu cùng trí cầu an,
Nhưng chưa mấy kẻ được toàn sanh nhai.
Ở đây dân được thảnh thai,
Thương miền Trung, Bắc gái trai khổ nàn.
Có người chạy lạc xa ngàn,
Có người đói khát dở dang địa điền.
Có người gia trạch không yên,
Xa cha mất mẹ thảm phiền xiết bao !
Trong Nam dân được thạnh giàu,
Ngó ra ngoài Bắc, bên Tàu để lo.
Trong khi người đói mình no,
Cái no ấy chẳng khác cò ăn đêm.
Liệu thân cho được trọn niềm,
Việc đời việc đạo phải ghim vào lòng.
Hỡi này tất cả đạo đồng,
Nghe đây rồi phải để lòng từ câu.
Việc nào hợp lẽ đạo mầu,
Ghi trong não óc ngõ hầu sửa răn.
Đạo trường như thể vầng trăng,
Khi tròn khi khuyết lẽ hằng xưa nay.
Sợ nhau chẳng vẹn gái trai,
Sự trung sự hiếu mỉa mai chẳng tròn.
Muốn sao biển cạn núi mòn,
Mà lòng chẳng đổi mới còn dài lâu.
Ngọn đèn trước gió phải âu,
Mạng căn thế giới một bầu lâm ly.
Mau đi ! Kìa hãy mau đi !
Sự tu chớ có diên trì bớ dân !
Ở đây chẳng nói dần lân,
Chỉ vì thương chúng mới phân cạn cùng.
Bắc, Nam súng đổ đùng đùng,
Đâu đâu đều phải ngừa phòng binh đao.
Thấy chăng trận giặc ở Lào?
Đó là tin báo đồng bào hãy lo.
Nay no mai mốt không no,
Nay ăn mai mốt chạy lo tưng bừng.
Nếu toàn dân chúng biết thân,
Trao nhau làm phước khỏi phần túng cơm.
Lại là cũng khỏi thù hờm,
Được yên được thạnh cái mồm được no.
Hỡi này đồng đạo rán lo !
Tại đây dân chúng ngao cò nhiều hơn.
Miệng ngoài tuy nói nghĩa nhơn,
Mà trong tâm ý chác hờn lẫn nhau.
Tuy là lạy Phật ra vào,
Nhưng lòng chẳng được chút nào tưởng tin.
Thừa ngày Giỗ thừa đêm thanh,
Kêu nhau chỉ một tiếng lành mà thôi.
Anh em kẻ đứng người ngồi,
Hãy nên lặng lẽ tĩnh hồi mà nghe.
Đêm trường véo vắt tiếng ve,
Lẫn màu đèn điện lời ra chẳng cùng.
Muốn nhau có một tấm lòng,
Trên nghe Thầy dạy dưới đồng thương nhau.
Để rồi tránh cuộc binh đao,
Cũng là có dịp cứu nhau khỏi nàn.
Nếu như lòng một sắc vàng,
Lửa dầu có đốt không tan được nào.
Ai ôi ! Hãy liệu làm sao,
Đức Thầy trở lại lời nào đáp ra.
Chỉ vì bấn rối việc nhà,
Khiến cho đau ruột ông già xiết chi.
Ngàn năm đã quyết tu trì,
Đạo mầu được đắc đến kỳ cứu dân.
Tái sanh cũng đã nhiều lần,
Mỗi kỳ mỗi dạy cho trần biết tu.
Ngày nay đạo lý vội lu,
Với lòng từ mẫn âu sầu biết bao.
Thâm canh giọt lệ đượm trào,
Nằm không yên gối dạ nào có an.
Bởi thương khắp cả trần gian,
Đức Thầy mới chịu khổ nàn cho dân.
Đến nay có bảy năm gần,
Mà Thầy còn phải dấn thân tít mù.
Hỡi ai có hiểu chi đâu,
Cuộc cờ gay ngạnh lắc đầu hỡi ơi !
Chúng ta phải rán nhớ lời,
Cùng nhau đoàn kết tránh nơi khổ sầu.
Dù cho vận hạn có lâu,
Muôn lòng thắt chặt đạo mầu cũng xuôi.
Sợ cho người vội trở lui,
Sa vào bể thẳm vô hồi truân chuyên.
Đạo đồng khuyên chớ lăm phiền,
Sự tu phải chịu xay nghiền mới nên.
Ngàn xưa các bậc thánh hiền,
Được nên danh rạng khổ phiền xiết bao.
Một khi cay đắng không nao,
Thì là địa vị thanh cao được gần.
Lời khuyên khắp cả thôn lân,
Từ đây gìn vẹn Bốn ân của Thầy.
Để rồi khỏi phụ đất đai,
Không làm những kẻ trơ tay trong đời.
Phải nên trọng Phật tưởng Trời,
Thờ cha kính mẹ một đời hiếu thâm.
Tuy rằng đạo lý khó tầm,
Nhưng tròn chữ hiếu cũng làm Phật Tiên.
Lại thêm nhớ lấy Sám truyền,
Với lời Phật đã dạy khuyên lâu đời.
Luôn luôn giới luật chớ rời,
Có ngày gặp đặng một nơi thanh nhàn.
Lại cần phải gắng lo toan,
Cái ân xã hội lại càng trỉa trau.
Nghĩ vì ta phải nhờ nhau,
Miếng ăn thức uống đổi trao rất nhiều.
Nay đây nỗ lực độ điều,
Khiến nhau được sống hưởng nhiều ấm no.
Cuộc đời càng lắm gay go,
Thì nền đạo lý cần cho phô bày.
Đạo như cây thước rất ngay,
Đo lòng thiên hạ theo rày lẽ công.
Đạo như thể nước rất trong,
Thâm nhuần tất cả chẳng cùng bớ dân !
Đạo là ở một lòng nhân,
Thương người mến vật thi ân cho nhiều.
Muốn sau đến chỗ cao siêu,
Phải cần đức hạnh sớm chiều cho khương.
Đời này giống hịt đời Thương,
Biết bao tà mị nhiểu nhương thế trần.
Xung quanh mọi việc xa gần,
Dễ mà cám dỗ khách trần lắm ôi !
Lại đời nay quá bạc vôi,
Ít ai trau chuốt những lời thanh bai.
Thường hay tham sắc tham tài,
Tham quyền tham tước tham rày riêng thân.
Không còn gìn vẹn chữ ân,
Thế nên cái hội Phong Thần mới ra.
Hỡi này đồng đạo trẻ già,
Việc đời phải rán biết mà nhục vinh.
Chọn điều hợp với nhân sinh,
lánh xa những việc thế tình cười chê.
Sắc, tài, tửu, khí đừng mê,
Hiếu, trung, liêm, chanh mọi bề rán trau.
Cũng như kẻ muốn làm giàu,
Phải cần tích trữ cho nhiều năm qua.
Người tu muốn được cao xa,
Phải rèn từ một ngày là mới nên.
Bầu trời tuy rộng thênh thênh,
Mắt thần soi xét hư nên rõ ràng.
Đêm khuya canh lụn giờ tàn,
Người ngồi đôi mắt lơ làng ngăc nghiêng.
Đây là cùng một cơ duyên,
Cho nhau trau lấy lời khuyên hiểu lòng.
Muốn nhau đến hội Hoa Long,
Cho nên đây phải gắng lòng dỗ khuyên.
Từ rày cuộc thế đảo điên,
Năm châu nổi giặc thảm phiền sanh linh.
Còn e cho cái nước mình,
Họa còn đeo đẳng muôn nghìn chưa an.
Tiền Giang lại với Hậu Giang,
Ai ôi ! Gần Phật hãy toan lấy mình.
Tuy trong nhà cũng phải gìn,
Kẻo rơi ngoài ngõ thế tình mỉa mai.
Tuy là kẻ ở Đông Tây,
Mà lòng biết giữ thẳng ngay hiền lành.
Ngày sau gần được Nam thành,
Con người tại chỗ phải đành đi xa.
Tại mình lòng dạ tinh tà,
Không gìn chánh đạo mới là khổ thân.
Lấy ân mà đáp lại ân,
Lấy điều lương thiện đổi hờn bớ ai !
Những người nói việc gắt gay,
Ấy là có chỗ phạm sai việc mầu.
Từ bi ta cứ đeo vào,
Để làm gương mẫu cho nhau buổi này.
Trong cơn vắng mặt Đức Thầy,
Tình thương ta phải miệt mài thêm hơn.
Làm sao cho được bền chơn,
Để đi đến chốn Thất Sơn mới là.
Đêm khuya điệu giọng ngâm nga,
Tựa hồ chuông đánh cho ta tỉnh hồn.
Bởi dân như nõ đóng dồn,
Như thuyền giữa bể hãi hùng sóng to.
Phải cần vững chí toan lo,
Tìm phương để giúp nhau cho phỉ tình.
Mới rằng trước cứu được mình,
Sau là độ thoát muôn nghìn kẻ xa.
Lời khuyên đồng đạo trẻ già,
Giảng cơ hãy nhớ để mà trong tâm.
Giờ này cũng đã canh thâm,
Giảng cơ xin dứt chúc cầm hoa sen.
Giảng kệ đến đây đã dứt rồi,
Đạo đồng ghi nhớ chớ buông trôi.
Sớm hơn lấy nó mà trau trỉa,
Để khỏi lâm cơn sóng bủa nhồi.
Bủa nhồi thảm thiết kể từ đây,
Cầu chúc cho nhau được gặp Thầy.
Ngày Hội Long Hoa ra chiếm bảng,
Mới rằng toại nguyện gái cùng trai.
8 tháng Tư Quý Tỵ (tức ngay 20 tháng 5-1953)
09- Ngày Rằm tại Tây An Cổ Tự: Tai Hại của Điều Ác

09- Ngày Rằm tại Tây An Cổ Tự: Tai Hại của Điều Ác


Thưa quý đồng đạo,

Đáng lẽ phiên giảng bữa nay phải đình lại, vì tôi đã nhơm bịnh hơn hai hôm rồi, hiện giờ trong người vẫn còn yếu. Song vì ngày giảng lệ nửa tháng mới có một kỳ, nếu đình kỳ này thì phải chờ đến kỳ tới, nghĩa là phải chờ đến nửa tháng nữa mới có giảng lại. Như vậy lòng tôi không nỡ để cho kỳ giảng phải trôi qua một cách lạnh lùng, làm cho anh em đồng đạo phải một lần thất vọng.
Bởi đó nên tôi phải cưỡng lại với bịnh, để gặp gỡ đồng đạo trong kỳ giảng hôm nay.
Thưa quý đồng đạo, Hôm nay tôi xin giảng về: “Tai Hại của Điều Ác”.

Ác là kẻ gần gũi nhứt của tư thần.
Ác là một luồng gió làm tắt ngọn đèn trí huệ của kẻ hành đạo.

Và không còn ai mà chẳng hiểu nghĩa nôm của chữ ác là “dữ và xấu” mà cái dữ cái xấu này không có bờ bên nhứt định.

- Nếu cái ác nó đến con mắt của người thì sẽ làm cho con mắt ấy phải bị mù lòa.
- Nếu cái ác nó đến lỗ tai của người thì sẽ làm cho lỗ tai ấy phải bị điếc lằng.
- Nếu cái ác nó đến lỗ miệng của người thì sẽ làm cho lỗ miệng ấy phải bị câm ngọng.
- Nếu cái ác nó đến chơn tay của người thì sẽ làm cho chơn tay ấy phải bị cùi cụt.
- Nếu cái ác nói đến châu thân của người thì sẽ làm cho châu thân ấy phải bị hoạn nạn.
- Nếu cái ác nó đến đầu óc của người thì sẽ làm cho đầu óc ấy phải bị điên cuồng.
- Nếu cái ác nó đến tâm tánh của người thì sẽ làm cho tâm tánh ấy phải bị ngu độn.

Nói tóm lại, cái ác nó đến chỗ nào của con người cũng đều phải tai họa cả.
Và nếu một khi cái ác nó đến gia đình nào thì gia đình ấy phải tan nát, nó đến quốc gia nào thì quốc gia
ấy phải chịu tang tóc điêu linh. Thật cái ác nó không thua gì dịch khí, hễ mỗi lần đi đến đâu là vang tiếng kêu khóc của thiên hạ tới đó. Vì nó hay giết hại người rất thảm thê tức tối.

Và cái ác nó cũng như một con quỉ chín đầu thường giết hại người, moi móc gan ruột người và nó còn có mãnh lực xúi giục kẻ làm vua chúa mất công minh, kẻ làm cha mẹ mất nhân từ, kẻ làm tôi tớ mất trung tín, kẻ làm con cháu mất hiếu thảo, kẻ làm chồng vợ mất ân tình, kẻ làm anh em mất hòa thuận, kẻ làm bằng hữu mất thành thật và người giữa người này với người nọ mất hẳn thân cảm quyến luyến, gây ra lắm tấn kịch rất tồi tàn khắc nghiệt, chết chóc thê lương.

Đối vơi cái ác này nó còn nguy hiểm hơn bịnh ung thư gấp ngàn muôn lần. Vì bịnh ung thư chỉ giết hại
người ta được một đời thôi, còn cái ác nó sẽ giết hại con người muôn triệu đời, là bởi nó làm cho con người phải chìm đắm lặn hụp trong biển mê này, chịu mọi sự đau khổ chết chóc thê thảm đặng đền trả lại cái nghiệp ác mà nó đã gây ra trước đó không số đếm lường được.

Cho nên đối với kẻ tu hành tuyệt nhiên phải chừa bỏ tất cả việc ác, không hề lúc nào dám bàn, dám nói, dám nghĩ tưởng tới nó, phải coi nó như là kẻ thù độc nhứt, có đủ cách ngăn đón chống choi để mà tránh hoặc thắng được nó một cách vững mạnh.

Thưa đồng đạo,
Và cũng vì cái ác này mà Đức Thầy của chúng ta và biết bao nhiêu vị Tiên Phật khác mới rập nhau xuống thế, vừa kêu gọi vừa khuyến tấn cho chúng ta sớm tỉnh tâm tìm đạo tu hành, cải ác tùng thiện, hầu thoát được nỗi thảm khổ của quả ác đưa lại và mới có đủ đức hạnh giúp chúng ta đến cõi Thượng nguơn. Vì cái ác nó nặng như đá treo không làm cho ta tới bờ sông bên kia của Thượng nguơn được, chúng ta phải vứt cục đá ấy đi mới khiến cho thân của chúng ta được nhẹ nhàng, để tiện bề đi đến chỗ.

Vả lại, có sự tu của chúng ta hiện nay là vì chúng ta nhận nơi chúng ta đã có những điều ác hoặc lớn nhỏ, hoặc nhiều ít sợ nó kết quả không lành cho đời của chúng ta hiện giờ hay mai hậu mà chúng ta phải tu để chừa bỏ nó.

Thì việc bỏ ác đó là một lẽ cố nhiên của người tu chớ không có chi khác lạ, mà chúng ta phải nghĩ hoặc dần dà.
Và các tiên nhân của chúng ta xưa kia cũng nhờ chừa được các việc ác mà tạo nên địa vị cao qúi gọi la
ngôi Thánh, Hiền, Tiên, Phật di ân lại cho chúng ta sùng kính tới bây giờ. Ngày nay chúng ta đã được hiểu rõ chỗ đó, há lại không biết học lấy, không biết thùa thẹn hay sao.

Cho nên chúng ta hãy rán noi gương trước của tiền nhân ta, chịu khó nhọc làm được lẽ hiền đức và không hề để cho các thị dục xúi biểu vào những việc ác. Phải sống một cách đơn giản thanh kiệm, không cầu kỳ, không xa xí và cũng không quá tưng tiu cưng dưỡng xác thân một cách phi nghĩa hèn nhát. Nếu vì sự lợi ích cho mọi người mà tuyệt thân cũng không lấy làm tiếc, vẫn đủ đức hy sinh theo lẽ phải của công lợi.

Có được như thế, bảo sao ta chẳng làm nên Phật, nên Tiên, nên Thánh hiền như tiên nhân của ta được.
Thưa đồng đạo, Đức Thầy đối với chúng ta còn hơn tình mẹ với con không nỡ rời nhau, khi buộc phải rời nhau là lòng Đức Thầy lấy làm đau đớn và trông mau đến ngày hội hiệp.

Lẽ phải thì chúng ta cũng phải có sự đau đớn như vậy, trái lại chúng ta cho đó là thường sự, không lấy gì làm kích động, thì hẳn ra chúng ta là kẻ vong nghĩa và sự hội hiệp khó được như ý. Vì đôi đàng kẻ cút người bắt, kẻ nhớ người không, chẳng cùng trông nhau, tìm nhau thì sao gặp nhau được.

Mà sở dĩ có những sự lạnh lùng bội bạc này vì các ác tập, ác duyên làm chướng ngại cho ta nhiều hơn, bởi nó hay ghen lấy sự phải, sự tốt của mọi người cho rằng đó là khó khăn bất lợi.

Thưa đồng đạo,
Chúng ta có tin chăng? Đức Thầy đã thương chúng ta nhiều hơn gấp mấy lần của người mẹ thương con, vì lòng Đức Thầy là lòng của chư Phật, lúc nào cũng muốn cứu độ chúng ta chóng thoát khỏi nạn tàn sát của tử thần của vật dục. Song sự cứu độ này cũng phải nhờ ở chúng ta cố gắng một phần mới được. Nghĩa là chúng ta phải làm cho được những cái mà Đức Thầy đã dạy cho, rồi chúng ta sẽ được Đức Thầy cứu độ viên mãn. Chúng ta không nên không làm theo, hoặc giả có làm theo bằng cách lưng chừng, “thỉ cần chung đãi”, mà muốn có được sự cứu độ tròn vẹn của ức Thầy thì nhứt định không hề có được, bơi theo

Đức Thầy vốn là vô tư.
Hơn nữa, chúng ta như kẻ đã bị chìm lĩm dưới đáy sông, phải tự trồi lên mặt nước, rồi sẽ được người trên mạn thuyền cứu cho, chớ chúng ta không thể nằm đó chờ người trên mạn thuyền lặn xuống đáy nước mò vớt ta được. Nếu làm thế, chúng ta sẽ ngất đi vì sự cảm ứng không được mau lẹ tương xứng.

 Vả lại cái siêu, cái đọa là do mình tạo lấy, nếu hành thiện thì siêu mà hành ác thì đọa, chớ không ai làm thế cho mình được mà chỉ thường có được một vị khác như Tiên, Phật, Thánh thần chẳng hạn, đem dạy bảo chúng ta phương pháp để làm được đến chỗ an lạc mỹ mãn thì được, cũng như mình không biết đường sẽ nhờ đến người khác chỉ cho. Song đi hay không là do mình nhứt định lấy.

Xin nói tóm lại là, hiện giờ chúng ta phải diệt sạch những điều ác ở nơi chúng ta, rồi một ngày kia chúng ta mới kiến diện được Đức Thầy và Phật, Tiên, Thánh mà nhờ sự cứu độ của các Ngài và cũng là phương pháp giải thoát cho chúng ta vậy. Bằng trái lại, thì sự tu hành của chúng ta luống uổng, chẳng hề được hái lấy cái quả tốt đẹp nào cả.

Ngày qua là mất một ngày,
Đợi sa vào lưới mới quày kịp đâu.
Đất trời rộng lớn một bầu,
Không tìm chỗ trống lại vào chỗ gai.
Thương ôi ! chim mới học bay.
Ra ngoài mưa gió không tài đỡ ngăn.
Thương ôi ! kẻ đến cửa đằng,
Người sao bia phước vội vàng bể manh.
Thương ôi ! vận xấu vận lành,
Trời ông đã có sẵn dành từ ngăn.
Thương ôi ! sư đệ đường tăng,
Bốn ông vẫn được siêu đằng bốn ông.
Thương ôi ! cuộc thế mông lung,
Trần gian giấc ngủ vô cùng mê ly.
Thương ôi ! gặp đấng từ bi,
Mà không mấy kẻ trí tri được gần.
Thương ôi ! gặp hội Phong Thần,
Phải nên vùng vẫy khổ trần được qua.
Thương ôi ! cảnh huống quỉ ma,
Dập dồn bốn cõi người ta nhộn nhàng.
Thương ôi ! Thầy cách xa ngàn,
Tín đồ ngơ ngác như thoàn bị giông.
Thương ôi ! đông tựa bầy ong,
Khéo nên đúc ổ để phòng gió mưa.
Thương ôi ! sự thế dây dưa,
E không tránh khỏi giày bừa tội tai.
Thương ôi ! thế cuộc kéo dài,
Lòng người như thể tro ngoài bếp kia.
Thương ôi ! tình thế đê mê,
Lòng dân tan nát như dề bèo trôi.
Thương ôi ! sóng bủa dập dồi,
Lòng nào lại nỡ tung bồi hư ghe.
Thương ôi ! cửa đạo vắng hoe,
Trường đời đông nức người hè đua chen.
Thương ôi ! gặp phải vận hèn,
Nếu người sớm biết tâm rèn quang huy.
Thương ôi ! muốn chống tai nguy,
Phải nên hợp nhứt tu trì chánh chơn.
Không riêng ngồi dưỡng một thân,
Phải ra sức để Bốn Ân lo đền.
Đất đai kìa hỡi đừng quên,
Phải cần nỗ lực mà đền chút công.
Ơn cha mẹ tợ biển Đông,
Phải nên bảo vệ trọn lòng hiếu nhi.
Kia ngôi Tam bảo Liên trì,
Hãy nên sùng kính mỗi kỳ đừng quên.
Kìa đồng bào kế một bên,
Làm sao bù đắp được nên con người.
Thấy đời nạn ách chín mười,
Giảm đôi ba chút vội cười được sao.
Ngoài hiên gió thổi ồ ào,
Trong chùa tiếng giảng ngọt ngào veo lên.
Nói chung liệu lấy thì nên,
Mỗi người tự cất chân lên sen vàng.
Buồn thôi ! non nước mơ màng,
Giữa khi mưu mẹo dân càng khổ hung.
Buồn thôi ! ít kẻ lòng trung,
Xoi hang mạch nước tứ tung ngũ hoành.
Buồn thôi ! cho kẻ tu hành,
Một ngày niệm Phật không rành nữa câu
Nam mô Di Đà ở đâu,
Trong tâm rối loạn theo câu danh tình.
Buồn thôi ! tất cả sanh linh,
Đau mà chẳng chịu cứu mình khỏi đau.
Vì ai quá bẩn hơi dao,
Đứt tay rồi lại đổ nhào cho ai.
Buồn thôi ! đồng đạo gái trai,
Ngày kia ít kẻ Bồng lai được gần.
Buồn thôi ! Thầy tớ Sở Tần,
Dựa vào cớ ấy người lần vội quên.
Đạo đồng ơi hỡi muốn nên,
Nghe đây khuyên nhủ hãy bền chí tu.
Thú hùm ở giữa rừng sâu,
Tuy hung mà biết quay đầu tu thân.
Huống người mang lớp loại nhân,
Linh hơn vạn vật sao thân không giồi.
Buồn thôi ! kia hỡi buồn thôi !
Giảng ra từng tiếng gọi lời từng câu.
Thương nhau như rắn không đầu,
Như thuyền không lái trong bầu tối tăm.
Lắm người có miệng dường câm,
Sống trong khổ thảm âm thầm thở than.
Lời khuyên đây rất dịu dàng,
Mỏi mong đồng đạo một đàng mà đi.
Muốn sao cho được trọn nghì,
Với lòng nhứt nguyện hành y sám truyền.
Mấy khi mà gặp Phật Tiên,
Bỏ qua rồi phải khổ truyền ngàn thu.
Tu hành phải rán công phu,
Mỏi lao chịu được ngao du non thần.
Biết đâu xưa các thánh nhân,
Nhờ công rèn tập được phần thanh cao.
Nay ta kịp bước theo sau,
Hẳn là sẽ được chớ nào khác chi.
Đạo đồng chớ có mê ly,
Đường truông thăm thẳm bước đi nhẹ nhàng.
Mong sao tạo lấy chiếc thoàn,
Gọi thoàn Đức hạnh để sang qua bờ.
Từ đây đồng đạo chớ ngờ,
Lời xưa còn để sờ sờ mỗi câu.
Việc đời xét lại không lâu,
Như trời muốn nổ gẫm nào khó chi.
Dân ôi ! nguy thấy rằng nguy,
Sao chưa tỉnh thức tránh đi khổ nàn.
Nhìn Cà Mau đến Nam Quan,
Việt Nam gặp phải bao tràng đau thương.
E thân họa gởi tai vương,
Còn chi mà vội phấn hương đua kình.
Đa mang cái lốt phù sinh,
Tựa hồ bọt nước đầu gành khác chi.
Nay đời vô kế khả thi,
Gà đang trong vỉa khó khi ngoái đầu.
Từ đây khuyên hãy gắng cầu,
Bên nam bên nữ ngõ hầu chùi lau.
Còn chi hơn một sắc màu,
Để nên thế giới khen vào nước Nam.
Cuộc đời biết xử sao kham,
Kẻ ham liêm khiết người ham bạc tiền.
Nêu ra hai tiếng làm hiền,
Người cho là dại nỡ phiền không tu.
Ai ơi ! Báo ứng rất mầu,
Làm lành được phước dữ hầu mang tai.
Gió day cành lá lung lay,
Giặc nhà chưa dẹp có tài chưa an.
Lời van đây thật lời van,
Nghĩ nhau cũng một Hồng Bàng giống xưa.
Kêu nhau sớm thức kẻo trưa,
Nào đâu có giọng đẩy đưa ru người.
Dẫu cho ai có chê cười,
Lòng này cũng chỉ một đời yêu dân.
Tuy là phải bịnh riêng thân,
Chớ thân đã giả đâu cần nó chi.
Tinh thần siêu suất huyền vi,
Kịp xem thế giới có gì hiện ra.
Buồn cho bá tánh trẻ già,
Ít người ăn ở thật thà với nhau.
Đến chùa khẩn vái cho cao,
Về nhà bẩn việc quơ quào rối ren.
Từ đây đồng đạo gắng chen,
Kịp nơi Long Hội mới khen rằng hiền.
Lời khuyên thảm thiết lời khuyên,
Nghĩ đây cũng có lương duyên với người.
Ngàn xưa đã kết liên rồi,
Nên nay mới được cùng ngồi luận chung.
Ung dung lời lẽ ung dung,
Dầu ai có giận cũng không nỡ buồn.
Ai ơi ! Cây cội nước nguồn,
Phải nên nhớ lấy kẻo buồn Tổ tiên.
Sự tu cốt yếu chỗ hiền,
Giữ thân cho khỏi lụy phiền đến ai.
Vì thân còn bịnh chưa ngoai,
Dứt lời cầu chúc ai ai đắc thành.
Vì bịnh cho nên khó nói nhiều,
Đây xin vắn tắt luận vài điều.
Mong chờ kỳ tới bàn thêm nữa,
Cầu chúc chư hiền đạo được siêu.
15 tháng Tư Quý Tỵ -Tức 27 tháng 5-1953.

  THÁNG NĂM:
10- Ngày mùng 1 tại Tây An Cổ Tự: Điều Thiện

10- Ngày mùng 1 tại Tây An Cổ Tự: Điều Thiện


Thưa quý đồng đạo,
Hôm nay Mùng 1 tháng 5 năm Quý Tỵ, phiên giảng này là lần thứ 7 của phiên giảng thường lệ tại ngôi Tây An Cổ Tự, đã mấy lần giảng vừa qua lòng tôi không siết hoan hỉ và cảm động được thấy chư đồng đạo càng lúc càng đến tham thính đông đảo nồng nhiệt.

Như vậy đủ tỏ tấm lòng sốt sắng tu hành của anh em trong lúc Đức Thầy vắng mặt vẫn được còn nhiều.
Sở dĩ giữa tôi và đồng đạo cần phải gặp nhau nhiều lần tại ngôi chùa này là bởi chúng ta phải cần nhắc nhở và trao đổi sự hiểu biết cho nhau. Vì rằng trong đời, không một ai sống riêng biệt mà có sự hiểu biết đầy đủ được, mà là phải cần sự hỗ trợ của nhiều người, mới khiến cho cuộc tiến hóa của mình được đi đến chỗ hoàn mỹ.

Huống chi, trên đường Đạo đức lúc đầu rất cần đến sự tương trợ của người khác nhiều hơn, nghĩa là kẻ
tỉnh dắt người mê, kẻ ngu nhờ người trí, kẻ tối cậy người sáng và tất cả vấn đề của đời hoặc đạo trong
phạm vi nhơn sanh hay vũ trụ nếu không biết rõ đều phải nhờ đến người khác chỉ cho.

Có thế mới khiến cho cái biết của mình rộng ra và việc làm của mình không đến đỗi chênh lệch tội ác, sẽ đi đến kết quả như ý.

Thưa đồng đạo,
Hôm nay tôi xin “Giảng về Điều Thiện”.
Có thể định nghĩa chữ Thiện là tốt lành, mà cái tốt lành ấy không có hạn chế, nó phải ở trong phạm vi
quảng đại của toàn khắp nhơn loại chúng sanh, chớ không riêng của một người hay một việc mới là đầy đủ ý nghĩa cao siêu của nó vậy.

Thiện là một vị thần y chữa được cái ác bịnh của chiến tranh.
Thiện là cái chìa khóa mở được cánh cửa đau khổ ở địa ngục và nhân gian.

Và cái thiện nó sanh trong gia đình nào thì gia đình đó trên dưới được “Hiếu Từ Hòa Mục", nó sanh trong đất đai nào thì đất đai ấy được trị an phong phú và nó sanh ở một người nào thì người đó:

Cái thân khỏi ba điều tội:
  • 1- Giết Hại;
  • 2- Trộm Cướp;
  • 3- Tà Dâm.
Cái miệng khỏi bốn điều tội:
  • 1- Nói Láo Xược;
  • 2- Nói Đâm Thọc;
  • 3- Rủa Xả;
  • 4- Mắng Nhiếc.
Cái ý khỏi ba điều tội:
  • 1- Tham Rít;
  • 2- Giận Hờn;
  • 3- Lầm Lẫn.
Và sẽ còn tăng thêm nhiều cái tốt đẹp như là: Tư cách phong nhã, ngôn ngữ nhu hòa và hành động
chơn thật đáng yêu đáng kính của mọi người vậy.

Ngoài ra nếu việc chi họ muốn làm, sẽ được nhiều người tán trợ, khiến cho dễ bề thành đạt đến mức
thành công.

Chẳng phải vậy thôi, cái thiện nó còn có giá trị tuyệt đích, không những của thời xưa trọng dụng mà đối với thế giới ngày nay họ cũng vẫn kinh nể hẳn hòi mặc dầu họ đã tiến xa trên bước đường khoa học.

Bằng chứng là hiện giờ các cường quốc trên thế giới, họ đang hô hào kêu gọi và tìm đủ cách để đem lại hòa bình chung cho nhơn loại. Vì lẽ, nếu không chủ trì lẽ thiện, dĩ nhiên là phải chủ trì lẽ ác, mà cái lẽ ác là mầm mống dẫn đến sự giặc giã chém giết, làm cho nhơn loại phải chết chóc, tai hại một cách thê thảm. Điều này hầu hết nhơn loại không một ai muốn cả.

Và cũng vì những điều đau khổ nói trên mà Đức Thầy của chúng ta mới viết ra giảng kệ, để kêu gọi nhơn sanh:

- Một là tránh điều hung hăng táo bạo, để khiến cho mọi người cùng sống trên sự an vui hạnh phúc.
- Hai là cuộc thế sắp biến diệt, chỉ có những kẻ biết hướng thiện mới được tồn tại.

Nên chi Đức Thầy mới không nài sự khó nhọc nguy hiểm trong lúc cần phải thực hiện hai cái mục đích ấy.

Thưa đồng đạo,
Nhưng lòng của tôi cảm thấy, mặc dầu trong lúc Đức Thầy vắng mặt, chúng ta không đến đỗi bi quan thái quá, vì bên cạnh chúng ta còn có kinh giảng luật lệ, sẽ thay lời cho Đức Thầy như trong lúc có mặt, chúng ta sẽ lấy đó học và làm theo cũng tiến đến mục đích được vậy.

Song ngược lại, tôi lấy làm không vui nhận thấy sự tu hành của anh em trước năm 1945 đến năm 1953 này, trong hai khoảng thời gian ấy có sự thối chuyển quá nhiều, nghĩa là: trước năm 1945 việc tu hành đạo đức của anh em rất mực hăng hái bấy nhiêu, thì trái lại từ đó dẫn đến năm 1953 này càng lúc càng trở nên xao lảng bấy nhiêu.

Nhứt là từ năm 1948 trở lại đây, hình như không còn đầy đủ đức tin như trước nữa.

Chỉ thấy anh em đồng đạo trở lại xa hoa, phung phí, chè rượu, lả lơi, biết bao hành động nhơ nhuốc xấu xa, có tai hại cho tôn giáo, cho luân lý của nước nhà và của Đức Thầy đã chỉ dạy. Song dường như anh em không lấy đó làm buồn mà chỉ thấy cứ lầm lũi đi tới mãi.

Thưa đồng đạo,
Chắc đồng đạo cũng như tôi, mỗi khi nghĩ đến vấn đề này chi cho khỏi buồn tủi cho số nhưng người chẳng hiểu bổn phận thiêng liêng của mình nỡ làm những điều tội lỗi, mà hết sức tìm kiếm cách này cách nọ để đánh thức cho họ sớm được cải hối, đặng trở nên người có sự tốt đẹp như xưa.

Ngay như phiên giảng hôm nay cũng như bao nhiêu lần giảng vừa qua của tôi, cũng chỉ vì mục đích nói trên mà gắng sức kêu gọi từ lời một, trong mọi việc xấu tốt, lành dữ để làm cho anh em đồng đạo có cơ hội nhớ lại điều tội phước, sự dạy dỗ của Đức Thầy mà trau trỉa một phần nào, hầu có thù đáp lại công ơn hoằng hóa của Đức Thầy trong muôn một.

Thưa đồng đạo,
Tóm tắt  điều thiện là một lẽ cần yêu nhứt của kẻ tu hành, vừa lợi mình vừa lợi cho kẻ khác, nên chúng ta phải nỗ lực thực hành từ việc một của nó, cho đến khi được kết quả viên mãn.
Như vậy chúng ta mới có thể kỳ ngộ Đức Thầy trong ngày trở lại.

Bữa giảng hôm nay tiếng nhủ khuyên,
Đạo đồng nam nữ hãy ngồi yên.
Để nghe tiếng giảng và lời gọi,
Hầu nhớ trau tâm được trọn hiền.
Sanh ra ở giữa cõi đời,
Gặp đường đạo đức gặp người Thượng nguơn.
Gẩm xưa cũng đã hữu duơn,
Nay đây mới được nghe đờn không dây.
Đờn kêu Nam Bắc Đông Tây,
Mất còn chỉ một hội nầy mà thôi.
Đờn kêu gốc mụt đâm chồi,
Lạ nhơn, lạ vật, lạ đời bớ ai !
Đờn kêu thế giới ngày nay,
Khác nào trái chín trên cây bớ người !
Đờn kêu giặc bủa khắp nơi,
Con xa cha mẹ, vợ thôi mất chồng.
Đờn kêu con Lạc cháu Hồng,
Hiệp nhau để được ngăn dòng máu rơi.
Đờn kêu cuộc thế tả tơi,
Để mà lập lại cõi đời Thượng nguơn.
Đờn kêu tu tỉnh chớ sờn,
Hãy nên hăng hái gặp cơn thái bình.
Đờn kêu người hãy làm lành,
Để mà sống được như Bành Tổ xưa.
Đờn kêu lồng lộng lưới thưa,
Mảy lông không lọt hãy chừa tội gian.
Đờn kêu đồng đạo sửa sang,
Con đường chánh giáo phải toan một bề.
Đờn kêu thế cuộc đừng mê,
Hãy nên quay gót trở về cảnh xưa.
Sống đây là cái sống thừa,
Một ngày sắp đến không vừa nạn tai.
Đờn kêu đồng đạo gái trai,
Nhớ chăng gánh khổ một vai Đức Thầy?
Hiện giờ dong ruổi gốc gai,
Quyết đem cuộc thế đến ngày an cư.
Đờn kêu người phải thương người,
Kẻ lầm mình chớ nên cười nên khuyên.
Đờn kêu Châu Đốc, Long Xuyên,
Hữu duơn có Phật tại tiền rán tu.
Đờn kêu những kẻ say gù,
Hãy nên cương quyết ném bầu rượu đi.
Đờn kêu những kẻ mê si,
Hãy dùng trí huệ phá đi cho rồi.
Đờn kêu hãy tỉnh dân ôi !
Mấy khi gặp được cuộc đời đổi thay.
Muôn năm mới có một ngày,
Trễ qua rồi dẫu kiếm hoài không ra.
Ngày nay kẻ gần đến xa,
Tới đây nghe giảng thiết tha trăm chiều.
Chính đây không phải nói liều,
Chỉ lòng nguyện chúng được siêu kiếp này.
Để chơn theo dõi Đức Thầy,
Cũng đà xét gẫm xưa nay nhiều lần.
Hỡi dân khuyên hãy tỉnh thần,
Đừng cho lay chuyển nguồn ân của Thầy.
Đạo đồng giữ vẹn đường ngay,
Dầu cho lao lý chớ phai tấc lòng.
Bởi đời còn quá long đong,
Nên chi nhiều cuộc gai chông đến mình.
Tâm kia khuyên hãy lặng gìn,
Để ngày kết cuộc phỉ tình ước ao.
Thương ôi ! những kẻ sang giàu,
Nay quên đạo đức sau nào kiếm ra.
Thương ôi ! kẻ quyền ó la,
Làm điều bất chánh ra ma sau này.
Thương ôi ! tớ phải xa Thầy,
Những đem nhiều cuộc bừa giày lâm ly.
Nhưng lòng không quá kham bi,
Tin rằng cũng có một kỳ giải oan.
Ai ôi ! cuộc thế mỏng màn,
Dầu rằng có lắm bạc vàng chẳng vui,
Sợ e như mít sút cùi,
Đời kia không thể cùng vui Phật đài.
Rán lo trau trỉa giồi mài,
Mỗi lần nghe giảng thêm say mỗi lần.
Dầu cho ai đẩy xô thân,
Trơ trơ như đá trân trân như đồng.
Nguyện sao cho đến non Tòng,
Gần như Tiên tử thỏa lòng ước mơ.
Ai ôi ! hãy rán chớ ngơ,
Được cành dương liễu Phật Bà rải cho.
Đời này nhiều nỗi gay go,
Nếm vào cho đủ đặng dò chua cay.
Ở trong cái dở có hay,
Gặp khi nạn ách biết nay lòng người.
Buồn xem cho khắp kẻ đời,
Buổi đầu sốt sắng sau rồi ngó ngang.
Sự tu không được vững vàng.
Khó mà đi đến Niết bàn bớ ai !
Vì đâu tu tỉnh ngày nay,
Bởi đời sắp rốt cận ngày Thượng nguơn.
Ai ôi ! hãy rán sửa thân,
Ngày Thầy trở lại mới gần một bên.
Luật xưa thật rất là nghiêm,
Không tư không vị mãi tìm lẽ công.
Ngày nay những kẻ bần nông,
Mà tâm chánh trực sau không mất phần.
E người oai thế cuộc trần,
Lòng không chơn chánh ắt thân chẳng rồi.
Dân ôi ! kìa hỡi dân ôi !
Ngày nay khuyên nhủ hãy ngồi lặng nghe.
Sắt kia nếu chẳng gặp đe,
Sao nên món dụng đâu ra hình hài.
Muốn nên được lúa phải cày,
Gia công khó mới có ngày được no.
Muốn thân hưởng được thơm tho,
Đường chơn lẽ chánh hãy dò mà đi.
Cuộc đời vinh nhục thạnh suy,
Hãy nên chọn lấy kẻo khi lỡ làng.
Vui chi với cái hoa tàn,
Đời này còn có một đàng phải tu.
Tuy là không thấy chi đâu,
Chớ ngày kết cuộc nhiệm mầu ai đương.
Ngày kia biến đổi âm dương,
Những người sùng phụng khói hương được còn.
Nam Vang lại với Sài Gòn,
Tuy đông nhưng rốt không còn mấy ai.
Đổi về Bảy Núi mới hay,
Để cho vạn quốc biết tay Việt Thường.
Ngày nay dân chúng thê lương,
Vì là vận hội Thánh Vương còn mờ.
Chẳng qua vì lá Thiên thơ,
Thời kỳ chưa đến ngó tờ giấy không.
Chừng khi lộ chữ sắc hồng,
Là người mới rõ tấm lòng Thần Tiên.
Đây là một lẽ cơ huyền,
Nhìn ngay bàn Phật hiểu liền bớ ai !
Khuyên nhau hãy rán siết tay,
Cùng đi một nhịp đến ngày hoàn chung.
Có khi ngư thủy tương phùng,
Là ngày dân chúng thỏa lòng ước ao.
Cá kia nay mãi trông sao,
Bị mây che án khó lao được mình.
Chờ cho lộ được Long Đình,
Hội nhà đã đậu thì mình mới ưng.
Dửng dưng trước Mặc Cần Dưng,
Lao lung vàm thuận muôn phần ngẩn ngơ.
Ai ôi ! tâm tánh quá mờ,
Hãy nên chùi rửa mà nhờ thân sau.
Đây vang tiếng kệ kêu gào,
Muốn người được có một màu với đây.
Cũng đồng tôn kính Đức Thầy,
Cũng đồng vẹn vẽ tháng ngày lo tu.
Mặc ai gây oán kết thù,
Nếu nhân không có quả đâu có nào.
Ai ôi ! muốn được làm giàu,
Phải nên tích trữ đã lâu mới thành.
Cũng như muốn được nên mình,
Phải cần trau sửa giữ gìn nhiều năm.
Ngày nay Phật để vào tâm,
Ngày mai ma quỉ đâu xâm được nào.
Dân ôi ! thấy cảnh bên Tàu,
Lớp thời giặc giã lớp nào đói cơm.
Thấy người mình phải giữ thân,
Kẻo ngày kia cũng đến gần như ai.
Nhớ chăng Triều Tiên hôm nay?
Nước ta e cũng có ngày giống in.
Nếu như không biết giữ gìn,
Để lầm chỗ quấy xác hình nát tan.
Trên đời xác thịt đã mang,
Dầu ai cũng phải chịu đàng tử sinh.
Nhưng hồn chết được hiển linh,
Để đời còn chút tưởng tin với nào.
Chớ như chết cảnh hoạt đầu,
Để đời có chỗ biếm bao vô cùng.
Đùng đùng tiếng nổ đùng đùng,
Bao tròn Đông Á vô cùng thảm thê.
Ai ghê tôi cũng đồng ghê,
Ai không tôi cũng chẳng hề ngơ tai.
Phận mình rán uốn cho ngay,
Có khi thong thả trở tay cứu người.
Ngày nay thế cuộc gần rồi,
Để chờ lóng được thì đời mới xinh.
Gọi kêu ai phải rán tin,
Tin lời chơn chánh mà gìn tâm tu.
Kêu nhau cho rõ đạo mầu,
Gọi nhau được biết cao sâu đạo đời.
Như tôi cũng thể mọi người,
Theo Thầy học đạo lánh đời dối gian.
Nhờ đâu được có điễn quang,
Bởi duyên kiếp trước, cũng toan buổi này.
Chờ khi tớ gặp được Thầy,
Mới tường thiệt giả rõ tay anh hào.
Hỡi này đồng đạo, đồng bào !
Rán tu nhờ lấy không nài ép ai.
Người tu thì của người xài,
Chớ đây không có ép nài hoặc thêm.
Người thành người quán cổ kim,
Không thành người chịu những điềm hung tai.
Như đây thương xót gái trai,
Cũng đồng nhơn loại trong ngày điêu linh.
Với là đồng đạo đồng trình,
Nên đây phải rán lời lành nhủ khuyên.
Biết sao cho toại trần duyên,
Kẻ nghe thời thích người phiền biết sao.
Nhưng ôi ! người có thấp cao,
Thì tâm kia cũng nhiều màu hiển nhiên.
Hơi đâu chát nỗi ưu phiền,
Đời còn mê muội Phật Tiên rộng tình.
Chê người tức thị chê mình,
Thương người đó lại trở thành thương thân.
Mong nhau gìn vẹn Bốn ân,
Với Mười điều thiện một lần nầy đi.
Chừng sau không cánh không vi,
Trên không bay được rõ khi nhiệm mầu.
Nay còn chờ cuộc đáo đầu,
Muốn mau không được kéo lâu chẳng rồi.
Dân ôi ! kìa hỡi dân ôi !
Lời khuyên đây đã cạn lời hãy nghe,
Trở về lóng tánh trong ve.
Để soi được mặt để khoe được hình.
Gọi rằng định huệ viên minh,
Nay còn xao xuyến chưa sinh chỗ mầu.
Lời khuyên ai hãy nhớ lâu,
Khi ra về cũng cần âu sửa mình.
Đến đây đã dứt lời lành,
Chúc cầu cô bác chị anh được thiền(g).
Giảng kệ đến đây đã dứt rồi,
Hình như đồng đạo chưa đành thôi.
Nhưng mà giảng lệ còn kỳ khác,
Xin hãy vui lòng để bước lui.

Mùng 1 tháng 5 Quý Tỵ -Tức 11 tháng 6-1953.
11- Ngày Rằm tại Tây An Cổ Tự: Sự Ham Muốn và Niệm tưởng chơn chánh

Ngày Rằm tại Tây An Cổ Tự: Sự Ham Muốn và Niệm tưởng chơn chánh

Thưa quý đồng đạo,
Hôm nay ngày Rằm tháng 5 năm Quý Tỵ, lần giảng này là phiên thứ 8 của ngày giảng thường lệ tại ngôi Tây An Cổ Tự.

Lần này cũng như bao nhiêu lần khác, tôi không xiết vui mừng được thấy sự tu hành, lòng đạo đức sốt sắng của chư đồng đạo biểu lộ bằng cách đông đúc ở mỗi phiên giảng.

Thấy thế, tôi không sao quên được sở hướng của chúng ta mà có những lời khích lệ cho nhau được
phấn tấn thêm lên, được đến khi hoàn thành mục đích cứu cánh duy nhứt trên đường tu học Phật Pháp.
Thưa quý đồng đạo, Hôm nay tôi xin giảng về “Sự Ham Muốn và Niệm tưởng chơn chánh” phải được như ý.

Người tu không phải tuyệt nhiên chẳng có sự ham muốn mà sự ham muốn vẫn luôn có và có nhiều.
Song cái ham muốn ấy nó từ thiện chơn chánh, nghĩa là trên con đường lành kẻ tu hành đầy khát vọng
cho sự từ thiện chơn chánh của mình chóng đến kết quả. Nên đem hết nghị lực để đương ngăn và ruồng bỏ tất cả việc xấu xa đã qua và sẽ tới.

Có nhiều khi xóa bỏ cả gia đình, tài sản và tánh mạng của mình để cung phụng cho ý nguyện cao cả của đạo mà không hề nghĩ đến sự gian lao nghèo ngặc. Cái ý nguyện ấy giá như phải đổi bằng mọi sự đau đớn cùng kiệt cả đời mình, cũng vẫn vui vẻ hăng hái để theo dõi đến ngày kết quả như ý.

Đấy không khác nào kẻ tập bắn cung, muốn cho mình trở nên người thiện xạ thì phải nhắm ngay hồng
tim để thao luyện, lúc đầu còn sai chạy, Song nhờ kiên chi lâu ngày, đến sau chắc được trăm phần trúng đích.

Đối lại việc chế ngự cái ý muốn của người cũng thế, ban sơ nó còn xen tạp nhiều việc, một khi rèn luyện cho nó được thuần rồi thì chỉ tồn lại có một cái muốn chơn chánh thôi.

Đến đây ta mới thấy bao nhiêu điều tốt lành sáng sủa nó hiện bày nơi ta và mỗi kẻ chung quanh, bằng cách tội lỗi ngu độn ác khí nặng nề nó không còn lai vãng đến ta nữa, vì trong người ta không có cơ cảm mọi việc đó.

Vả lại cái ý muốn nó có quan hệ cho hiện hữu và tương lai của người rất nhiều, nó có thể giúp cho
người được đầy đủ về tinh thần cũng như vật chất.

Song nó cũng dễ hại người không khéo sử dụng nó vào việc chánh đáng và nó dễ bị cảm nhiễm, song nó thuộc hạ của bản tâm, nếu tâm được chủ trì thì cái ý nó không sao có những cái muốn xằng bậy được.

Như thế là ta đã nắm được cái yếu điểm của ý muốn rồi vậy. Đồng thời, chúng ta còn phải đào luyện cái
niệm tưởng cho được thanh khiết.

Niệm tưởng có thể coi nó hơn một kẻ trộm nghề, rong một tít tắc đồng hồ, nó có thể vào ra nhà này nhà
nọ và khắp cả thế giới một cách nhanh chóng quỉ quyệt mà con người khó tìm thấy tung tích hoặc ngăn
chân trước được.

Từ chỗ niệm tưởng sái quấy dẫn đến hành động tội lỗi dễ dàng, như người chơi dao dễ bị đứt tay.

Chúng ta trong lúc cúng lạy, như khi ngồi niệm Phật đều phải có sự niệm tưởng tha thiết cố kéo cho tinh  thần giữa mình với chư Phật được gần nhau.

Ngoài ra, không thể có cái niệm tưởng nào khác chen vào, cũng như Quan Công quá ngũ quan, trảm lục
tướng để tìm Lưu Bị thì mới có hiệu quả trọn vẹn.

Một khi cái niệm tưởng đã được duy nhứt cùng Đức Phật, ta sẽ cảm thấy giữa ta và Đức Phật được cảm
thông trực tiếp, không bị một “Hoặc Trần” nào làm chướng ngại.

Đến đây ta sẽ được tự do đi lại khắp chỗ “Sắc Không” mà chẳng hề bị cảm nhiễm, vì ta đã trở về một
lẽ chánh niệm như của chư Phật.

Nhân đó bao nhiêu đức tánh Từ, Bi, Hỷ, Xả, ta sẽ đem ra thực hiện cho chúng sanh mà không bị núi
nhơn ngã cản trở, lửa sân hận thiêu đốt hoặc nọc phiền não giết hại lòng bi nguyện thâm thiết của ta
được.

Như thế là ta nắm được phương tiện vi diệu, để quyền thiệt hóa độ chúng sanh do theo cái “Chánh
niệm” của chúng ta và ta sẽ không còn e ngại mãnh lực của tử thần quấy nhiểu nữa vậy.

Thưa quý đồng đạo,
Sở dĩ chúng ta phải luôn luôn khắc nghiệt với mọi ham muốn và niệm tưởng xấu xa nơi ta, là bởi chúng
ta đã xác nhận có nhân quả, địa ngục và có luân hồi.

Vì rằng nếu ta gieo hột giống “Ham muốn niệm tưởng xấu xa” sẽ không tránh khỏi ngày kia hái lấy
Bông trái xấu xa”, nghĩa là khi ta có làm việc chẳng lành thì sẽ bị việc chẳng lành trả lại mà vào khám đường thế gian, hay địa ngục u minh, hoặc bào thai cõi trần cũng là một cái phản ứng của luật nhân quả ấy mới có.

Ngoài điều này, chúng ta còn dư biết con người của ta sẽ già, sẽ bịnh va không tránh khỏi cái chết, nên
chúng ta không chậm lại lúc nào mà chẳng quan thiết sự tiến đến mức giải thoát cho khỏi nỗi thống khổ của vô thường trong kiếp này và kiếp tới.

Vì thấy ngày giờ không lúc nào nó theo ý muốn của ta mà dừng lại, mà là nó đi là cứ đi, cho đến ngày này ngày khác cũng vẫn như thế mãi, mà hễ một phút qua là mất của ta một phút sống, mà càng nhiều phút qua là càng mất của ta thêm nhiều phút sống nữa vậy.

Đành rằng kiếp này đã lỡ mang xác chất tứ đại, hẳn không thể tránh được ngày tan rã của nó, song ta cứ
dự bị, cứ tranh thắng với tử thần trong muôn ngàn kiếp sẽ tới, bằng hiện giờ ta không gây tạo một nhân
nghiệp oan nghiệt, luyến ái nào ở cõi này thì không do đâu mà ta sanh lại cõi này được.

Nếu không vào cõi Ta bà này, thì mọi sự đau khổ chết chóc đối với ta chẳng khác nào sương đối với mặt trời. Ta sẽ sống một cách tự tại nơi cõi vô biên cõi Cực Lạc của chư Phật và sẽ có đủ công đức cứu khổ chúng sanh khỏi biển mê đồ trở về đồng hưởng tự tại như ta.

Tóm lại, những điều trên đây là việc đáng cho kẻ tu hành “niệm tưởng và ham muốn” mà lúc nào nơi lòng chúng ta cũng mong mỏi thiết tha cho được như ý nguyện.

Đã sanh ra giữa cõi trần,
Ít người thoát khỏi nợ nần đã gây.
Gỡ ra thì có mấy ai,
Buộc vào xem thấy đời nay nhiều người.
Muốn sao ra khỏi bể vơi,
Một phen tu tỉnh lánh đời mê si.
Cõi trần giấc mộng lâm ly,
Một cơn thức tỉnh việc chi không còn.
Nhớ đây cuộc tạm thon von,
Mọi điều vẫn có hao mòn mãi thôi.
Cõi trần khổ lắm ai ơi,
Con đường đạo đức trau giồi chớ quên.
Làm sao cõi Phật được lên,
Thoát đường sanh tử mới bền bớ ai !
Mấy khi người cổ tái lai,
Nếu không trở gót uổng thay muôn đời.
Kệ cơ giảng giải hết lời,
Mà lòng sanh chúng ít nơi tín thành.
Mỗi khi nhìn mối đạo lành,
Tâm hồn dường thể ai đành xé tan.
Thương dân xào héo tim gan,
Mến người cảnh khổ mới toan khuyên người.
Nhưng ôi ! mấy kẻ nhớ lời,
Tưởng đây là quyến rũ người mê man.
Biết đâu cuộc thế sắp tàn,
Cho nên Tiên Phật hiệp đàng tái lâm.
Một phen đạo lý ca ngâm,
Khiến người sớm biết để tầm đức ân.
Ngày kia được lánh mê tân,
Kẻo mà hối tiếc muôn phần bớ ai !
Đạo đồng già trẻ gái trai,
Đi nghe lời giảng bấy nay cũng nhiều.
Hỏi ra nhớ được mấy điều,
Phần nhiều kia lại vắng hiu có nào.
Lời khuyên thật rất ngọt ngào,
Chỉ vì muốn kẻ được mau đắc thành.
Nhiều khi tâm trí Sĩ Thanh,
Tủi buồn thương xót chị anh sau này.
Tuy rằng bổn đạo Đức Thầy,
Không làm chơn chánh sau này cũng tiêu.
Khác phe mà giữ luật điều,
Ngày kia cũng được sống nhiều hơn ai.
Công bằng lẽ ấy không sai,
Hỡi người đồng đạo hôm mai rán gìn.
Khuyến ca đây cũng hết tình,
Ngặt lòng kia chẳng biết gìn làm sao.
Tưởng cho nơi cõi trần lao,
Được còn mãi mãi nên xao lảng lòng.
Ai ôi ! hãy rán làm xong,
Một là có đức, hai công với đời.
Ngày kia mới được chói ngời,
Sống còn trong phút lập đời bớ dân !
Nhìn nhau mà luống buồn bâng,
Thương nhau không thể ngại ngần lời chi.
Khóc đời gặp đấng từ bi,
Mà tâm kia lại ngảnh đi không tìm.
Khóc đời mê luyến đời kim,
Không noi người cổ thoát miền lao lung.
Khóc đời sao quá đỗi hung,
Ngày kia tan tác như bùn gặp mưa.
Khóc đời hẹn sớm quên trưa,
Với lòng sao lại không ưa Phật Trời.
Khóc đời gặp lúc chuyển dời,
Thân kia có thể yên nơi bớ trần.
Khóc nhau khó đến non thần,
Bởi mình còn nặng nợ trần quá ư.
Khóc nhau khó gặp Tôn sư,
Bởi lòng xao lảng không như buổi đầu.
Khóc nhau chia áo rẻ bâu,
Chẳng đem dạ mến cứu nhau buổi này.
Khóc nhau miệng nhắc Đức Thầy,
Mà lòng kia lại tà tây không rời.
Khóc nhau lời chẳng nhớ lời,
Đua theo hiện hữu quên đời Thượng lai.
Khóc nhau khó đến ngày mai,
Bốn phương giặc giã xâu tay giật giành.
Khóc nhau như sợi chỉ mảnh,
Chẳng toan kết lại cho thành xấp tơ.
Khóc nhau như đứa con thơ,
Một khi vắng sữa ngẩn ngơ khóc oà.
Khóc cho quả đất chúng ta,
Một khi thay vỏ thiết tha muôn vàn.
Hỡi này tất cả xóm làng,
Đường tu khuyên hãy kiên gan một màu.
Dù cho gian khổ thiên lao,
Cũng là vững bước chớ xao lảng lòng.
Còn chi ray bưởi mai bòng,
Đời này hãy rán một lòng lo tu.
Tránh sao khỏi vướng ngục tù,.
Thoát ra cảnh ngoại vân du vui cười.
Đây là thế kỷ hai mươi,
Đổi thay phút chốc cuộc đời khác xa.
Muốn dân lớn nhỏ trẻ già,
Được đi đến chốn xem mà hội Tiên.
Hưởng đầy thú vị thiêng liêng,
Khỏi cam thống khổ nơi miền phàm gian.
Nhưng nay phải rán lo toan,
Trên đường đạo hạnh sửa sang một bề.
Trong nhà ngoài ngõ chỉnh tề,
Xử thân cho vẹn không hề lao đao.
Việc đời chớ hỏi chừng nào,
Hãy nên lượng xét trước sau thời tường.
Chiến tranh nổi dậy khắp đường,
Cuộc đời lay lắc như dường lá rung.
Biết sao khắp cả cõi hồng,
Cùng nhau được có một lòng mà thôi.
Nay đây thế cuộc hỡi ôi,
Bởi tâm dân chúng vô hồi rẻ chia.
Càng suy giọt lụy đầm đìa,
Thế mà trông Đức Thầy về làm sao.
Lời khuyên tiếng dạy không trau,
Mãi lo các cuộc mận đào lợi danh.
Làm dân còn chẳng vẹn mình,
Mong gì sau được đắc thành Phật Tiên.
Hỡi này đồng đạo đồng thuyền,
Hãy nên ghi nhớ đeo liền chánh chơn.
Khuyên nhau nay được gặp cơn,
Có vì Tiên, Phật, Thánh, Thần giáo răn.
Nên ghi nhớ Phật, Pháp, Tăng,
Với lòng hôm trước vẫn năng kỉnh thiền(g).(*)
Làm xong được mọi việc hiền,
Cũng như được có chiếc thuyền qua sông.
Tiện bề đến Hội Hoa Long,
Vững vàng tới được cõi Bồng bớ dân !
Có thân hãy liệu lấy thân,
Trễ chơn ắt phải lâm cơn tai nàn.
Mỗi người đều có gia cang,
Hãy khuyên nhau được bền gan tu hành.
Ông tu ông đắc đã đành,
Nhưng lòng phải rán giữ gìn vẹn hai.
Chớ cho cuộc thế dằng dai,
Sợ khi biến đổi không hay bớ người !
Khác chi nơi giữa lừng trời,
Bỗng nhiên mây nổi rồi thời mưa sa.
Huyền vi khó lượng thay là,
Không toan trước đến sau mà khó toan.
Làm sao giờ chót trẩy sang,
Qua nơi Văn Giáo khỏi mang thương nghèo.
Hai bên đầy dẫy hùm beo,
Giữa thời dân chúng cùng reo tiến hành.
Chừng khi nước đến Nam Thành,

(*) Kỉnh thiền hay kỉnh thiềng: nghĩa là kỉnh thanh. Như trong
trang kế tiếp: “Sớm hôm thành kỉnh mới hầu được nên”

Nhìn ra mới thấy nơi mình máu không.
Ngày nay tu niệm coi đông,
Đến khi thành tựu gẫm không mấy người.
Thấy vui mà chẳng dám cười,
Thấy buồn lại gắng khuyên đời nhớ ghi.
Làm sao khi đến trường thi,
Tay rinh nhành quế thiệt ni anh tài.
Bây giờ tập viết học bài,
Để lòng cho thuộc đến ngày ứng khoa.
Đạo đồng hãy nhớ kỹ ra,
Thi đây thi chỗ lòng ta hiền lành.
Ngày kia các đấng thần minh,
Tùy theo mỗi xác hiền lành mượn tay.
Để hầu cứu độ muôn loài,
Chuyển xoay đất nước thoát tay hung tàn.
Bây giờ tâm chẳng sửa sang,
Ngày kia ma quỉ chúng mang đến vào.
Chừng ni cờ sắc đủ màu,
Hãy tùy theo ngọn cờ nào chánh chơn.
Nhớ ghi cho rõ nguồn cơn,
Lá “Cờ Dà” gẫm là hơn mọi cờ.
Nhưng không có chữ bao giờ,
Mới là của quí để chờ mai sau.
Hỡi này đồng đạo sửa trau,
Trên đời quả thiệt hai màu trộn pha.
Có thật thì có giả ra,
Nhưng ôi ! tồn tại gẫm ra lẽ mầu.
Sự tu cần phải gắng cầu,
Sớm hôm thành kỉnh mới hầu được nên.
Ngoài ra việc thiện cứ bền,
Lo làm tất cả lẽ hiền chớ xa.
Như xưa Đức Phật Di đà,
Làm vua ngôi vị hơn mà nhơn dân.
Một khi gặp Phật ứng thân,
Hy sinh tất cả không cần món chi.
Bốn mươi tám nguyện còn ghi,
Đầy lòng bác ái từ bi với đời.
Chẳng ham danh vọng của người,
Không tham phú qúi gặp nơi nhiệm mầu.
Đạo đồng dẫu phải chờ lâu,
Với tâm kia chớ nghĩ đâu xa vời.
Xung quanh đều có đất trời,
Xét soi mỗi lúc xin người chớ quên.
Chẳng qua Thiên định chưa yên,
Vẫn còn hì hụt để đền quả căn.
Một khi huyền trướng phá băng,
Ơn trên Phật định thời an mọi bề.
Đạo đồng rán dứt tâm mê,
Ngày kia sẽ được quay về Cõi Không.
Nhắc đi nhắc lại Hoa Long,
Hoa Long chưa tới người hòng chưa tin.
Cũng như cái kiếp phù sinh,
Dù ai cũng chết lòng mình chưa ghê.
Nói rằng cõi Phật xang xuê,
Nhưng người chưa thấy chưa mê chút gì.
Chừng nào hiện trước mặt thì,
Giựt mình ắt cũng chạy đi rộ rần.
Nói xa rồi lại nói gần,
Giác lui giác tới mọi phần giả chơn.
Tùy thời tùy cảnh tùy duơn,
Tùy tâm ham mộ để phân cho rành.
Sự tu thì phải nhớ hành,
Được lòng chơn chánh công thành khỏi đâu.
Ngày giờ mau tợ bóng câu,
Dân ôi ! phải biết nơi đâu mà hành.
Con đường chơn chánh phải lành,
Là nơi siêu việt hãy tin một lòng.
Ngày nay muôn việc cõi hồng,
Rán chiều một thứ hẳn không được bền.
Mong người cứ bước mãi lên,
Đến Lư Bồng hội đáng nên tu hành.
Giảng cơ đã chỉ đành rành,
Từ phương xử thế đến mình tu thân.
Dạy cho Mười Thiện, Bốn Ân,
Diệu Đề, Bát Chánh đã phân quá rành.
Chỉ còn nay phải thật hành,
Thì là được thấy huệ linh chớ gì.
Đạo đồng diệt sạch lưới nghi,
Hãy nên tin quyết thoát ly tai nàn.
Đây là cõi mộng trần gian,
Hiệp tan tan hiệp muôn ngàn chưa xuôi.
Nhìn nhau mà luống ngậm ngùi,
Sợ nhau như trái chín mùi trên cây.
Nhìn nhau mà nhớ Đức Thầy,
Vắng nhà để lại một bầy con thơ.
Nhìn nhau mà luống ngẩn ngơ,
Không Thầy bổn đạo như tơ rối cuồng.
Nhìn nhau buồn chưa hết buồn,
Bởi còn trong cảnh quay cuồng chiến tranh.
Nhìn nhau xào úa năm canh,
Muốn sao được một tâm thành như nhau.
Nhìn nhau thống thiết kêu gào,
Để đi đến chỗ khỏi vào thiết lung.
Nhìn nhau xào héo tim trung,
Kêu nhau hãy rán vẫy vùng kiên gan.
Nhìn nhau như ngọn đèn tàn,
Nhán lên thật sáng để toan tắt lỳ.
Cuộc đời này có ra chi,
Hãy nên gác bỏ nó đi cho rồi.
Cũng ăn cũng mặc như người,
Mà tâm đã lánh khỏi đời phàm nhân.
Hỡi này đồng đạo xét phân,
Giảng cơ đâu có lựa lần với ai.
Nói thời chỉ dụng lời ngay,
Vì tình bác ái phô bày đấy thôi.
Nghe không thì cũng mặc người,
Với lời đáng nói hẳn thời phải phân.
Khuyên nhau hãy nối gót chân,
Đừng cho rời rạc khỏi cơn nguy nghèo.
Một khi qua khỏi suối đèo.
Đến nơi trống trải nạn nghèo hết mang.
Vắng Thầy ta phải gian nan,
Gặp Thầy như được nhàn an lắm rồi.
Giả chơn nay mới rõ đời,
Vạy ngay chỉ ở khi người thiếu cơm.
Có khi nghèo giữ tiếng thơm,
Đến chừng có của, rạ rơm không cần.
Khuyên nhau vững bước một lần,
Đến ngày lập hội Non Tần mới yên.
Lời khuyên đây thật lời khuyên,
Khuyên nhau hãy rán làm hiền đấy thôi.
Đến đây bài giảng hết rồi,
Xin chào đồng đạo sớm hồi bình yên.
Giảng kệ khuyên nhau tiếng dịu dàng,
Chỉ vì muốn đến hội Nhà Bàng.
Không phân để kẻ lâm sầu mộng,
Nên phải đôi lời gọi réo vang.
15 tháng 5 Quý Tỵ - Tức 25 tháng 6-1953.
12- Đêm 17 tại Tây An Cổ Tự nhân dịp Lễ kỷ niệm

Đêm 17 tại Tây An Cổ Tự nhân dịp Lễ kỷ niệm

Đệ Thập Tứ Châu Niên ngày Đức Thầy khai sáng nền đạo Phật Giáo Hòa Hảo: Giảng về Sự Tu, Thanh Sĩ tôi cúi đầu chào tất cả đồng đạo nam nữ,
Muôn kiếp siêu không một kiếp này,
Cam lồ một giọt giã cơn say.
Thắm mùi thiền tịnh phai mùi tục,
Hẹn với Long Hoa có một ngày.

Thưa quý đồng đạo,
Còn nhớ 14 năm trở về trước ở Nam Việt có hơn 2 triệu linh hồn đương ngủ vùi trong màn danh lợi. Bỗng có tiếng chuông từ làng Hòa Hảo, quận Tân Châu hạt Châu Đốc ngân lên, khiến cho mấy triệu linh hồn ấy bắt đầu rung cảm tỉnh dậy.
Tiếng chuông ấy của Đức Huỳnh Giáo Chủ đánh lên, hơn 2 triệu linh hồn ấy của khối tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo và hôm ấy chính là ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão.

Thưa quý đồng đạo,
Mai này đến lễ kỷ niệm năm thứ 14 ngày Đức Huỳnh Giáo Chủ, là Đức Thầy của chúng ta, khai sáng mối đạo Phật Giáo Hòa Hảo.

Để tâm hồn sống lại 14 năm qua khi giữa nhau còn thắt chặt mối tình yêu đương đạo đức một cách tuyệt luân, không chỉ hơn là hiện thời giờ chúng ta cần nhắc đến công lao và giáo lý của Đức Thầy đã từng dạy dỗ cho toàn cả bổn đạo, khiến cho nhau từ nhỏ chí lớn được nhớ lại, hầu có hăng hái thêm lên, để trau giồi đức hạnh cho tới ngày trọn lành trọn sáng.

Nhân đây tôi xin “Giảng về Sự Tu”.
Tại sao ta phải tu? Xin trả lời:
Sở dĩ ta phải tu là vì có ba nguyên nhân khẩn yếu như sau:

1- Nhân Quả Sâu Nhiệm.
2- Thời Kỳ Độc Nhứt.
3- Chơn lý Bất Diệt

- Cái sâu nhiệm của nhân quả đã được giữ vững giá trị của nó từ vô thỉ dĩ lai, trên khắp cả nhơn loại chúng sanh, là hễ làm lành thì sẽ gặp lành, làm dữ thì sẽ gặp dữ. Chí đến một mảy nhỏ của người tạo ra đều có báo ứng hẳn hòi.

- Cái thời kỳ độc nhứt là Thượng cổ trở lại, buổi hạ nguơn sắp tàn, bao nhiêu oan gia nghiệp báo của
chúng sanh đã gây tạo từ trước đến nay đều phải đền trả gấp rút, để kịp thời kỳ của Tam Hoàng mở hội định phân tội phước cho chúng sanh các giới, được có thưởng phạt lần chót trước khi đổi mới thế gian.
- Cái chơn lý bất diệt là một sự thật duy nhứt của vũ trụ vạn hữu, không có một đối tượng nào chẳng lấy nó làm bản thể độc nhứt, được đem ra đối chứng cho tất cả việc này việc khác, để thấy được cái hư cái thực một cách rõ ràng chắc chắn.

Chơn lý đối với lẽ thành, trụ, hoại, không của muôn đời, nó không bị ảnh hưởng vào đâu khiến thêm hoặc bớt, mà là nó vẫn được thường trụ bất biến cũng do một thể với bản tâm vậy.

Cho nên khi trở về với chơn lý thì không hề bị một cảnh giới sắc không nào làm chướng ngại và cũng
không thấy sự chênh lệch giữa cái này cùng cái khác mà vẫn được bình đẳng rỗng sáng như hư không.
Bởi thế mà kẻ học Phật lúc nào cũng vui vẻ để làm những việc khó khăn, bỏ những việc khó bỏ, chí đến
những việc chết chóc cũng coi bằng thừa, là vì ta đã nhận rõ cái nguyên lai của chơn lý và chính ta đang trở về với chơn lý.

Và ta cũng hằng tránh cho được mọi việc làm tội lỗi.

Vì tội lỗi sẽ không tránh khỏi phản ứng của nhân quả để thọ báo, mà hễ thọ báo của tội lỗi thì toàn là những những việc đau khổ hoạn ách, chẳng những cho riêng mình mà còn lây hưởng đến kẻ quyến thuộc nữa.

Đã thế ngày biến diệt của cõi ngũ trược ác thế sắp đến gần đây, mà xét lại lỗi lầm trước kia của ta còn
nhiều, thì lý đương nhiên là ta phải gấp rút chừa bỏ và ngăn ngừa đừng cho tái phạm. Có vậy mới cứu ta khỏi tội và được phước qua khỏi ngày biến diệt vậy.

Vả chăng ngày giờ chẳng hề đợi ta, cũng như cái già, cái bịnh, cái chết nó không chừa ta, thì bây giờ ta cũng nhanh nhẹn mượn gậy kim cang, nương thuyền bát nhã để có chống chế cho thoát khỏi cánh tay ác nghiệt của bọn chúng. Chớ ta không thể vì công danh phú quý giả tạm của cõi này mà làm trở ngăn ngu độn con đường giác ngộ và giải thoát của ta được.

Những lẽ trên đây làm nguyên nhân khẩn yếu cho sự tu của ta ngày nay, mà chứng minh ở các việc này
chính là Đức Thầy của ta đã mách dạy cho ta vậy.

Thưa quý đồng đạo,
Cũng vì mấy nguyên nhân đã kể trên mà Đức Thầy của chúng ta không quản đến khổ lao tai ách, ngót năm trường dìu dắt chúng ta, cho đến ngày giờ này vẫn còn ở chốn ngàn xa vắng dạng.

Lòng của Đức Thầy hẳn không phút nào quên chúng ta, vẫn muốn cho chúng ta đối với nước nhà cũng như đạo lý đều được có công nghiệp công đức lớn lao, nên rất vui vẻ mà lãnh lấy bao nhiêu nỗi gian truân thảm khổ, để bảo tồn sinh mạng tín ngưỡng cho chúng ta được đến ngày thành đạt mục đích.

Trái lại, trong lúc vắng mặt Đức Thầy, việc làm của ta không khéo cẩn thận để cho anh em tín đồ phải đau khổ, hoặc đâm ra nghi ngờ sự vắng mặt của Đức Thầy, hay lời dạy dỗ trong sám giảng mà gây ra những việc làm tội lỗi xấu xa, có hại cho gia đình cho xã hội cho Đạo giáo, thì con người của chúng ta sẽ trở thành kẻ bội nghĩa.

Và đến ngày kia mạng chung không những phải đọa vào địa ngục chịu khổ mà cũng không còn phương tiện tỉnh giác như bấy giờ, để cứu vớt tổ tiên cha mẹ khỏi bể trầm luân và chúng sanh thoát vòng khổ não. Còn nói gì ngày Hội Long Hoa đến đây hẳn không bao giờ ta thấy được nếu ta không gấp rút hối cải việc quấy.

Vì thế cho nên nhân lễ kỷ niệm ngày Đức Thầy khai Đạo, tôi có lời nhắc nhở cho toàn cả đồng đạo hãy nhớ Thầy, tưởng đạo và nghĩ đến sự cứu vớt tổ tông cha mẹ và chúng sanh, mà hăng hái theo dõi tư tưởng thanh cao, tinh thần hỷ xả của Đức Thầy của Phật thánh cho đến khi được thành tựu viên mãn. Nhứt là được đầy đủ đức tin và đạo hạnh cho đến ngày Đức Thầy trở lại.

Muôn Thu mới có một kỳ,
Hãy nên nắm lấy đạo nghì chớ buông.
Gặp khi thế giới quay cuồng,
Dây oan bổn đạo gỡ suông mới mầu.
Con đường Phật Pháp cao sâu,
Phải nên trì niệm mới hầu thành công.
Vang lên một tiếng chuông đồng,
Con người trong mộng sớm hòng tỉnh tâm.
Lời đây cũng không phải ca ngâm,
Tùy theo sở thích mà tầm cứu nhau.
Muốn người nghe lấy từ câu,
Ra về cũng nhớ như hầu ở đây.
Bốn phương khói lửa dẫy đầy,
Giữa mình đâu chắc an bày viễn miên.
Những ngày tai họa điên liên,
Năm châu thế giới đâu yên chỗ nào.
Trải qua Nga, Đức, Nhật, Tàu,
Kéo luôn thế giới hô hào chiến tranh.
Tiểu bang, Đại quốc xúm giành,
Kẻ thì lo cướp người tranh lợi nhà.
Thiết tha ôi ! Rất thiết tha,
Chỉ cầu cho khắp người ta tu hành.
Nhớ rằng lợi kẻ lợi mình,
Ấy là hợp lý nên hành bớ ai !
Lợi mình mà kẻ mang tai,
Là điều trái ngược đừng gây bớ người.
Mấy khi Nguơn Thượng phản hồi,
Ấy là duyên trước của người đã gieo.
Bây giờ khuyên hãy gắng đeo,
Khỏi ngày nạn ách đưa theo bên mình.
Sự tu cần yếu tâm thành,
Nhớ lời qui kỉnh thiệt hành cho y.
Cuộc trần thay đổi mấy khi,
Ngày nay gặp được hãy ghì bớ ai !
Lành thay ! Lành thay ! Lành thay !
Vạn dân có thể gần Ngài Phật Tiên.
Phải nên gắng chí khẩn nguyền,
Thành lòng niệm Phật thoát miền lao lung.
Có ai biết được Sơn trung,
Ít người thấy rõ non Tòng lịch chăng.
Nay ghê thiết giáp, xa tăng,
Sau còn gặp lũ tinh chằn ghê không.
Đi cùng chợ búa ruộng đồng,
Để mà xử phạt ai lòng gian manh.
Nay đây khuyên nhủ tu hành,
Để nhờ ơn đức Trời xanh hộ trì.
Mấy khi gặp được khoa kỳ,
Tay rinh khoa giáp hẳn thì được vinh.
Thôn quê cho đến thị thành,
Đua nhau tu niệm nhọc nhành đừng than.
Xác thân khổ hải chứa chan,
Nay tu sau được thanh nhàn hiển nhiên.
Đồng đạo đã có tâm hiền,
Đến đây nghe giảng thì yên chỗ ngồi.
Làm gì kẻ tới người lui,
Hình như tâm họ chưa vui chăng nào?
Đây là những tiếng kêu rào,
Vừa là tha thiết ngọt ngào xiết chi.
Muốn người gặp đấng từ bi,
Sống còn gặp được Bửu Kỳ Hương Sơn.
Ơn Thầy gẫm thiệt trọng ơn,
Chúng ta đã thọ rán thân cho tròn.
Dầu cho biển cạn núi mòn,
Với mình cũng giữ lòng son một bề.
Dầu cho ai có nhún trề,
Nơi mình việc đạo chớ hề bước lui.
Sá chi tiếng nói ngoài môi,
Của lòng nhân ngã của người dối tu.
Chỉ vì một đám sương mù,
Che lòng của chúng mờ lu quá rồi.
Nay đây chưa biết tỉnh hồi,
Sau dầu hối tiếc việc rồi kịp đâu.
Thương nhau nhắc nhở từng câu,
Chỗ này chỗ khác ngõ hầu khuyên nhau.
Nghe không đây chẳng ép nào,
Chỉ thương cho đó ngày sau khổ nàn.
Khi Thầy vắng mặt An Giang,
Bởi vì số hệ Thiên hoàng đã phân.
Lại là mang xác thịt trần,
Phải đành nhồi quả cho phần thêm cao.
Ngày kia sống bủa ba đào,
Thuyền từ trở lại rước nhau đem về.
Nhà Tiên cửa Phật xang xuê,
Chỗ ni là cảnh đáng kề bớ ai !
Cỏi trần này thiệt chông gai,
Dầu cho vương đế đâu ngoài khổ lao.
Khi suy khi thịnh biết bao,
Dinh hư tiêu trưởng việc nào khỏi qua.
Mấy khi gặp hội rừng già,
Để xin nhắc lại gần xa gắng tầm.
Phép mầu của Phật thậm thâm,
Đừng ngờ không tới mà lầm bớ ai !
Khác chi mặt nhựt buổi mai,
Đêm nay thấy tối mai rày sáng trưng.
Đổi thay cơ tạo đâu chừng,
Việc đời khuất khúc muôn phần éo le.
Ai ơi ! Đây chẳng bày khoe,
Chỉ thương Đây mới nhắc nghe đôi lời.
Cũng không có tiếng rủ mời,
Chỉ vì lẽ chánh cạn lời để phân.
Ai ơi ! nên vững tinh thần,
Sau chưa yên lặng tâm trần để nghe.
Cuộc đời thiệt quá khắt khe,
Đạo mầu ta phải rán nghe cho thường.
Khuyên nhau trong ngõ ngoài đường,
Hãy nên giữ dạ cho thường lặng yên.
Đó, Đây gẫm thật hữu duyên,
Cho nên được gặp phổ truyền kệ cơ.
Rán nghe sau được hưởng nhờ,
Không thời đừng nói không ngờ bớ ai !
Lành thay ! Dân chúng lành thay !
Tuy trong cảnh khổ được bài giảng cơ.
Mỗi người Tam bảo có thờ,
Giảng kinh đã sẵn mỗi tờ hãy xem.
Xét mình còn chỗ luốt lem,
Hãy nên rửa sạch được xem hội hàng.
Gọi kêu từ xóm cuối làng,
Ai người biết sợ cuộc nàn hãy tu.
Đây không có phải lời ru,
Chỉ vì muốn kẻ ngao du non thần.
Chuyển xoay máy tạo lần lần,
Từ đây đến rốt cân phân xa nào.
Hãy nên khuya sớm giồi trau,
Từ nơi cúng lạy đến vào sửa tâm.
Nói ra lừa lọc kẻo lầm,
Việc làm phải chọn hợp tâm người đời.
Ấy là được hợp lòng trời,
Ngày kia mới được sống đời bớ ai !
Huyền cơ đưa lại chẳng sai,
Bởi lòng đã nghiệm bấy nay rất rành.
Tuy là mang xác cha sanh,
Kim cang tâm nọ như thành vững yên.
Đấy là cùng một cơ duyên,
Để trau đạo đức sơn xuyên sau này.
Vì thương đồng đạo gái trai,
Nên thân gầy ốm bao nài nệ chi.
Muốn người được biết tu trì,
Việc đời việc đạo trọn thì đôi vai.
Nước nhà công nghĩa mó tay,
Với ngôi Tam bảo hôm mai chuyên cần.
Hỡi ai có sợ họa Tần,
Có e cuộc thế Phong Thần tái lai.
Thì nên giữ lấy lòng ngay,
Trong nhà cũng thể đối nay ngoài đường.
Với ai cũng một tình thương,
Tùy cơ giáo hóa những đường hiền nhơn.
Giúp người không đợi trả ân,
Miễn tròn bổn phận quý hơn hết rồi.
Sợ e cuộc thế dập dồi,
Vạn dân bá tánh vô hồi thiết tha.
Cảnh tình con phải lạc cha,
Vợ chồng chia cách chan hòa hạt châu.
Gặp cơn nắng hạn còn lâu,
Ngửa trong đến giọt mưa ngâu chẳng cùng.
Bây giờ trời chưa nổ đùng,
Người còn dãi đãi không lòng trỉa trau.
Để khi khói lửa cháy ào,
Mới là tìm nước tìm gàu muộn thay.
Hỡi ai ! kìa hỡi bớ ai !
Đến đây nghe giảng nghiêng tai rót vào.
Để mà biện rõ vàng thau,
Tách mình qua khỏi lưới rào yêu ma.
Có chi bằng nỗi can qua,
Khổ thay chết chóc người ta vô cùng.
Bắc, Nam tiếng súng đùng đùng,
Con người sống cảnh phập phồng sợ lo.
Biết đâu mai đói nay no,
Nếu không giữ trước khó cho sau này.
Đồng đạo ơi ! Nhớ Đức Thầy,
Đã nhiều công khó dạy rày chúng ta.
Thừa vưng sắc lịnh Thích Ca,
Với nơi Ngọc đế xuống mà phàm gian.
Lìa nhà lại phải xa làng,
Chỉ vì khuyến giáo trần gian tu hành.
Nay đây có dịp vào thành,
Trễ chơn ăt lọt xuống gành bớ ai.
Quý thay ! Đồng đạo quý thay,
Đến đây đông đảo chú tai nghe vào.
Lời khuyên thật rất ngọt ngào,
Niệm tình đồng đạo để trau cho nhuần.
Chớ đâu nỡ có ớt gừng,
Làm cho tình nghĩa xẻ phân đôi đường.
Mặc người có bụng ghét thương,
Với đây thì chẳng muốn vương mối sầu.
Với ai đây cũng cúi đầu,
Để mà khuyên đó ngõ hầu nhớ tu.
Sửa mình cho hết mờ lu,
Trau thân được vẹn trời thu được gần.
Có chi bằng một chữ cần,
Dầu rằng việc khó mãi lần cũng nên.
Như là Phật Thánh Thần Tiên,
Trước kia cũng đã khổ phiền xiết bao.
Đã dày công cán chùi lau,
Thế nên mới được quả cao cực đời.
Nay đây khắp cả mọi người,
Lòng thành ắt cũng được Trời độ cho.
Khuyên người hãy rán cần lo,
Mấy khi gặp được Trời cho nhiệm mầu.
Một lạy bù mười lạy vào,
Niệm Phật một tiếng Phật trao mười lời.
Đời ơi ! kìa hỡi đời ơi !
Được Trên ân xá sao thời chẳng tu.
Ngồi đây chớ nói lu bu,
Nhứt là ngoài ngõ phải âu giữ mình.
Nghe đây tâm chánh phải gìn,
Chớ đừng quấy rối đức tin của người.
Đây là thế kỷ hai mươi,
Tận tiêu việc cuối làm người phải lo.
Tu sau được hưởng thơm tho,
Của ngày lập thế đáng lo làm người.
Trái là phải tội theo đời,
Hóa làm cây đá khổ thời muôn năm.
Nhớ ghi đạo rất huyền thâm,
Phải nên trì chí nhiều năm mới tường.
Chỉ trừ thời trước Thượng nguơn,
Người căn trí rộng khỏi cần phải trau.
Còn nay đã phải trần lao,
Mà căn chúng hẹp sợ trau chưa thành.
Huống chi là chẳng thật hành,
Bao giờ được hưởng phúc lành bớ ai !
Lành thay ! Lành thay ! Lành thay !
Trăng kia đã tỏ lời nay cũng tường.
Ai ơi ! chỉ một Nhạn đường,
Nơi lòng hôm sớm khói hương chớ rời.
Nhớ Thầy bớ đồng đạo ơi !
Ngày nay vắng mặt coi Người vì ai.
Bởi thương đồng đạo gái trai,
Cho nên Thầy chịu nạn tai lắm hồi.
Chỉ còn ta phải trau giồi,
Để chờ gặp được nước xuôi Thầy về.
Bây giờ còn phải ủ ê,
Chỉ vì cuộc thế rộn rề chưa xong.
Đến đây chào hết đạo đồng,
Giảng cơ đã dứt mà lòng chưa nguôi.
Kệ giảng đến đây đã dứt rồi,
Chào trong đồng đạo khắp người người.
Ra về cũng phải lòng thương nhớ,
Để được ngày kia quả tốt tươi.
17 tháng 5 Quý Tỵ - tức 27 tháng 6-1953.
13- Đêm 18 tại Tây An Cổ Tự Nhân dịp lễ kỷ niệm ngày Đức Thầy khai sáng nền đạo Phật Giáo Hòa Hảo.

Đêm 18 tại Tây An Cổ Tự Nhân dịp lễ kỷ niệm ngày Đức Thầy khai sáng nền đạo Phật Giáo Hòa Hảo.

Một đoàn người lạc giữa rừng hoang,
Gặp vị Chơn Nhơn chỉ nẻo đàng.
Ngày ấy chính nay là kỷ niệm,
Tỏ lòng kính cẩn cả muôn vàng.
Thanh Sĩ tôi cúi đầu chào quý đồng đạo nam nữ,

Thưa quý đồng đạo,
Hôm nay chính thức kỷ niệm Đệ Thập Tứ chu niên ngày Đức Huỳnh Giáo Chủ, là Đức Thầy của chúng ta khai sáng mối đạo Phật Giáo Hòa Hảo.

Để tỏ lòng thành kính đối với ngày lễ này chúng ta nên ôn lại vấn đề đạo đức mà chính Đức Thầy đã dạy chúng ta nhiều lần trong sám giảng.

Sự tu không thể lấy một ít việc ăn chay, cúng lạy, niệm Phật suôn sẻ mà gọi là trọn nghĩa của sự tu
được.

Mà trong sự tu cần phải kèm thêm sự hành luôn cả hai mặt của “Việc Người lẫn Việc Phật” mới được.
Đối với người phải đem Tam cang Ngũ thường ra mà đối xử. Đối với Phật cần lấy Tam quy Ngũ giới ra mà tôn thuận.

Và bên ngoài của mỗi cảnh, cũng như bên trong của lòng mình đều giữ lặng lẽ trong trắng làm gốc. Nghĩa là ngoài chẳng vọng các trần, trong không loạn bổn tâm, luôn luôn dùng trí huệ để phương tiện hành xử cho mọi việc được ổn đáng và ích lợi giữa người với ta mà không một mảy háo danh.
Với việc làm này ta không chút nào rời bỏ.

Theo lời Mạnh tử có nói: “Tuy thế gian hữu dị sanh chi vật, nhứt nhựt bộc chi, thập nhựt hàn chi, vị hữu
năng sanh giả dã”, Nghĩa là: “Tuy trong thế gian có thứ cây dễ trồng, song một ngày phơi nắng, mười ngày tưới nước nó chưa được sống nói chi có trái”.

Đúng vậy, nếu việc đạo của ta trước cần sau biếng, nay chăm mai lảng, thì cái tội trước của ta đã gây còn chưa rửa sạch, đâu có dư được phước mà hái lấy cái quả tốt lành và cũng không do đâu để mở mang trí tuệ cho được.

Vả lại, muốn cho trí tuệ được mở mang, lúc nào ta cũng cần trừ sạch “vọng hoặc”(*), giữ lòng tịch tinh như khoảng không, như gương sáng, tự tánh hay hàm dung và soi ứng vạn vật mà không bị dính mắc suy giảm.
Và đối với cái đạo nó chẳng phải xa, chẳng phải gần, không màu sắc, cũng lớn cũng nhỏ, chẳng lấy mắt mà thấy được, không lấy tay mà rờ được, trong 12 giờ đều xoay ở quanh ta, ta phải tự trở lại với lòng ta để mà gặp đạo, thấy đạo. Vì nó rất tương tự và mật thiết với bản tâm của ta vậy.
Nếu ta rời bản tâm của ta tức là ta rời cái đạo, mà hễ rời cái đạo thì chẳng khác nào cá rời khỏi nước không thể sống được.

(*) Vọng: là sai sự thật, như vọng ngữ: nói sai sự thật, hoặc là mê lầm, như “Trí giả bất hoặc” (người trí không mê lầm). Người tu học phải dứt trừ tạo nhân vọng hoặc nơi tâm mới chuyển được trí thế gian thành trí huệ giải thoát cũng gọi là giác ngộ.

Thưa quý đồng đạo,
Đã gặp được ngay Đại đạo của Đức Thầy truyền giáo cho, chúng ta đâu còn “ngờ hoặc”. Bởi việc nào của đời hoặc đạo hay lẽ huyền bí, mỗi mỗi việc chi Đức Thầy đều có chỉ bảo phân tách rành rẽ mà kết quả của mỗi việc ấy chỉ còn do ở chúng ta thật hành sẽ được, Và cách tu nhân xử thế chúng ta hẳn không nên ngờ hoặc, dãi đãi, trở lại ngày càng nên phấn phát tin tưởng hơn nhiều. Vì rằng từ hạng vua chúa đến dân dã đều cần lấy sự tu thân làm gốc. Nếu không tu thì nhà không yên, nước không trị và thế giới không hòa. 

Chẳng phải thế thôi, kẻ không biết tu thân là kẻ tự giết mòn khoái lạc của nhơn loại, của gia đình bằng
mọi kết quả đau khổ hiện hữu và sau khi bào thai lên thế gian. Nghĩa là họ sẽ phải tàn nhẫn, bịnh tật, xấu xí, chết chóc non yểu, khiến ai để mắt nhìn vào cũng phải châu mày tắc lưỡi, không còn muốn gần họ hoặc sống chung với họ nữa. Và nếu hầu hết mọi người cứ lây nhau làm ác thì ngày kia thế giới này sẽ hóa thành một nhà ma, rừng bịnh.

Việc này sẽ có thật ! Vì hiện giờ trong số 100 người, có thể nói hầu hết đều có bịnh nhiều hoặc ít chớ ít ai được không ngơ.

Cũng vì lẽ con người ngày một đi đến chỗ yểu vong, quả đất dần dần biến xấu. Nên các đấng huyền linh đã nhứt định, tùy theo căn cơ khi số của nhân sanh mà thành lập ngôi chánh thống cả hai phương diện “Đạo lẫn Trị” một cách ổn thuận công bằng, trên dưới vua quan dân thứ đều sống trong sự xếp đặt của chánh đạo Như Lai.

Ngày Thượng nguơn tức là những ngày này, cảnh này với một màu sắc đầy đủ trang nghiêm tú lịch, nhà không đóng cửa, của rơi không người lượm, trên bờ dưới sông xe cộ thuyền tàu đều thuận theo tả hữu mà đi rất êm ái thứ tự.

Thưa quý đồng đạo,
Kẻ đa mang nợ nhiều nhứt là chúng ta, mà đặng mùa nhứt cũng là kiếp này của chúng ta vậy. Chúng ta phải nỗ lực tạo tác công đức phước huệ cho ta được có nhiều, để đến một ngày kia oan trần đã rảnh, công quả được to, hầu dưới chơn Đức Thầy, Đức Phật nghe lẽ diệu mầu, thấy việc kỳ bí còn chi qúi hóa cho bằng.

Than ôi ! Cuộc thế điêu tàn,
Người người đời sao lại mơ màng chưa tin.
Đợi cho tiếng nổ vang thinh,
Rồi kia mới biết giật mình hay sao.
Thế là đã lọt vực sâu,
Ăn năn việc ấy gẫm âu muộn màng.
Ngày nay từ xóm cùng làng,
Hãy nên sốt sắng lo đàng hiền lương.
Nghèo nàn thời tạm rau tương,
Dầu cho đội nguyệt mang sương không nài.
Chữ tu qúi hóa lắm thay,
Ngàn xưa các bậc anh tài cũng chăm.
Huống nay dân kém hạnh tâm.
Sao không gắng gổ lo tầm kệ cơ.
Sự tu khuyên chớ bơ hờ,
Vừa nên cúng bái vừa nên trau lòng.
Tổ tiên cũng giống Lạc Hồng,
Vẫn là ham mộ ở trong Phật đường.
Biết bao dân thứ đế vương,
Đã từng tiến đến Nhạn đường bạch minh.
Nay ta gắng sức tưởng tin,
Ngày kia ắt được cứu mình khỏi tai.
Bữa nay rồi kế đến mai,
Âm dương thắm thoát mỗi ngày vậy thôi.
Nếu ta không sớm trau giồi,
Để chừng gia bịnh tỉnh hồi muộn thay.
Bây giờ nhơn có một ngày,
Trước khi tiêu diệt rán mài chơn tâm.,
Nếu kia có phải nam châm
Hẳn là hút sắt ngàn năm vẫn còn.
Dầu rằng phải có chìu lòn,
Tâm hồn kia chớ mõi mòn lẳng lơ.
Với mình đã hiểu huyền cơ,
Dầu ai phá rối chớ ngơ lảng lòng.
Miễn sao thấy được Non Bồng,
Gặp vì Thánh chúa thoả lòng ước ao.
Bây giờ xáo trộn vàng thau,
Chừng phân kim mới rõ màu thấp cao.
Cuộc đời tráo trở làm sao,
Nay mai việc thế xiết bao điên cuồng.
Hễ người tu phải chìu luồn,
Để cho mình đủ phép khuôn với đời.
Luyện lòng cho được tốt tươi,
Hẳn là khỏi được những nơi âu sầu.
Chuyển xoay nhơn loại đâu đâu,
Rung rinh trái đất một bầu gớm ghê.
Người tu nay kẻ cho mê,
Tuy mê mà giác đừng chê bớ người.
Kẻ kia nay chíp miệng cười,
Sau rồi hối hận cho đời dở dang.
Đường dài phải gắng tim gan,
Mới là nắm được Niết bàn bớ ai.
Đến đây đồng đạo gái trai,
Trong sân cho đến chí ngoài lộ kia.
Quên chơn mỏi, quên đêm khuya,
Lắng nghe được có ra về sửa trau.
Bởi thương chẳng quản khổ lao,
Để đem tiếng kệ ngọt ngào nhủ khuyên.
Thầy còn mượn tiếng khùng điên,
Chịu bao tai ách kết duyên với đời.
Huống ta đâu dám tiếc lời,
Đem lòng chua xót réo thôi muôn ngàn.
Nhìn nhau mà hột lệ tràn,
Thấy nhau đông đảo lại càng đơn hơn.
Bởi vì ít kẻ nhớ ơn,
Nên không vui sửa xác thân của mình.
Quên rằng Thầy đã hy sinh,
Đem thân cứu thế chịu nghìn gian lao.
Với thân Sư phụ chẳng nao,
Huống ta nỡ để lảng xao nỗi tình.
Miễn là cho cả nhơn sanh,
Dưới trên đều cũng như mình biết tu.
Chẳng hay gây oán kết thù,
Để lo phá sạch mờ lu tánh mình.
Ai ơi ! cuộc thế linh đinh,
Đến đây chưa mấy an ninh bớ người.
Chừng nào có chúa có tôi,
Thầy trò sum họp đứng ngồi mới yên.
Ngày nay trăm thảm ngàn phiền,
Bởi đời nhiều bụng đảo điên còn nhiều.
Ngẩn ngơ ngày chúng quỉ tiêu,
Một phen vùng vẫy trăm chiều thiết tha.
Nay đây đồng đạo trẻ già,
Chỉ thường niệm Phật Di Đà chớ quên.
Khỏi ngày quà quạ kênh kênh,
Khỏi ngày rắn độc yêu tinh hại người.
Nay như hoa nở còn tươi,
Một phen gió cuộn rũ rời từ manh.
Nào đâu lừa dối nhân sanh,
Chị em lời kẻ khiết thanh nhủ lòng,
Muốn tu thời phải gắng công,
Đừng quên làm việc non sông bớ người.
Có duyên ta mới an nơi,
Rán lo trau sửa đạo đời cho xong.
Cuộc đời còn lắm gai chông,
Thì ta cũng phải có công với đời.
Chớ lo ham việc lỗ lời,
Mà vong đạo đức bớ người đời nay.
Khổ lao nhơn loại còn gay,
Vì chưng nghiệp chướng chưa phai bớ người.
Khổ kia giảm bốn trong mười,
Sáu phần còn phải chịu thời lao lung.
Muốn sao cho được thung dung,
Phải cần trau trỉa cho xong việc lành.
Chừng ni thấy được Nam Thành,
Mới là toại chí của mình bấy nay.
Đạo đồng lớn nhỏ gái trai,
Cuộc đời như thể vừng mây nửa lừng.
Thấy vui mà chẳng dám mừng,
Bởi đời tráo trở muôn phần éo le.
Muốn sao được uống Tào Khê,
Rửa tanh phàm tục xang xuê muôn đời.
Chớ nay oan khổ khắp nơi,
Thân người trôi dạt lệ rơi từng hồi.
Ai ơi ! kìa thấy cuộc đời,
Một ngày một thúc khắp nơi điêu tàn.
Giặc nhà nay dẹp chưa an,
Cớ sao dân chúng không toan sửa mình.
Kết liên nhau lại một tình,
Vừa lo đạo đức vừa tranh lợi nhà.
Dẫu rằng bách chiết thiên ma,
Với lòng kia vẫn thiết tha thái bình.
Con người vì nghĩa quyên sinh,
Khác rồi cũng được lưu tình người thương.
Ai ôi ! đốt nén tâm hương,
Thành tâm cầu khẩn mười phương Phật Trời.
Hộ Thầy nạn ách được rời,
Thân kia đặng mạch cứu đời mai sau.
Có Thầy ta khỏi núng nao,
Không Thầy như lá gió rào rạt kia.
Thương thay khi Đức Thầy về,
Khi hung ắt bị thảm thê muôn nghìn.
Vì lo ba thước gươm linh,
Trừng loài phản nghịch ẩn tình lâu nay.
Chỉ đeo theo rượu với bài,
Lòng kia vội bỏ những ngày quy y.
Ai ôi ! sớm dứt mê si,
Đổi tâm giác ngộ để đi đến cùng.
Ngày kia đến tận Sơn trung,
Được xem cho rõ hình dung Phật Trời.
Nay đây khuyên nhủ người đời,
Phải nên tự liệu cho nơi được rồi.
Thân mình không khéo tu bồi,
Ngày kia ma quỉ cuốn lôi khổ mình.
Nay đi khuyên nhủ chẳng gìn,
Để sau lao lý trở mình khó thay.
Nỗi sầu cho cuộc trần ai,
Sau này nhiều nỗi cấn gay nặng nề.
Dân ôi ! Chưa hẳn no nê,
Đói lòng sắp phải ủ ê có ngày.
Sợ e chẳng có bắp khoai,
Lựa là lúa nếp như nay dư bồ.
Thân ôi ! phải sợ héo khô,
Lựa là son phấn điểm tô bớ người.
Than ơi ! bèo nước giữa vời,
Một khi sóng gió rã rời từ manh.
Nhìn nhau kìa có chim xanh,
Dẫn đường cho thấy được hình Tây Vương.
Chớ nên để tánh lương khương,
Con người sống cảnh oan ương khó lòng.
Lựa đi hai chữ đục trong,
Phải tìm lấy một mới xong bớ người.
Đến đây đồng đạo yên ngồi,
Ngồi nghe cho rốt những lời nhủ khuyên.
Muốn sao đó có lòng thiền(g),
Biết thờ kỉnh Phật Thánh Tiên chẳng rời.
Dẫu cho lở đất sập trời,
Lòng mình cũng vẫn không rời sự tu.
Ngày kia bảy bữa ám u,
Ơn nhờ Tiên Phật vân du cứu mình.
Rừng xanh hội yến linh đình,
Vui chi hơn được dựa mình hùm lang.
Tuy loài thú ở rừng hoang,
Ngày sau còn được một đoàn hiền lương.
Lạ thay thú vật chọn đường,
Người không lựa nẻo thảm thương muôn nghìn.
Ai ôi ! phải rán sửa mình,
Đừng nên bỏ dở khổ sinh vạn đời.
Hồng quang Đức Phật chói ngời,
Ba trường thuyết pháp độ người ngàn muôn.
Một khi có giọt mưa tuôn,
Qua rồi bông trái tươi nhuần sởn sơ.
Nay đây đợi đến thời cơ,
Cửa Trời mở rộng ngút mờ phá tan.
Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhơn Hoàng,
Hội đồng thưởng phạt thế gian thử nào.
Nay còn kẻ thấp người cao,
Kẻ lành người dữ cùng nhau rộn ràng.
Mấy ai lấy đá đổi vàng,
Lấy vàng đổi đá người càng thêm chê.
Tuy quê mà lại không quê,
Bởi lòng đã nhận có bề Thiên công.
Có mà sao trở lại không,
Còn không mà có bởi lòng thẳng ngay.
Cuộc đời như thể vầng mây,
Một khi gặp gió thì nay không còn.
Sợ e thay biển đổi hòn,
Lập thời Thượng cổ không còn mấy ai.
Kẻ hiền tồn tại ngày mai,
Cuộc đời mới được khỏi lay chuyển nhiều.
Nay khuyên vững bước Lam Kiều,
Để hầu thoát khỏi mọi điều khổ lao.
Đạo đồng thương lẫn cùng nhau,
Ấy là đáp lại ơn cao của Thầy.
Ghét nhau gẫm có chi hay,
Vô tình làm lợi kẻ ngoài đấy thôi.
Hợp tâm để có vun bồi,
Học theo con mối để rồi bảo thân.
Gọi kêu kẻ cựu người tân,
Tu mau tu chậm chớ phân chi nhiều.
Một ngày liễu nghĩa cao siêu,
Đạo kia cũng được tiêu diêu đấy rồi.
Đạo đồng, đồng đạo hỡi ơi !
Nhớ Thầy thì phải trau giồi lương tâm.
Đừng cho kẻ khác oán thầm,
Phải làm quỉ phục thần khâm bơ người.
Lời khuyên đây đã hết lời,
Chào trong đồng đạo đứng ngồi lui chơn.
18 tháng 5 năm Quý Tỵ - tức 28 tháng 6-1953.
14- Ngày 30 tại Tây An Cổ Tự: Sự Hăng hái và Suy nghĩ chơn chánh

Ngày 30 tại Tây An Cổ Tự: Sự Hăng hái và Suy nghĩ chơn chánh

Nhiều kiếp tu thân mới thoát phàm, 
Tâm hồn mai tối ẩn già lam.
Lòng trong tợ tuyết không hề đổi,
Lấy lẽ từ bi khuyên nữ nam.

Chào chư đồng đạo,
Sau ngày ngôi Tây An Cổ Tự khánh thành tới nay, mỗi ngày sóc vọng tại đây có sự giảng giải đạo lý.
Tuy không được thập phần tấn triển, chớ từ đó nhẫn nay mỗi phiên giảng nào cũng được chư đồng đạo
nam nữ đến nghe càng lúc càng nhiều.

Điều này dù ai cũng nhận cho lòng đạo đức của đồng đạo có phần sốt sắng, mới có sự đi lại được đông như thế. Và riêng tôi cũng lấy làm vui, mà được thấy giờ phút này cũng có lắm kẻ còn hoài vọng đến lời khuyên nhủ đạo đức, khiến cho cửa đạo không đến lạnh lùng vắng vẻ.

Hôm nay tôi xin giảng giải về: “Sự Hăng hái và Suy nghĩ chơn chánh” được như ý của mình.

Hăng hái không để cho hoàn cảnh gia đình hay thế sự, nhứt là vật chất trói buộc thân tâm của mình, làm cho phút tu hành đâm ra ngờ vực chểnh mảng. Phải hăng hái tiến sát mục đích cao siêu của đạo Phật mà
mình đang sùng phụng.

Muốn cho sự hăng hái không bị lạc lầm tội lỗi vô ích, chúng ta cần phải đặt những điều sau để làm tiêu
chuẩn:

1- Đặt tình thương trên khắp chúng sanh.
2- Đặt việc làm lợi ích cho khắp mọi người mọi vật.
3- Tin có thiên đàng địa ngục.
4- Tin có nhân quả luân hồi.

Ngoài ra còn tin cái đạo đức sẽ giải hòa được cuộc chiến tranh đẫm máu của nhơn loại rất có hiệu lực nếu đi đúng đặc tánh chơn thật và bác ái của nó.

Vì rằng nếu con người không đạo đức là phải hung bạo mà nếu hung bạo là mầm mống đao binh chém
giết không ngằn.

Nghĩ thế chúng ta rất hăng hái làm những việc đạo đức, cho đến khi nào mọi vấn đề tốt lành của ta muốn đó đều được thực hiện đầy đủ.

Thảng như, lúc tu tiến gặp phải lắm điều bất trắc không những ta chẳng nao núng, trái lại còn tăng gia
tiềm lực để tiến tới mạnh hơn.

Tuy nhiên lòng hăng hái suông e còn lầm, chúng ta phải luôn luôn kèm theo cái suy nghĩ nữa mới được
chắc chắn.

Suy nghĩ như sợi dây để thắng lại con ngựa ý của ta khi đi sai đường hay quá mức.

Suy nghĩ như vị quân sư để đoán xét các việc lợi hại cho mặt trận chống “Sáu Giặc” của tâm ta được toàn thắng.

Suy nghĩ để giúp cho người hiểu thấu vạn tượng thế gian là giả dối, không bị nó ám ảnh tỏa chiết, vẫn xa lìa dứt bỏ nó lúc nào cũng được dễ dàng.

Và con người có suy nghĩ mới hơn được loài vật, mới tránh được mọi sự nhục nhã xấu xa do lòng tham sân mê muội gây lấy.

Vả lại, nhờ có suy nghĩ mà con người mới nhận làm mọi việc luân thường đạo lý như: Vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bậu bạn và mọi người, mỗi mỗi đều có sự tôn ti thứ bậc rất phong quang nề nếp mà cái giá trị lịch sử của loài người được đặt lên kể từ ngày có cái luân thường này vậy.

Song giữa cái hăng hái và suy nghĩ, ban sơ ta cần phải đặt cái suy nghĩ ra trước, nghĩa là trước khi ta muốn làm việc chi, thì phải nên suy nghĩ cho ra lẽ, coi việc ấy lợi hại cho người hay cho mình thế nào. Nếu việc ấy lợi cho mình mà rất hại cho người thì tốt hơn là ngồi không, bởi nó trái việc nhân từ đạo đức.

Ngược lại, xét thấy việc đó lợi ích cho người thì ta sẽ hăng hái để làm, dầu khó khăn tai nạn cũng không thối chí.

Cũng như chúng ta trước khi quy y theo Thầy thì đã xem qua sám giảng của Đức Thầy nhiều lần và nhận lời trong đó là sự thật của đạo lý rồi mới tin chịu, chớ không phải do sự xúi biểu của ai mà sợ là lầm lạc, thì bây giờ chúng ta chỉ còn hăng hái thật hành, chớ không còn phải nghi ngờ chi nữa.
Nếu chúng ta thật hành đúng theo lời của Đức Thầy đã dạy trong sám giảng thì sẽ được thụ hưởng mọi lẽ vi diệu do bổn tánh hiện ra hoặc do ơn trên chư vị siêu hình ban bố.

Tóm lại đứng trước một vấn đề nào, ta cũng phải suy nghĩ trước rồi sau sẽ hăng hái để làm, hầu tránh mọi sự lầm lạc tội lỗi có hại cho mình hay kẻ khác.

Thưa quý đồng đạo,
Các điều vật chất ở cõi Hạ nguơn này chẳng khác nào cái cùi bắp trơ trẻn, không có chi gọi là tốt đẹp lâu dài, ta chớ luyến ái lấy nó vô ích vì nó sắp vất đi.

Điều cần hơn hết là chúng ta phải gấp rút dọn mình cho trong sạch nhẹ nhàng, để đón rước ơn trên chư vị siêu phàm của thời kỳ Thượng nguơn đến đây cứu chúng ta thoát ngày biến diệt.

Và kỳ này là kỳ chót, Cửu Huyền thất tổ đang chờ chúng ta sớm biết tu hành chưởng phước, để một ngày kia hưởng lấy công đức của chúng ta mà siêu rỗi, không nên lãng quên việc này vì nó là một dịp độc nhứt cho chúng ta đáp ơn tổ tiên cha mẹ, quốc thủy, chúng sanh và cứu chúng ta khỏi ngày trầm luân thống khổ.

Nếu chúng ta chẳng làm tròn bổn phận của mình trong lúc này thì sẽ đắc tội với bề trên và sẽ mang tội
bất hiếu với tổ phụ của chúng ta vậy.

Nếu không gấp rút tu hành,
Ngày kia thân xác tan tành bớ ai !
Cuộc đời biến chuyển ngộ thay,
Bữa nay yên tịnh ngày mai thảm sầu.
Nên tin thiện ác đáo đầu,
Làm lành được phước dữ đâu yên mình.
Sớm hôm nhớ sửa tánh tình,
Đừng cho vọng hoặc lợi danh của đời.
Hồng trần có mấy lăm hơi,
Ngũ hành thay đổi đôi nơi chan hòa.
Bền gan đi tới trẻ già,
Ơn trên Trời Phật độ qua tai nàn.
Di Đà ngự chốn tòa vàng,
Trông cho kẻ đến Tây Phang được nhiều.
Nhưng ôi ! thưa thớt quạnh hiu,
Ít người đi tới, có nhiều kẻ lui.
Lòng kia không vẹn tốt tươi,
Sau này khổ thảm chín mười bớ ai !
Con đường đạo lý rộng dài,
Phải cần nghiệm xét nhiều ngày mới thông.
Khi tu phải sửa tấc lòng,
Để cho nó được sạch trong nõn nà.
Đời cùng đầy dẫy quỉ ma,
Mai tìm xô xệp người ta vương sầu.
Tuy rằng Phật Pháp nhiệm mầu,
Chỉ dành cho kẻ thật cầu mà thôi.
Nhưng ai khi lơ khi bồi,
Lòng hay tráo trở bồi hồi khó trông.
Tưởng tin có cuộc trời long,
Nhớ rằng quả đất này không được bền.
Kìa nơi bửu đảnh mau lên,
Nọ là hố thẳm chớ nên lại gần.
Trần ôi ! kìa hỡi bớ trần,
Tại sao chưa quyết một lần để tu.
Bể mê chôn xác từ lâu,
Đem chồng chất lại núi cao cũng vừa.
Vui chi quá đỗi mến ưa,
Đeo mang nghiệp tội dây dưa thảm phiền.
Muốn sao người đến non Tiên,
Bể mê xa lánh lưới phiền cắt đi.
Sớm chiều niệm tưởng A Di,
Ngày kia vàng ngọc khó bì được đâu.
Đường còn đây đó không lâu,
Bường qua khỏi lối khổ sầu bớ dân !
Phải lo gạn rửa cho thân,
Đừng cho nhơ bợn mới gần Thánh Tiên.
Chớ nên quí trọng bạc tiền,
Hãy nên yêu lấy việc hiền mà thôi.
Được hiền sau được cao ngôi,
Theo tiền bạc ấy sau rồi héo hon.
Người tu phải vẹn tim son,
Dầu lăn lóc mấy chớ mòn chút nao.
Lọc lừa kiếm chỗ thanh cao,
Để mà dò tới Nguyên Đào của Tiên.
Hỡi này tất cả chư hiền,
Hễ là đạo lý phải chuyên sớm chiều.
A Di Đà Phật nâng niu,
Lỗi lầm sai quấy mọi điều tránh xa.
Ngày kia mới gặp Long Hoa,
Mới xem Chúa Thánh trên tòa thẩm cao.
Bây giờ cần phải chùi lau,
Làm cho hết trược mới vào cõi thanh.
Màng chi cái bã lợi danh,
Của này như mộng cạnh tranh ích gì.
Phải theo dõi Bửu Sơn Kỳ,
Sau này được thấy chuyện gì quí hơn.
Nay đây tu niệm đừng sờn,
Mới là có dịp nắm chơn Phật Ngài
Nay xem vật của trần ai,
Khác nào như một đám mây giữa lừng.
Để chờ Phật dụng phép thần,
Chuyển xoay trái đất mườl phần tốt xinh.
Ai ôi ! phải khá giữ mình,
Tránh sao khỏi cuộc âm binh sau này.
Chừng xem đồng nội chật thây,
Con thời khóc mẹ vợ nay kêu chồng.
Thoảng qua gió lạnh như đồng,
Người đều sưng dưng vô cùng sợ lo.
Nay đây cơm đủ dùng no,
Người còn lười biếng chẳng lo tu hành.
Cứ lo đeo bã lợi danh,
Ngoài thêm trau chuốt trong sanh tham tàn.
Đến khi gặp việc tân toan,
Của này trôi dạt theo làn sóng nhô.
Tang điền thương hải bất đồ,
Ai ơi ! chẳng có cơm khô mà dùng.
Đạo mầu hôm sớm lo chung,
Để mà thoát khỏi phút cùng nạn tai.
Mỗi người ăn ở thẳng ngay,
Thì đâu có cuộc xéo giày rối nhăng.
Mỗi người đốt ngọn tâm đăng,
Thì đâu lầm lạc vào đàng ma vương.
Mỗi người hướng cõi Tây Phương,
Thì đâu còn mến trần dương chút nào.
Mỗi người trông cảnh bên Tàu,
Thì tay nắm siết đồng bào chặt thêm.
Mỗi người tưởng việc Cao Mên,
Thì tâm cương quyết sấn lên tu hành.
Mỗi người chán kiếp phù sinh,
Thì đâu có muốn giựt giành lẫn nhau.
Mỗi người tưởng việc tới mau,
Thì lòng gấp rút khẩn cầu Phật Tiên.
Từ đây cuộc thế chưa yên,
Chỗ này chỗ khác đảo điên còn nhiều.
Giặc nhà manh mối chưa tiêu,
Thì dân chưa được hưởng điều an cư.
Thương người có sách có sư,
Lòng không theo đúng sau như mất hồn.
Biết bao thống khổ dập dồn,
Thân người như cá trong bồn khó tung.
Hiếu không được phải được trung,
Chớ đừng hai việc trống không việc nào.
Đã sanh giữa cõi trần lao,
Phải làm được việc đồng bào nhớ ơn.
Đâu đành riêng sống một thân,
Trong khi non nước bâng khuâng mai chiều.
Kia là đạo đức cao siêu,
Phải cần theo dõi chớ siêu ngã lòng.
Nay người tu niệm tuy đông,
Mà ngày thành đạo gẫm Không mấy người.
Bởi vì thay ý đổi lời,
Nay vầy mai khác lòng người khó đo.
Ai ôi ! cần phải âu lo,
Cứu mình cứu kẻ được cho hai về.
Tu thân thì phải gia tề,
Rồi ra trị nước đem về yên ninh.
Nếu không sửa được thân mình,
Nói ra không được kẻ tin người dùng.
Phật là bi mẫn vô cùng,
Thương người mến vật lòng không hề rời.
Cho nên lui tới khắp nơi,
Nhiều phen kêu gọi lắm lời dạy khuyên.
Muốn cho người khỏi trần duyên,
Được về cảnh Phật nhà Tiên an nhàn.
Nhưng ôi sáu nẻo ba đàng,
Thân người vùi dập nhộn nhàng chưa thôi.
Nay đây có dịp phản hồi,
Về nơi cảnh cũ thoát rồi bể mê.
Nhà Tiên bát ngát hương huê,
Cõi trần quá đỗi ủ ê bớ người.
Thân này sống được mấy mươi,
Mà lo những việc như đời ngàn năm.
Ngoại trần ám ảnh bổn tâm,
Đến ngày bỏ xác cõi âm phải về.
Khảo tra giam cấm nhiều bề,
Biết bao thuở được dựa kề đài sen.
Ngày nay cửa Phật không chen,
Để sau mắc phải nhiều phen khổ nàn.
Chữ tu sau đổi muôn vàng,
Muôn vàng dễ kiếm đạo tràng khó mong.
Ngày nay tuy có mà không,
Sau không mà có rút trong phép mầu.
Ai ơi ! nay ở cao lầu,
Gặp cơn giông bão trốn đâu hỡi người.
Những ai hiền đức tốt tươi,
Sau Thần Phật cứu khỏi nơi tai nàn.
Vì đâu bận kiếp trần gian,
Ấy là do cái nghiệp oan của người.
Tại gây tội lỗi nhiều đời,
Mới là dồn lại cho người buổi nay.
Bây giờ chợt tỉnh giấc say,
Khiến cho cái kiếp sau này đăng Tiên.
Đường tu đây chịu truân chuyên,
Bởi đời quây phá đảo điên vô cùng.
Nhưng tâm kia phải thủy chung,
Dầu cho lăn lóc trịn bùn cũng cam.
Hỡi này tất cả nữ nam !
Từ đây phải rán việc làm tốt tươi.
Giảng cơ khi đọc nhớ lời,
Dạy người lánh dữ tìm nơi sự lành.
Bền gan đạo mới được thành,
Để lòng xao xuyến cội lành phải xa.
Khổ sầu còn lắm bá gia,
Đường đi gay gạnh bước đà khó khăn.
Tâm kia cho được thẳng bằng,
Dầu thân lao lý cũng cần chữ tu.
Dẹp cho sạch ngút mây mù,
Thấy nơi bổn tánh trăng thu khó bì.
Hãy nên gỡ lớp mê si,
Để tâm giác ngộ mà đi thẳng đàng.
Gọi kêu từ xóm cuối làng,
Mọi người đều phải sửa sang thân mình.
Kẻo khi người cổ tái sanh,
Kẻ nay thẹn mặt hổ tình con dân.
Nói đây không phải dần lân,
Từ đây đến rốt đã cân rõ ràng.
Người lành tợ ngọc tợ vàng,
Kẻ hung như giũa như đàn chớ nao.
Khuyên người đức hạnh giồi trau,
Đối dân với nước liệu sao cho tròn.
Ai ôi ! nhìn lại nước non,
Ngày nay còn lắm thon von khổ nàn.
Bởi lòng dân chúng nhiều đàng,
Ít oi hiền hậu đa đoan hung sùng.
Cho nên quốc nội lung tung,
Ngoại nhân giày xéo khôn cùng lâm ly.
Có thoàn của đấng từ bi,
Nghêu ngao rước khách mau đi bớ người.
Chớ ham chi cái hoạn đời,
Hoạn đời mỏng mảnh của người buổi nay.
Muốn tầm đến đức Như Lai,
Quày chơn day mặt ngó ngay thấy liền.
Người tu sao ít được thiền(g)?
Bởi tu mà chẳng lòng chuyên để hành.
Nay cần phải dọn lấy mình,
Rửa từ ngày một trắng tinh bụi đời.
Khổ đời, đời khổ ai ơi !
Qua cơn này mới thấy đời Thượng nguơn.
Chỉ phiền những kẻ vong ơn,
Sống mà xử việc quân thân không rồi.
Theo loài ăn ở bạc vôi,
Thì ngày sau phải thây trôi như bèo.
Từ đây đạo chánh trì đeo,
Trai lành gái tín đua nhau một đường.
Tây An công phủ đến thường,
Để nghe giảng dạy trong trường từ bi.
Những lời chơn chánh nhu mì,
Lọc lừa cho kỹ gắng ghi vào lòng.
Muốn sao trên dưới giữ đồng,
Ích cho non nước lợi trong gia đình.
Không hề họa dữ nảy sanh,
Bởi ta khuya sớm việc lành chăm nom.
Ai ôi ! sự khổ chưa nhom,
Nay bồ mai lại một om không đầy.
Chừng nào chạy rấn gốc gai,
Quần tơi áo tả mới hay cùng đường.
Bây giờ có chút an khương,
Tưởng đâu là được thạnh cường lắm ư.
Vĩnh miên chỉ yếu việc từ,
Noi theo Đức Phật hậu cư cõi nhàn.
Lắm người lòng thú dạ lang,
Âm mưu giành giựt rối rang trong trần.
Nói ra có kẻ phiền hờn,
Làm thinh sao biết giả chơn mà làm.
Cũng vì đạo chánh muốn kham,
Cho nên mới lắm lần đam chút tình.
Chỉ dùng những lẽ hiền lành,
Để kêu nhau gắng tu hành sớm khuya.
Để ngày Thầy trở lộn về,
Mới là gần gũi hả hê tớ Thầy.
Còn ai lòng dạ tà tây,
Nếu còn sống cũng đứng ngoài ngó vô.
Lại còn lơ việc Nam Mô,
Giang sơn không trọn phù đồ chẳng xuôi.
Đường lành khuyên chớ buông trôi,
Hãy nên gìn chặt săm soi cho thường.
Mặc ai tánh bạo tâm cường,
Lo mình hướng thiện hồi lương cho rành.
Học chi việc của chúng sanh,
Đua nhau mê muội cạnh tranh đủ điều.
Với mình hiểu Phật đã nhiều,
Biết đời là giả còn chìu nó chi.
Lại còn hiểu được huyền vi,
Tin rằng cuộc thế sắp kỳ biến thiên.
Chuyển luân u ám khắp miền,
Kẻ nào theo Phật làm hiền khỏi ngay.
Thường chuyên niệm chữ A Di,
A Di có pháp cứu thì bá gia.
Mấy khi lập Hội Long Hoa,
Mấy khi Thượng cổ trở mà lại đây.
Việc đời còn chẳng có bao dai,
Mạnh chơn gấp bước điện đài đến nơi.
Chớ nên tưởng chẳng đổi đời,
Đổi đời việc ấy người ôi có tường !
Khuyên nhau chỉ một lòng thương,
Đừng nên có việc nhiểu nhương âu sầu.
Tiền tài là món độc sâu,
Thường hay giết hại biết bao nhiêu người.
Quanh mình đầy lũ ma trơi,
Hở ra bọn chúng dắt nơi khổ sầu.
Hỡi ai xét cạn dò sâu,
Bao nhiêu việc quấy khá âu ngừa phòng.
Lời lành khuyên nhủ đạo đồng,
Nghe rồi phải nghiệm nơi lòng thử coi.
Nếu như còn chút tanh hôi,
Hãy nên chùi rửa sạch rồi thân tâm.
Kìa xem nơi chốn rừng thâm,
Phật Tiên dành để kẻ làm tròn ân.
Khói hương khuya tối chuyên cần,
Lòng gìn một mực chớ phân nhiều đàng.
Hãy nên làm phước làm doan,
Đem tiền của có rải ban cho đời.
Sự tu là việc tốt tươi,
Khiến cho tất cả mọi người sống yên.
Không còn chát việc thảm phiền,
Lại là thường giúp thường khuyên nhau cùng.
Đời này ít kẻ hiếu trung,
Bởi vì tam giáo các môn suy đồi.
Tự do, lạm nghĩa quá rồi,
Thành ra phong hóa đến hồi phá băng.
Bây giờ hãy sớm ăn năn,
Để cho luân lý có ngằn thử coi.
Tinh tà dù lắm bươi xoi,
Người tu thấy vậy có mòi gìn hơn.
Hãy năng làm phước làm nhơn,
Thường đem của cải ban ơn cho người.
Ngoài ra còn giúp bằng lời,
Hiền lành chơn chánh cho người học theo.
Ngày kia dù lắm hùm beo,
Cũng không nhiễu hại kẻ theo đường lành.
Một khi tâm nọ chí thành,
Thì là cõi Phật được sanh tới liền.
Thấy người kiếp trước có duyên,
Kiếp này mới gặp Phật Tiên giáng phàm.
Nếu không đạo đức mến ham,
Ngày kia ắt phải chuốc đam khổ nàn.
Cuộc đời như giấc mộng tràng,
Thức rồi cảnh mộng lơ lỡ lang có chi.
Con đường đạo đức hãy đi,
Đi cho đến chốn Liên Trì bớ ai !
Đạo đồng tâm chớ chuyển lay,
Giữ gìn một mực đừng sai chỗ lành.
Lời khuyên người nhớ tu hành,
Để mà cứu rỗi cho mình mai sau.
Nghĩ vì lắm cuộc bể dâu,
Rày đây mai đó gẫm âu quá gần.
Thấy người đạo lý ít cần,
Nên đây phải rán lắm lần nhủ khuyên.
Cũng không tốn bạc tốn tiền,
Lại là được một chữ hiền thơm tho.
Con đường trắc trở gay go,
Phải đi cho kịp chuyến đò Bồng Lai.
Bây giờ khuyên hãy miệt mài,
Dẫu cho sấm sét lòng đây chớ sờn.
Làm lạnh lại quý báo hơn,
Vị danh quyền tước của trần dối thay.
Chỉ vì người quá nhiễm say,
Mà quên ngày trước đã gây phước lành.
Có dư cứ hưởng một mình,
Hết rồi thì cứ lâm tình đói đau.
Chi bằng chia chác cho nhau,
Gặp khi tai nạn người vào giúp cho.
Đạo mầu thiệt rất thơm tho,
Thậm thâm mấy kẻ xét dò tới nơi.
Ai ơi ! kìa hỡi ai ơi !
Sống trong cảnh khổ lắm hồi truân chuyên.
Nay đây có các Thần Tiên,
Có trên Phật Thánh tùy duyên cứu đời.
Trước khi đem dạy hết lời,
Để cho người biết tìm nơi hiền lành.
Nếu không chịu nhớ tu hành,
Sau rồi tận diệt chớ tình thở than.
Cuộc đời nay hiệp mai tan,
Hiệp tan tan hiệp chưa an bớ người !
Từ đây khuyên chớ biếng lười,
Sớm chiều bái sám Phật Trời cho siêng.
Đâu nhàn bằng cảnh thần tiên,
Chỗ nào báu quí bằng Liên Hoa Trì.
Rán mà dứt tánh mê si,
Mê si đã khỏi huyền vi mới vào.
Ai ôi ! cuộc thế ba đào,
Thân người thiệt rất dạt dào nổi trôi.
Miền Tây nước Việt có ngôi,
Cũng vì Thánh chúa phản hồi quang huy.
Nhờ trên có đấng Từ Bi,
Dưới chư Quan Cựu xiết chi phú cường.
Kể từ thất thủ Tây Dương,
Tìm nơi non núi tuyết sương tu hành.
Đến khi quả đắc công thành,
Tái lai phò chúa chuyển sang cứu đời.
Để làm chúng khiếp luật trời,
Khiến cho kẻ biết rõ đời thần tiên.
Nay đây dân chúng hữu duyên,
Cho nên cuộc ấy diễn liền từ đây.
Mịt mù Nam, Bắc, Đông, Tây,
Nổ tan một tiếng điếc tai chát đầu.
Đến đây biết Phật là mầu,
Đường đi đến đó xét âu cũng gần.
Chỉ còn sau chót họa Tần,
Là nơi đẫm máu muôn phần đấy thôi.
Trải qua rồi mới yên ngồi,
Người người khỏi việc nổi trôi ưu sầu.
Còn khi nổi giặc điên đầu,
Phật Trời đã sẵn phép thâu người hiền.
Có đài bát quái ở yên,
Có thuyền bát nhã chở chuyên người lành.
Ai ơi ! khuyên hãy tu hành,
Tưởng Thầy nhớ đạo tâm tình chớ phai.
Muốn sao cho khắp gái trai,
Đến đây nghe giảng để ngay vào lòng.
Ngày kia đi tới non Bồng,
Mới hay lòng Phật thiệt không dối mình.
Bây giờ còn quá u minh,
Nên chi có kẻ nửa tin nửa ngờ.
Tuy rằng xem giảng kệ cơ,
Xem nhiều làm sái ngẩn ngơ lại nhiều.
Từ đây Giới Cấm Tám Điều,
Hãy gìn cho trọn mai chiều tồn sanh.
Lời khuyên tóm tắt sự lành,
Rằng đời tận gấp đem tình nhớ ghi.
Đến đây đã dứt sám thi,
Chào trong đồng đạo tâm trì chớ quên.
Lời giảng tuy là đã dứt xong,
Nhưng xem tất cả cả môn đồng.
Ít người ghi rõ lời khuyên nhủ,
Cũng khiến cho đây quá mũi lòng.
30 tháng 5 Quý Tỵ - tức ngày 10 tháng 7-1953.

  THÁNG SÁU:
15- Ngày Rằm tại Tây An Cổ Tự: Năm Điều Cội Rễ

Ngày Rằm tại Tây An Cổ Tự: Năm Điều Cội Rễ

Thưa quý đồng đạo,
Ví như có kẻ mắc trong đề lao chẳng những họ không trốn ra, lại cũng không lấy đó làm đớn đau buồn
thảm cho thân phận bị đọa đày khổ sở, phải cách biệt quê quán mẹ cha quyến thuộc. Trở lại họ còn nhận cho cái nhà lao đó là quê quán, kẻ tội nhân trong ấy là mẹ cha quyến thuộc của họ, với kẻ này có phải đã điên cuồng mê muội rồi chăng?

Đối với chúng sanh cũng vậy.
Quê quán của chúng sanh là cõi bất sanh, cha mẹ của chúng sanh là các hàng Bồ Tát.

Song vì vọng niệm sai lầm khởi tâm điên đảo mà chúng sanh phải đọa vào cõi Ta bà, mang lấy xác thân
tứ đại, cảm chịu cái sanh, già, bịnh, chết và mọi sự ân ái phiền não nó chi phối. Chẳng khác nào bị giam cầm trong đề lao. Thế mà chúng sanh chẳng lấy đó làm đau khổ xốn xang để tìm cách giải thoát. Trái lại, cứ nhận cho nơi đây là trường tồn là tuyệt mỹ, mặc sức ngày này chí ngày nọ tha hồ say sưa vật dục, đắm nhiễm lợi danh, đeo níu muôn triệu oan gia trái chủ, nào tiền của, nào vợ con mà quên mất căn xưa cội cũ của mình, để cho số kiếp phải lạc luân, chìm nổi từ vô thỉ dĩ lai biết bao nhiêu số kể.

Vả lại, cũng vì mọi thống khổ của chúng sanh mà chư vị Như Lai, Bồ Tát thường hay hóa hiện ra đời tùy phương giáo độ, khiến cho chúng sanh có cơ thức tỉnh. Song kẻ hồi tâm thì ít còn người mê muội quá nhiều, nên các Ngài đành phải ngậm ngùi trở lại chờ đợi thời cơ.

Đến kỳ này là kỳ chót của cõi Hạ nguơn biến hoại, các chư vị siêu hình đã có dịp ra đời phổ độ chúng
sanh, trong số đó Đức Thầy của chúng ta là một. Nếu kỳ này có chúng sanh nào hướng thiện thì được tồn tại, kỳ dư những kẻ hung ác đều phải ra tro mạt do sự đào thải của lúc biến di.

Thưa đồng đạo,
Hôm nay tôi xin giảng về sự “Cần Lấy Năm điều làm cội rễ” cho sự tiến triển trên lẽ đạo đức:

1- Lấy “Chánh Tín” làm cội rễ để tránh sự tin tưởng dị đoan, đánh đổ mọi tà giáo có tánh cách mê hoặc và mọi lý thuyết cố ý xuyên tạc công kích sự tôn ngưỡng chánh đáng của mình.

2- Lấy ‘Dũng Mãnh” làm cội rễ để lướt qua mọi nỗi gian nguy hiểm ngại của hoàn cảnh bên ngoài và đủ chống ngăn mọi sự rù quến ô trược bên trong, hầu làm cho thần trí của mình được trong sạch vững vàng, để tiến gần mục đích.

3- Lấy “Ký Chú” làm cội rễ để ghi nhớ các lẽ trong sạch tốt lành, gạn bỏ mọi điều xấu xa nhơ nhớp cho trí não của mình không bị tà kiến ám ảnh, hầu được thuần một ý tưởng chánh chơn.

4- Lấy “Chủ Định” làm cội rễ để thâu nhiếp vọng tưởng, hàng phục tà tâm cho trở về một màu trong
sạch lặng lẽ của bổn tánh chơn như. 

5- Lấy “Trí Huệ” làm cội rễ, hễ khi lóng lặng vọng tâm tức thì hiện ra trí huệ mà đối trước các pháp hữu
vi, vô vi đều được quán thông vô ngại.

Vả lại:

Nhờ có trí huệ, mà chúng sanh tránh khỏi nỗi ngu si.
Nhờ có trí huệ, chúng sanh mới được giải thoát,
Nhờ có trí huệ, chúng sanh mới khám phá được nẻo luân hồi,
Nhờ có trí huệ, chúng sanh mới thoát vòng tội lỗi,
Nhờ có trí huệ, chúng sanh mới lập nên công đức,
Nhờ có trí huệ, chúng sanh mới hiển tánh từ bi,
Nhờ có trí huệ, chúng sanh mới biết đường hồi vị,
Nhờ có trí huệ, chúng sanh mới rõ nẻo chánh tà.
Nhờ có trí huệ, chúng sanh mới khỏi vòng phiền não,
Nhờ có trí huệ, chúng sanh mới hết mê lầm,
Nhờ có trí huệ, chúng sanh mới đến chỗ bất sanh,
Nhờ có trí huệ, chúng sanh mới vào hàng Tiên Phật,
Nhờ có trí huệ, Tiên Phật mới nhiều phương tiện độ thoát chúng sanh,
Nhờ có trí huệ mà các bậc huyền linh mới hiểu đời sắp ngày biến diệt,

Và:

Nhờ có trí huệ mà vô biên chư Phật, Bồ Tát, Duyên giác, Thinh văn đã thành tựu vô lượng công đức rộng bủa khắp cả mười phương.


Thưa đồng đạo,
Đối với trí huệ của chư Phật Như Lai không thể so lường được, ngày giờ này chúng ta phải gắng chí tu
hành, bền tâm tác phước, để nhờ ơn lượng từ bi của các Ngài gia hộ cho ta khỏi nỗi ngu đần, được khai trí huệ hầu làm việc Phật cứu độ chúng sanh.

Vả chăng chúng ta đã có hồng phúc nên mới gặp Đức Thầy hoặc đã được nghe lời của Đức Thầy giảng
giáo.

Nếu chúng ta không thật tâm thành ý thi hành theo lời dạy đó thì đến ngày kia gặp cơn biến đổi hãi hùng, chẳng bao giờ ta tránh khỏi và cũng không sao cứu được cha mẹ tổ tiên mà lỗi ấy tại ta không thành tâm tu niệm.

Vẫn biết sau ngày Đức Thầy vắng mặt toàn thể tín đồ phải sống trong cảnh huống loạn lạc đao binh. Song những kẻ có tiền duyên và mộ đạo, mặc dù chịu lăn lóc cách mấy họ cũng vẫn đầy đủ đức tin; mà hy sinh cả tài sản tánh mạng; mà cung phụng vào việc tu hành.

Với kẻ này chắc chắn đến ngày Long Hoa sẽ có mặt và họ còn được lãnh lấy một phần thưởng nhiệm mầu của chư vị Phật Tiên.

Để nhắc lại một lần nữa, kiếp này là kiếp chót của vạn vật. Trong cõi Hạ nguơn, nhơn loại sẽ đổi mới, quả đất sẽ biến hình, chúng ta không nên chần chờ dãi đãi, phải sớm chiều hai buổi cầu nguyện cúng lạy cho thường.

Và năng niệm Di Đà lục tự một cách chí thành, đến ngày kia được Phật Ngài cùng chư Bồ Tát hiện thân
đến trước mặt, tiếp dẫn chúng ta thoát khỏi nẻo luân hồi vãng sanh Cực Lạc.

Vả lại, cuộc diện chiến tranh của thế giới ngày nay quá khắt khe, mạng sống của nhơn loại trên quả địa
cầu rất mỏng mảnh mà sức con người hiện kim không phương giải cứu, huống chi việc nắng lửa mưa dầu của cuộc thiên tai sẽ làm cho cả muôn loài, dù cho mình đồng xương sắt, cũng không dễ thoát khỏi hình ảnh thiêu đốt gớm ghê.

Thưa đồng đạo,
Tuy rằng vạn sự “Tùng Ư Thiên Mạng” vẫn biết loài người không tránh khỏi công lệ biến thiên, song những kẻ chơn tu dĩ nhiên phải được thừa ân cứu độ của chư vị siêu hình và trong luật trả vay kẻ này không do đâu mà chịu tai biến vì họ không hề tạo việc bất lành.

Như vậy thì chúng ta còn có một con đường tu hành đạo đức chơn chánh, sẽ là một phương vi diệu cứu
thoát chúng ta khỏi ngày thống khổ.

Tóm tắt, chúng ta hãy làm những việc mà Đức Thầy dạy chúng ta làm, chúng ta hãy bỏ những việc mà Đức Thầy dạy chúng ta bỏ và chúng ta hãy thiệt thi những hành động chánh đáng của Đức Thầy đã làm hoặc dạy chúng ta từ mấy lúc nay.

Hơn nữa, chúng ta là một chúng sanh biết giác ngộ không thể ngơ lảng trước cái thảm kịch sắp đến cho
mình mà không tìm cách chống ngăn xa lánh.

Vậy chúng ta phải hăng hái lên, mạnh mẽ lên để trau tâm trỉa tánh, giồi mài đức hạnh trong lúc sớm chiều, hầu làm cho trở nên trọn lành trọn sáng khỏi nẻo tội mê.

Rừng mê khổ ngó coi thăm thẳm,
Biển trầm luân xem thấy vơi vơi.
Khắp chúng sanh xiêu lạc lắm đời,
Cả nhơn loại nổi trôi nhiều kiếp.
Lẽ đạo chánh người đành bỏ liếp,
Chữ Phật tâm kẻ vội lảng quên.
Mang xác thân giả tạm không bền,
Ở cõi khổ đổi thay chẳng ngớt.
Việc tai nạn ngày nay chưa bớt,
Chuyện hãi hùng sắp tới còn nhiều.
Sợ dân gian gặp cảnh đìu hiu,
Lo bá tánh chịu điều thống thiết.
Thầy vắng mặt an nguy nào biết,
Trò ở nhà giới luật muốn ngơ.
Mặc dù rằng đủ cả kệ cơ,
Nhưng ít kẻ nghiệm xem tường tận.
Mãi gây lấy những điều khốc hận,
Làm mọi người nước mắt chứa chan.
Kẻ đời nay chết bởi bạc vàng,
người Thượng cổ vui vì tánh đạo.
Nay như được nhiều tiền nhiều gạo,
Sợ một mai cơm cháo chẳng còn.
Cuộc thế gian chi xiết hao mòn,
Cõi Tiên Phật lắm điều báu quí.
Ai là kẻ thật tâm chánh kỷ,
Ai là người quyết ý tu thân.
Rán phen nầy gìn vẹn Bốn Ân,
Sau mới khỏi hổ phận thập nghĩa.
Mong đồng đạo hòa nhau bốn phía,
Cầu dưới trên giữ vẹn một lòng.
Trau cho thân như cội bá tòng,
Lọc cho tánh thể màu ngọc bích.
Sau mới toại con nhà Phật Thích,
Được vững vàng chầu đức Minh Vương.
Khổ ngày nay chẳng khác đời Thương,
Sầu hiện tại như thời Trụ, Kiệt.
Ai là kẻ tu hành tinh khiết,
A là người đạo đức sạch trong.
Một phen này hãy rán gia không,
Sau rồi sẽ được nhiều vinh hạnh.
Tu cho khỏi những ngày đói lạnh,
Tu gặp cơn thế giới qui đầu.
Tu làm sao được đến Nam lầu,
Tu cho rõ nhiệm mầu Tiên Phật.
Ai là kẻ ăn ngay ở thật,
Ai là người hễ nói thì làm.
Phải gắng công cho được siêu phàm,
Nên trì chí đợi ngày nhập thánh.
Phải trau trỉa cho nhiều đức hạnh,
Nên giồi mài được lắm công phu.
Để một phen thoát khỏi ngục tù,
Hầu trọn kiếp dứt nơi lao lý.
Bởi cuộc thế lắm điều tà mị,
Nên dương trần chi xiết khổ nàn.
Đấng Từ Bi lìa bỏ tòa vàng,
Hiệp Bồ Tát xuống trần giảng giáo.
Cốt dạy chỉ cho người hiểu đạo,
Để thoát ngày cầy cáo giựt giành.
Hỡi dân gian khuyên hãy làm lành,
Nay bá tánh nên cần niệm Phật.
Đây ngu dốt đôi lời chơn thật,
Mong ai người thánh trí đừng chê.
Phải làm sao Ngọc bệ dựa kề,
Nên liệu lấy khổ trần vượt khỏi.
Phải được có tinh thần rắn rỏi,
Để đưa mình đến cõi thanh nhàn.
Trước cùng sau giữ vững một đàng,
Ngày với tháng tấm lòng không đổi.
Cậy giọt nước từ bi để gội,
Mượn kim cang của Phật đặng cầm.
Diệt trừ cho sạch cái vọng tâm,
Để được có xem tường bổn tánh.
Hỡi đồng đạo ! cần âu đức hạnh,
Ớ chư môn ! hãy rán trung lương.
Cả đôi đàng giữ một niềm thương,
Thầy trở lại khỏi đường lao lý.
Nay chúng ta phải nên kim chỉ,
Từ tiếng lời đến việc phải làm.
Nên lọc lừa sự chánh cho cam,
Điều trái ngược gắng công ngừa bỏ.
Cũng mặc kẻ đời này xiên xỏ,
Sá chi người mạt thế nhún trề.
Miễn cho mình thoát khỏi sông mê,
Sau sẽ có tìm phương cứu chúng.
Nay cuộc thế ngày nào đèn lụn,
Nhìn tuồng đời như thể mây bay.
Chỉ nhờ ơn Đức Phật, Đức Thầy,
Mới cứu được muôn loài vạn vật.
Ngoài ra kẻ ỷ vào nhơn lực,
Có phương nào thoát lưới cho tuần huờn.
Hễ như người tạo lấy ác nhơn,
Đâu tránh khỏi được điều khổ quả.
Chuyện ấy thật rõ ràng khắp cả,
Hỡi ai người nên nhớ khi lòng.
Hầu tránh xa những nghiệp bất công,
Để tìm đến cảnh vui tột hạng.
Tu lợi kẻ lợi mình đảng đảng,
Đâu tốn tiền tốn bạc chi chi.
Thương mới đem các việc từ bi,
Không hề ép những gì tốn kém.
Sợ đó chữ tu hành vội ném,
Nên đây khuyên người hãy bền lòng.
Phải một phen chịu chữ cay nồng,
Sau ngàn thuở hưởng điều thơm lạ.
Có chi rộng cho bằng đạo cả,
Chân bước vào mới rõ nhiệm mầu.
Bể hồng trần lăn lóc từ lâu,
Cõi Tiên Phật kíp mau đi tới.
Việc khổ thảm còn nhiều nhiều nỗi,
Cõi nhơn gian ai hỡi hỡi tu.
Để làm cho sấu nọ hóa cù,
Được đi đến người già đổi trẻ.
Nay cũng mặc cho đời mạnh mẽ,
Người tu thân nên chịu yếu mềm.
Đến ngày kia mới thấy động êm,
Nay chập chững chưa tường hư thiệt.
Đợi đến lúc hoàn cầu tiêu diệt,
Mới biết ai hữu phước sống đời.
Để ngày kia hội Phật, hội Trời,
Đặng hiểu rõ ai còn ai mất.
Nay khuyên nhủ là lời chơn thật,
Mặc ý người nghe chánh thì làm.
Phải gìn xong Giới ngũ, Quy tam,
Nên giữ trọn Bốn ân, Mười thiện.
Nhờ đó mới thoát ngày biến chuyển,
Bằng không đâu khỏi lúc tai nan.
Hỡi đạo đồng tâm tánh sửa sang,
Bớ nam nữ ý tình trau trỉa.
Để nghe sấm được còn hồn vía,
Đến khi nguy thân có vững vàng.
Nay cuộc đời thiệt rất mỏng màn,
Đâu bền bỉ người toan ngó lảng.
Sự tu tấn khuyên người hãy rán,
Nẻo huyền cơ ớ chúng gắng chờ.
Chữ từ bi hai việc nên thờ,
Điều trung hiếu đôi đàng phải gắng.
Tuy học Phật tu nhân chắc chắn,
Gồm cả hai đời đạo một lần.
Để được xem lập hội Phong Thần,
Hầu thấy rõ nơi đài Long Hội.
Khuyên ai rán lánh chừa tội lỗi,
Gọi người nên làm việc phước lành.
Nếu biết tu thời phải biết hành,
Có học đạo phải cho thành đạo.
Vậy mới gọi con nhà Phật giáo,
Vậy mới là xứng kẻ theo Thầy.
Lời tôi khuyên những lẽ thẳng ngay,
Tâm đồng đạo mặc tình chọn lọc.
Tuy rằng vẫn còn đang tu học,
Nhưng thương đời phải bảo nhiều điều.
Để mong người đạo chánh nâng niu,
Hầu nhắc kẻ nhớ câu huyền bí.
Tu thì phải kiếm tầm chơn lý,
Hành thì nên gạn rõ lẽ mầu.
Cuộc tuần huờn xét thấy không lâu,
Ngày biến đổi đến đây gần lắm.
Hỡi đồng đạo máy linh hãy gẫm,
Ớ nữ nam việc thiện nên ghi.
Sớm với chiều niệm chữ A Di,
Ngày cùng tháng lòng trau đạo đức.
Việc xảo trá hãy nên đoạn dứt,
Điều thật thà cố gắng giữ gìn.
Để làm cho thoát cuộc tử sinh,
Hầu đi đến ngày kia giải thoát.
Đây khuyên nhủ chị anh cô bác,
Cùng nữ nam đồng đạo hãy nghe.
Bởi cuộc đời biến chuyển không dè,
Vì tình thế chuyển day quá gắt.
Nên khuyên đó từ tâm giữ chặt,
Hành đạo mầu chớ vội buông lơi.
Phải gắng công tưởng Phật tưởng Trời,
Nên trì chí nghe Thần nghe Thánh.
Dầu lao lý cũng không đổi tánh,
Có nhọc nhằn chớ vội thay lòng.
Rán tu chơn gặp hội Hoa Long,
Nên hành thiện chờ câu báo ứng.
Lời khuyên nhủ cho người trau phận,
Lẽ nhắn nhe khiến kẻ sửa mình.
Để thoát qua ngày có tam thinh,
Hầu khỏi cuộc chuyển day tứ hướng.
Đây chẳng phải là lời nói bướng,
Vì yêu đời nên mới phô bày.
Lời giảng khuyên đồng đạo gái trai,
Xin tạm dứt ai ai về nghỉ.
Dứt giảng xong rồi hỡi bá gia,
Hãy nên tuần tự để đi ra.
Khi đi hãy nhớ từng câu một,
Hầu có trao cho kẻ ở nhà.
15 tháng 6 Quý Tỵ - tức 25 tháng 7-1953.

  THÁNG BẢY:
16- Tai Tây An Cổ Tự, Ngày 1 tháng 7 năm Quý Tỵ: Năm sức mạnh mẽ của người

Tai Tây An Cổ Tự, Ngày 1 tháng 7 năm Quý Tỵ: Năm sức mạnh mẽ của người

Thưa quý đồng đạo,
Có khó mới rõ được đạo và cũng nhờ gặp việc khó mới biết rõ lòng người.
Vì sớm mai này tôi mắc đi dự lễ thượng hương của phủ thờ ông Ba Thới nên buổi giảng hôm nay để quá trễ hơn mọi kỳ.

Tuy vậy anh em đồng đạo mặc dù giờ này có người chưa dùng cơm, lòng tuy thấy đói, nhưng cũng vẫn
sẵn sàng chờ đợi để được nghe những lời giảng giải đạo lý.

Có điều khiến tôi phải hết sức cảm động, là thấy có những đồng đạo ở xa chẳng nài sự mệt nhọc khó khăn, len lỏi đến đây một vài ngày trước để chờ đến bữa nay đặng nghe giảng. 

Đó chẳng qua vì lòng quá ngưỡng mộ đạo đức khao khát lời lành, thành thử khiến cho đồng đạo quên đi sự nguy hiểm, đói khát và mệt nhọc miễn sao được nghe những lời đạo lý dầu có thác cũng vui.

Để tạm đáp lại cái tinh thần đạo đức cao thượng của đồng đạo đã biểu dương từ phiên giảng này đến phiên giảng khác, bằng cách nhẫn nại, chịu gian lao khó mỏi, để tìm cho được yếng sáng của đạo Phật, tôi chỉ còn có một tấm lòng chơn thành đạo đức duy nhứt, mà Đức Thầy đã dạy cho từ lâu, nay đem ra trao đổi cùng chư đồng đạo, để làm cho nhau càng ngày càng được có niềm thương yêu khắn khít, sự hiểu biết đồng nhau và đến chỗ thật hành thuần chánh, không trái ngược tôn chỉ của chúng ta đang sùng phụng.

Thưa đồng đạo,
Đạo vốn rộng lớn vô cùng, vi diệu cực điểm, dù ai cũng phải bước trong đó mới cứu mình, cứu người được thoát khỏi chỗ thống khổ tai hại.

Đạo làm một con đường quang minh chánh đại, dắt người từ bên này bờ mê của chúng sanh đi thẳng đến bên kia bến giác của chư Phật, được toại hưởng mọi sự an vui ngoài vòng luân hồi sanh tử.

Vả lại trong khoảng Hạ nguơn này, vì đi xa lẽ đạo, nên cả thảy chúng sanh đều chịu lấy biết bao cuộc
tranh giành giết hại những người này với người khác, mong đoạt lấy lợi ích cho mình. Nhân đó, biết bao nghiệp mê, nhân ác. Đồng thời dấy lên xô đẩy con người vào hố sâu tội lỗi, để rồi muôn vạn kiếp đời cứ xoay lăn theo bánh xe luân hồi, đáp trả lại việc làm đen tối của mình từ trước kia một cách đau khổ.

Bởi vậy kẻ đã tự giác lẽ thăng trầm siêu đọa, cần nhờ đến cái đạo để mình gội rửa những điều tham
lam, sân nộ, mê si đổi làm Giới, Định, Huệ trước đoạn trừ xong hoặc nghiệp đã gieo, sau tu chưởng thiện căn cho ngày sẽ tới, khiến mình không còn bị sự ràng buộc trói trăn của các ác duyên ma oán nữa.
Và cũng thế vì muốn đạt chỗ rộng lớn sáng sâu của đạo mà kẻ tu hành thường làm những việc khó làm, bỏ những việc khó bỏ, cho đến thân mạng của họ cũng thế.

Huống chi vào cõi thời hạ nguơn các đấng huyền linh đành lìa cõi an vui vào cõi ngũ trược, dùng biết bao nhiêu diệu thuật để giác tỉnh lòng người, hầu khiến cho kẻ mê muội có cơ thấy rõ nơi đời tạm giả mà rứt bỏ các việc tội lỗi sai lầm, được sống còn đến ngày lập đời thượng cổ hoặc có mạng chung cũng được siêu sanh về Cực Lạc.

Các đấng huyền linh đó sau khi lâm trần, chọn các xác phàm phù hợp cơ duyên, mượn tay hoặc ứng
mộng, mật truyền diệu pháp để cứu độ chúng sanh.

Dù không nói ra, chúng ta cũng đoán biết các vị ấy hễ có xác thân, dĩ nhiên là phải ăn uống, nói cười như người thường. Song bên trong của họ, chứa chan lòng từ bi, trí sáng suốt, hằng yêu thương chúng sanh mà lúc nào cũng tùy nghi dạy dỗ. Ai mới trông thoáng qua cơ hồ như khó mà hiểu được thâm ý của các Ngài vì phần nhiều các Ngài đều có đức tánh khiêm nhượng và rất mực kín đáo.

Ngoài các vị này, Đức Di Đà Ngài cũng thường phóng ánh từ quang khắp cõi Ta bà, ủng hộ và tiếp
rước những chúng sanh thành tâm tưởng niệm danh hiệu của Ngài mà cầu sanh về cõi tịnh độ.

Song vì chúng sanh bị màn vô minh từ vô thỉ đến nay đã che mờ đạo huệ, nên ít kẻ được trông thấy ánh từ quang ấy, mơi đâm ra nghi ngờ rồi dẫn đên chỗ dãi đãi lui sụt đức tin.

Thương hại thay ! Những kẻ đó chẳng khác nào người đã mù từ hồi còn trong bụng mẹ, chưa từng thấy được yếng sáng của mặt trời, có sức soi chiếu khắp mười phương, nên khi nghe có người nói đến điều đó thì sanh lòng nghi hoặc mà cho rằng không có.

Thưa quý đồng đạo,
Để tránh cho chúng ta khỏi trở thành những hạng người mù đã nói trên đó, hôm nay tôi xin giảng về:
“Năm sức mạnh mẽ của người” trong lúc hành đạo:

1- Sức tin tưởng mạnh mẽ rằng: Ngoài cõi Ta bà ác trược này, còn có vô lượng cõi khác trang nghiêm
thanh tịnh hơn. Các cõi ấy chỉ dùng hào quang của chư Phật, chớ không chịu ảnh hưởng ánh sáng của
mặt trời và những chúng sanh ở đó không già, không bịnh, không chết và hưởng mọi khoái lạc.

2- Sức phấn tấn mạnh mẽ để vượt khỏi cõi ngũ trược ác thế, đặng đưa mình đến các cõi trang nghiêm ấy.

3- Sức trì niệm mạnh mẽ danh hiệu của Đức Di Đà cho đến nhứt tâm bất loạn, để nhờ cảm lấy cái nhân
ấy, mà được Đức Phật tiếp dẫn cho mình vãng sanh về nước của Ngài.

4- Sức tự chủ mạnh mẽ lúc nào cũng đi theo tôn chỉ cao siêu, bổn nguyện chánh đáng của mình, không hề bị ngoại cảnh cám dỗ, thị dục sai khiến làm những điều trái ngược cho thân tội khổ.

5- Sức quan sát mạnh mẽ đối trước thiên hình vạn trạng, đều lấy trí phân tích rõ ràng tỉ mỉ từ việc một, để tránh khỏi sự lỗi lầm sái quấy có hại cho mình hay kẻ khác ở hiện tại hoặc sau này.

Năm điều này người học đạo trong bước đầu tiên cần phải nhờ nó, để tránh những sự nhiễm ô thất thố và được dũng mãnh tiến trên đường đạo đức một cách như ý.

Vì rằng sự tu của chúng ta là cốt diệt bỏ những lỗi lầm từ trước đến nay, mà chúng ta đã kết tập nó nhiều đời thành một thói quen. Nếu không nhờ sức tin tưởng, lòng phấn tấn mạnh mẽ thì không dễ nào tiến đến mục đích cao siêu được.

Vả lại, cũng bởi thiếu các đức tính mạnh mẽ đã kể trên, nếu có một số người vừa mới nghe cơ giảng lúc
đầu lấy làm hăng hái, song vì không được chủ định hẳn hòi cho nên sau đó một ít lâu rồi đem lòng xao
lảng ngờ hoặc. Những lòng hăng hái nồng nhiệt trước kia bỗng biến thành như tro tàn củi mục. Nếu có kẻ đã làm như thế, dù đến muôn đời cũng không sao thành công đắc quả được.

Thưa quý đồng đạo,
Dở dĩ phải sanh nhằm đời chiến tranh hỗn loạn, vì chúng ta đã gây nghiệp khổ từ xưa đến phút này phải
đền trả. Tuy vậy kèm theo sự thống khổ này, có các bậc siêu phàm ra đời dìu dắt chúng ta khỏi nghiệp tội mê si.

Như vậy trong cái khổ ách, chúng ta còn được hưởng cái phúc lành vô hạn, thì chúng ta phải hết lòng
tin tưởng phụng hành các giáo điều của Ơn Trên Thầy tổ đã dạy. Vì nếu chúng ta không cố gắng như thế
chừng đến lúc hấp hối hoặc khi tai biến đưa lại bất ngờ ta khó bề hối quá cho kịp, mà các đấng Phật Thần dù đã có lòng thương ta, song cũng không nhân vào đâu để cứu vớt ta được.

Hơn nữa, việc tu học ngoài sự tự cứu lấy ta, ta còn có cái bổn phận phải lo cứu tổ tiên cha mẹ và đến mọi người cùng được thoát vòng khổ hải nữa. Thế nên ta không hề dám chần chờ thối chuyển việc tu hành đạo đức.

Thưa đồng đạo,
Những lời của tôi nhắc nhở đồng đạo, là những điều của Đức Thầy đã nói trong các sám giảng, mà tôi đã thu kết ý chỉ đem nhắc lại, với ngu ý của tôi là muốn làm sao cho đồng đạo trên dưới được đầy lòng thương mến nhau, để tránh cho nhau khỏi nạn tương tàn tương tặc, không trái ngược chơn truyền bác ái của nhà Phật và làm xứng đáng một người tín đồ của Đức Thầy.

Và ai cũng đều được thận trọng lấy mình:
1- Chừa bỏ các việc hung ác.
2- Làm lấy mọi điều hiền lành.
3- Tự lóng sạch được tâm ý.
4- Không hề trái lại lời của mình đã phát nguyện trước bàn Tam Bảo và Tổ tiên.

Có được như thế thì các việc tai ương thống khổ giữa loài người có bao giờ nảy sanh và cõi nào mức
nào mà chúng ta không đến đó được, bởi chúng ta là kẻ được trọn lành, được đi đúng với chí nguyện của chư Phật cổ kim đã có.

Cuộc thế lao lung biết mấy chừ, 
Thảm sầu môn đệ vắng Tôn sư !
Lời khuyên Thanh Sĩ mong người tỉnh,
Để lúc Thầy về hưởng phước dư.
Mượn chánh pháp đóng thuyền đưa nhơn loại,
Đem hạnh lành làm đất chở quần sanh.
Từ thấp hèn đi đến chỗ cao thanh,
Bao thống khổ nhơn sanh cần nhứt định.
Phải vững chí với cần thêm bình tĩnh,
Hầu thực hành đạo chánh ở nơi lòng.
Cuộc chuyển lay nhơn loại khắp đại đồng,
Điều tai khổ quần sanh cùng bốn phía.
Cũng đã xảy lắm điều người mất vía,
Thường hiện ra nhiều việc chúng kinh hồn.
Mà ngắm xem dân sự khắp làng thôn,
Có mấy kẻ thật sùng tôn Phật Pháp.
Lời khuyên nhủ mong người nên tu gấp,
Tiếng kêu gào ước kẻ việc chơn cần.
Lẽ diệu mầu của Phật với thần,
Điều cao khiết nơi Tiên cùng nơi Thánh.
Mong ai biết đâu là đường chơn chánh,
Thì gắng công tìm đến lãnh thâm huyền.
Tuy khổ nàn không lấy đó làm phiền,
Dầu lao lý chớ rũ lòng xao lảng.
Bởi thế cuộc sắp một ngày phao tán,
Mới khiến ra nhơn loại phải điêu linh.
Chỉ có người đạo đức một lòng tin,
Mới thoát bớt được ngày lao với khổ.
Hỡi đồng đạo ! gắng tìm phương tịnh độ,
Ớ chư hiền nên nhớ niệm A Di.
Đời khổ nàn danh lợi nữa mà chi,
Thế điên đảo sắc tài rồi cũng bỏ.
Chỉ có việc cần tầm cho ra ngỏ,
Khỏi tối tăm tránh đó nỗi đau sầu.
Đến ngày sau đi đến chốn Long lâu,
Được thấy rõ tài kia thêm phép nọ.
Nợ nước phải đền chút công lớn nhỏ,
Nghĩ ơn mình đã có cậy nhờ lâu.
Hễ người cư tấc đất hưởng ngọn rau,
Cần phải biết đến điều trung lẫn chánh.
Nay muốn có lắm người chơn đạo hạnh,
Vì thương đời chẳng quản hiểu thô sơ.
Nhắc nhở cho nam nữ phút cùng giờ,
Kêu gọi cả gái trai ngày lẫn tháng.
Để tỉnh thức sửa mình thêm chánh đáng,
Hầu khỏi ngày nguy khổn đến bên thân.
Thế gian này lao khổ biết muôn ngần,
Nhơn loại đấy nổi trôi đà vạn kiếp.
Nay phải rán lo tu hành cho kịp,
Để ngày sau người sẽ được sống còn.
Cơ hội này xét lại quá thon von,
Tình thế hiện gẫm xem đà ngao ngán.
Muốn cả thảy mọi người mau tỉnh đặng,
Hầu khỏi cơn lao khổ của ngày kia.
Để được xem mầu nhiệm hội Long Huê,
Hầu thấy rõ huyền vi trong Phật Pháp.
Mây thẩm bủa tràn khắp Á, Âu,
Cuộc cờ chiếu bí dễ ngờ đâu.
Ngày nay sung sướng mai đau khổ,
Đạo đức ai ơi ! gắng chí cầu.
Thương đời tôi phải khuyên đời,
Nghe không cũng mặc nhưng lời vẫn phân.
Muốn người dựa được các lân,
Nên đây đi khắp thế dân khuyên mời.
Muốn cho người biết Phật Trời,
Ước sao kẻ được nghe lời Thánh tiên.
Hồng trần lao lý vô biên,
Ta bà khổ ách não phiền siết chi.
Xa Thầy dòng lệ lâm ly,
Ngày qua lại vắn tình ni đoạn trường.
Môn nhơn cùng một niềm thương,
Cứ trông, trông mãi sao đường mờ xa.
Nỗi thương cho khắp trẻ già,
Trông Thầy lâu trở đâm ra lảng lòng.
Bàn thông thiên vắng hương nồng,
Cửu Huyền bàn Phật càng trông lạnh lùng.
Để cho meo đóng đầy chung,
Lư hương xét lủng bàn trồng ngã nghiêng.
Nhện giăng bụi đóng xằng xiên,
Sớm buồn không nước chiều phiền vắng hương.
Có nhà thấy bắt sầu thương,
Ngồi sai em nhỏ đốt hương sớm chiều.
Nhìn quanh cảnh huống đìu hiu,
Trông vào ai khỏi chín chiều bâng khuâng.
Chỗ nào đâu gọi nghĩa nhân,
Theo Thầy sao chẳng giữ thân cho tròn.
Lẽ ra muốn vẹn tôi con,
Dầu cho biển cạn non mòn chớ buông.
Tình đời càng thấy quay cuồng,
Nhìn nhau mà hột lệ tuôn mỗi ngày.
Hỡi này đồng đạo gái trai !
Đến đây nghe giảng chớ quay tấm lòng.
Hãy nên tin tưởng mặn nồng,
Càng ngày càng giữ cho lòng thanh cao.
Cuộc đời thay đổi rất mau,
Cũng như gặp gió sóng nào khỏi đâu.
Sợ e mình thiếu đạo mầu,
Lo gì nơi quả địa cầu chẳng xoay.
Cuộc đời còn bận tà tây,
Cho nên tớ phải xa Thầy thảm thê.
Muốn sao cho Đức Thầy về,
Dưới trên cùng giữ một bề chánh chơn.
Nếu còn kẻ ghét người hờn,
Lòng đen dạ bạc chưa gần được nhau.
Ai ôi ! càng nghĩ càng đau,
Nên đem giảng kệ khuyên nhau tỉnh lòng.
Rán tu dự hội Lư Bồng,
Rán tu để có được phong tôi hiền.
Rán tu để gặp Phật Tiên,
Rán tu dự hội Hoa Liên bớ người.
No nao kẻ biết rốt đời,
Để hầu chẳng nhiễm những lời dối ma.
Chừng nào cho khắp người ta,
Dưới trên cùng một hiền hòa mới yên.
Nay đương hưng chấn bạc tiền,
Nên đàng đạo lý ngửa nghiêng ưu sầu.
Thương người gắng chí nguyện cầu,
Dầu cho lao lý chẳng xao tấc lòng.
Buồn người nay bưởi mai bòng,
Sớm tu chiều bỏ đau lòng Phật Tiên.
Làm sao cho đáng mặt hiền,
Làm sao khỏi cuộc đảo điên bớ người.
Làm sao hết khóc rồi cười,
Làm sao hết chết được đời trường sanh.
Làm sao được gặp mây lành,
Che đoàn con dại nhọc nhanh khỏi vương.
Làm sao thoát họa nhà Thương,
Để mà gặp Đức Văn Vương thử nào.
Làm sao khỏi giống bên Tàu,
Thần quyền hết kể máu đào chảy tuôn.
Làm sao tháo gút rối cuồn,
Để cho cùng được đi suông một đàng.
Lòng tôi thương kẻ gian nan,
Chẳng nài khó nhọc xa đàng đến đây.
Muốn nghe dầu phải đắng cay,
Lòng không quản đến chỉ mài sự tu.
Ngày kia phước huệ sẽ bù,
Để mà sống sót ngao du non Đài.
Hỡi này đồng đạo gái trai,
Giảng khuyên để nhớ chứ phai câu nào.
Bữa nay lời lẽ thanh thao,
Lòng kia cũng được khiết cao mới là.
Chỉ nên niệm chữ Di Đà,
Nằm ngồi đi đứng lòng mà không quên.
Ngày kia cõi Phật được lên,
Thượng Nguơn đặng sống coi Đền Đế Vương.
Bây giờ còn bận còn mù sương,
Nên chưa rõ ánh thái dương ngần nào.
Lời khuyên người phải cần trau,
Cuộc đời biến đổi có nào chờ ai.
Lòng kia khá giữ thẳng ngay,
Có cơ cứu độ khỏi tai khỏi nàn.
Khuyên nhau giữ vẹn một đàng,
Đến đây đã dứt hãy toan lui hài.
Giảng giải đến đây đã dứt rồi,
Lòng kia hãy rán nhớ buông trôi !
Con đường xa mới tri tình ý,
Đạo lý nhiệm mầu lắm kẻ ôi !
Mùng 1 tháng 7 Quý Tỵ - tức 9 tháng 8-1953.


17- Ngày Rằm tại Tây An Cổ Tự: Hai điều của kẻ Tự giác

Ngày Rằm tại Tây An Cổ Tự: Hai điều của kẻ Tự giác


Lòng nguyện rằng đưa khách khỏi rừng,
Giữa đường đuốc huệ nỡ nào ngưng.
Dầu cho gió bão hay beo gấu,
Cũng chẳng hề nao được trí thần.

Chào quý đồng đạo,
Hôm nay tôi không tiện nói nhiều vì trong người của tôi có phần bịnh hơn kỳ trước, cần phải điều dưỡng, hầu dành cho kỳ khác được đủ sức khỏe để nói nhiều hơn.

Bây giờ tôi chỉ tóm lượt vài điều đạo lý để khuyến khích đồng đạo, có trau sửa cho mình càng lúc càng
được phần chơn chánh hơn buổi trước.

Vậy tôi xin giảng về: “Hai điều của kẻ biết tự giác” trên đường Đạo.
1- Chọn lựa phương pháp để tu học.
2- Sau khi được phương pháp ấy rồi phải cương quyết thật hành.

Đạo chỉ có một, pháp thì có nhiều.
Pháp có nhiều là bởi nghiệp của chúng sanh có nhiều. Bởi vậy các vị cứu đời từ xưa đến nay, lúc nào
cũng vẫn phải tùy theo căn cơ trình độ của chúng sanh, mà quyền lập ra phương kia pháp nọ để tiện bề
giáo độ.
Cho nên kẻ tu học không thể ai cũng đồng hành một phương pháp như nhau được, mà là tự mỗi người phải tự tìm lấy một phương pháp nào thích hợp với tâm năng trí hóa của mình, để mà thi hành mới có hiệu quả.

Những phương pháp ấy có dạy trong kinh giảng, nghĩa là trong lúc xem kinh giảng ta cần chú ý tìm kiếm đoạn nào, mà trong đó có chỉ rõ phương pháp mà ta xét rằng điều ấy thích hợp với trình độ của ta và ta có thể thi hành theo đó, sẽ thành công được thì cứ việc cương quyết mà làm lấy.

Ví dụ: Ta đọc giảng của Đức Thầy đến câu: "Diệt lục căn đừng nhiễm lục trần", lúc đó ta thấy phương ấy nếu một khi ta làm đúng theo là được kết quả viên mãn trong đạo Phật, thì ta cứ học ngay và phải cương quyết, như:

1- Cương quyết ngự trị cho mắt không bị cảm nhiễm các sắc tà như: Các sắc đẹp măng búp yêu kiều,
những son phấn tô điểm lả lơi, vì nó có mãnh lực quyến rũ người đắm đuối, theo đó mà nát cửa tan nhà,
hư thân mất nết, lụn bại cả tâm thần, quên hết thể thống của gia tộc và quốc dân.

2- Cương quyết ngự trị cho tai không bị cảm nhiễm các lời tà như: mọi tiếng đường mật, than thở véo von, những vọng đờn địch ca sanh trầm bổng, vì nó có mãnh lực ru hồn người làm cho say sưa mê choán cả đầu óc, bồng bột các ý tưởng vạy tà, không còn phân biệt những lẽ hư nên tốt xấu.

3- Cương quyết ngự trị cho mũi không bị cảm nhiễm các mùi tà như: các thứ hương xông xạ ướp, những mùi dầu mỡ tẩm dầm, vì nó có mãnh lực khêu gợi con người tham đắm vật dục, đưa dẫn đến chỗ tồi bại hư hỏng một cách vô nghĩa.

4- Cương quyết ngự trị cho lưỡi không bị cảm nhiễm các vị tà như: các thứ ngon mồm, những đồ lạ miệng, vì nó có mãnh lực xô đẩy con người đi tìm kiếm khắp nơi, để bồi bổ cho khẩu dục một cách đê tiện, mà suốt đời cơ hồ như không được thỏa mãn.

5- Cương quyết ngự trị cho thân không bị cảm nhiễm các vật tà như: những cảnh giàu sang sung sướng,
các thứ êm ấm mịn màng, vì nó có mãnh lực kích thích con người chạy không hở chưn, lưng không nóng chiếu, đâm lao thế mọi, lánh nặng, tìm hơn và cái ý cung cấp cho nó lắm sự mưu mô, để tu bồi cái giả thân hoạn chất mà gây lấy biết bao điều tội ác nghiệp mê.

6- Cương quyết ngự trị cho ý không bị cảm nhiễm các việc tà như: công danh tước vị, thế lực quyền oai, chưng dọn phấn son, say sưa rượu thịt, mê mẩn điếm đàng, tập tành cờ bạc, nào tham lam giận giũi, nào dối mị gạt lừa, thêm biết bao điều ham muốn khác, đưa người vào hầm lửa hố sâu của vật dục, để bị chôn nhốt đốt thiêu đã trải qua muôn kiếp mà đến bây giờ cũng chưa ra được.

Một khi lục căn không bị cảm nhiễm lục trần thì lục thông sẽ phát hiện.

Như có câu: “Nhân căn trần chi thanh tịnh tức đắc lục thông chi hiện giả dã", nghĩa là nhân người sáu căn với sáu trần thanh tịnh thì được sáu pháp thần thông phát hiện đó vậy.

Lúc ấy: Mắt thấy suốt khắp nơi không bị che khuất ngăn ngại, tai nghe rõ khắp nơi không bị giấu giếm lầm lẫn, chơn đi khắp nơi một cách chớp nháng không bị trở trệ khó khăn, trí nhớ biết hết các kiếp trước; kiếp sau; kiếp sẽ tới của mình và chúng sanh, tâm hiểu hết ý niệm của các chúng sanh, thân tâm không còn mảy sót lậu nào nữa. Địa vị ấy hàng La Hán sấp lên, thoát ngoài vòng luân hồi lục đạo.

Như thế, đó là ta đã hành xong câu: “Diệt lục căn đừng nhiễm lục trần” của Đức Thầy đã dạy cho rồi vậy.

Hoặc khi ta đọc đến câu:
“Chữ lục tự trì tâm bất viễn,
Thì lâm nguy có kẻ cứu mình”,

lòng ta tự tin rằng khi ta làm được như thế, sẽ được sự hộ trợ của Đức Phật, đúng như lời của Đức Thầy đã nói, thì ta cứ cương quyết chủ tâm trì niệm sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật một cách khẩn thiết, như kẻ sắp chết đắm mà van lơn cầu cứu người trên bờ, cho đến không dám nghĩ điều nào khác, vẫn được nhứt tâm bất loạn.

Có thể cả mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý của ta cũng đều niệm được như vậy hết. Khi đó do công đức ấy
mà các vị Thiên long, Hộ Pháp thường theo ủng hộ cho ta. Thảng như gặp phải sự nguy hiểm tai biến, đề được các vị ấy che chở, phò trì cho qua khỏi mà không hề khốn lụy đến mình.

Chẳng những vậy thôi, mà còn Đức Phật Ngài hiện thân đến vò đầu hoặc có lời khen ngợi, hay thọ ký cho ta, khi ta mạng chung sẽ được Phật Ngài cùng chư vị Bồ tát đến tiếp dẫn về nước Cực Lạc của Ngài để hưởng lấy mọi sự an nhàn khinh khoái, không còn già, bịnh, chết chóc, thống khổ chi nữa. Va còn được có phép công đức thần thông vô lượng để cứu vớt cho tổ tiên, cha mẹ và quyến thuộc của mình cũng đồng được siêu sanh về ở chung một cõi với mình, hay cõi khác và cũng được các việc thanh nhàn như vậy.

Nếu được như thế, là ta đã hành xong chữ lục tự của Đức Thầy dạy cho một cách viên mãn rồi đó.
Vả lại có câu: “Tịnh độ Pháp môn chí huyền chí diệu bất tu dư hạnh nhi đắc ba la mật”, nghĩa là pháp môn tịnh độ rất huyền rất diệu chẳng tu hạnh nào khác mà cũng được đáo bỉ ngạn tức là thành Phật.

Thế nên, chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa, có thể chỉ tu một pháp môn Tịnh Độ cũng được đưa mình đến chỗ giải thoát, không lựa phải tìm cho nhiều pháp môn mà làm cho rối loạn đầu óc, mờ mịt lối đi không chủ định một phương hướng nào chắc chắn.

Hỡi đồng đạo,
Đức Phật bao giờ cũng tìm kiếm cứu vớt chúng ta, không bằng cách này cũng bằng cách khác, vì rằng
Ngài không đành để cho chúng sanh phải đau khổ. Bởi Ngài coi nó cũng như con của Ngài đã lạc loài từ lâu,Ngài hết sức nhớ thương, mà phải rảo chơn tìm kiếm khắp chỗ. Nhưng ôi ! con của Ngài nó quên Ngài, nên Ngài càng tìm kiếm thì nó càng trốn mãi, cho đến nỗi đôi đàng không thể gặp nhau. Như thế, có biết bao giờ cùng nhau tương ngộ để vui hưởng phúc khoái lạc thiêng liêng.

Cũng như Đức Thầy của chúng ta đã dạy cho chúng ta từ chơn tóc, kẽ răng. Nhưng sau một thời gian vắng mặt độ không được mấy năm, mà lòng của anh em tín đồ lớn nhỏ phần đông tựa hồ như củi mục, tro tàn, sự tin tưởng như sóng bủa xưa kia nay không còn nữa.

Ôi chúng ta có thể bội bạc Đức Thầy được ư? Chúng ta có nhớ chăng? Đức Thầy đã vì chúng ta mà giờ phút này còn ở nơi ngàn xa vắng bặt, lòng nhớ thương nỗi đau đớn lo ngại cho chúng ta biết còn giữ các qui điều đã dạy hay là đã quên mất đi chăng? Có thể nói một tín đồ biết đáp ân cho Đức Thầy chăng là chỉ ở trong lúc này: Lúc mà Đức Thầy vắng mặt cũng như cha mẹ đi xa, mới rõ lòng của các con có thật tâm trông đợi và bảo thủ gia đình cha mẹ một cách trọn vẹn chăng? Hay là chỉ đua nhau đánh đập xâu xé, giành giựt của tiền, làm cho đổ máu thịt rơi mà quên rằng đó cũng đồng một bào thai sanh sản.

Hỡi đồng đạo,
Tình cảnh của chúng ta hiện giờ yếu mềm tựa như cây chuối dễ ngã, dễ xiêu, mỏng bở tựa như bọt nước
giữa dòng sông dễ tan, dễ mất thì lẽ ra chúng ta phải đoàn kết lẫn nhau, để xây dựng một vách thành kiên cố, hầu bảo vệ cho nhau được còn nguyên vẹn, chờ ngày Đức Thầy trở lại. Chớ bao đành nhân lúc vắng mặt Đức Thầy, chúng ta vội ngơ mất tình xưa nghĩa cũ, tiếng kệ lời kinh, để làm ra những cuộc giận mặt mày hờn. Trong cảnh này thử hỏi ai xem qua mà chẳng đau đớn.

Sở dĩ tôi phải hết lời nhắc nhở đồng đạo, vì đồng đạo với tôi cũng đồng là người tín đồ của Đức Thầy, nếu tốt thì cùng tốt chung, bằng xấu thì xấu cả, hơn nữa phải gắng sức làm tròn bổn phận của một tín đồ biết thương yêu lẫn nhau, dìu dắt cho nhau trên đường đạo đức, để khỏi phụ công trình khó mỏi hoằng hóa của Đức Thầy.

Huống nay, chúng ta không trì chí tu hành để sau này gặp phải nhiều sự tai biến hãi hùng của cơ luân
chuyển, thì lúc ấy ví có Thầy một bên cũng không thể lấy lòng riêng mà cứu an cho ta được nếu chúng ta đầy dẫy tội phạm.

Tóm tắt, mục giảng này chỉ để nhắc cho anh em đồng đạo: Trong khi xem giảng kinh phải tự chọn lấy
một phương pháp không quá sức của mình, để rồi sau đó cương quyết mà thật hành cho y. Như vậy sẽ được thành tựu viên mãn và cũng không uổng mất một tín đồ của Đức Thầy đã lắm khổ lao chỉ dạy.

Trông Thầy lòng rất ngậm ngùi,
Ngó người đồng đạo sụt sùi héo von.
Muốn cho đạo nghĩa vẹn tròn,
Nên thân chẳng quản gầy mòn ốm đau.
Réo kêu khuyên nhủ cho nhau,
Nhớ Thầy còn khổ mình sao yên lòng.
Dẫu cho gặp lấy cay nồng,
Chữ tu kia phải càng nung tới hoài.
Bước đường hẳn có gốc gai,
Nhưng lòng khẩn thiết đâu nài gian truân.
Miễn sao chơn chánh được thân,
Với làm nên những việc ân cho người.
Thấy đời tôi chẳng muốn cười,
Nghĩ ra việc thế bồi hồi tim trung.
Cơ trời thiệt nói chẳng cùng,
Ít tri ra mối, khó hòng biết manh.
Thế nên khắp cả quần sanh,
Cơ hồ tưởng được hùng anh lắm rồi.
Mấy ai đạo nghĩa vun bồi,
Mãi lo những chuyện bạc vôi là nhiều.
Của tiền cõi thế bao nhiêu,
Cứ gây tội trạng thêm nhiều bớ dân.
Rán mà trau sửa xác thân,
Để cho được nhẹ Long Vân mới về.
Cuộc đời còn cách Sở Tề,
Ngày sau hội lại một bề an cư.
Bây giờ giữ sự hiền từ,
Trau lòng ngay thẳng bao chừ chớ quên.
Cuộc đời qua lẹ dường tên,
Có ngày thế cuộc trở nên lạ lùng.
Đổi thay nháy mắt khắp cùng,
Cũ rồi trở mới việc không khó nào.
Bây giờ lớn nhỏ cùng nhau,
Nương thuyền đức hạnh thoát mau biển hồng.
Sự tu thì phải gắng công,
Dẫu rằng lao lý cũng không ngã lòng.
Ngày kia mới đến Lư Bồng,
Mới là thấy chủ nhơn ông của mình.
Bây giờ chưa có tam thinh,
Nên người ngơ lảng không gìn cội xưa.
Lời phân cũng mặc ghét ưa,
Vì tình bác ái sớm trưa khuyên hoài.
Miễn cho khắp cả gái trai,
Trong mười được một cũng may lắm rồi.
Sợ e cây nọ hết chồi,
Bởi vì gốc rễ thúi hôi không còn.
Nghĩ mình muốn đến năm non,
Phải gìn trọn phận tôi con trung thành.
Cuộc đời xảy đến khó gìn,
E thân kia gặp âm binh khổ nhiều.
Thuốc trần đây có bao nhiêu,
Đến cơn đó uống khó tiêu họa mình.
Chỉ còn có phép mầu linh,
Của Trời của Phật ứng thinh độ người.
Nay đây còn được yên nơi,
Thấy ra dân chúng ăn chơi quá nhiều.
Nào là son phấn đỏ điều,
Nào là cờ bạc mai chiều vui say.
Không còn cúng bái mỗi ngày,
Vội quên niệm Phật để quay làm tiền.
Lại bày lắm cuộc tình duyên,
Mèo đàng chó điếm thêm phiền người xưa.
Gọi nhau tánh xấu nên chừa,
Để mà gặp Phật không trưa thời chiều.
Bởi đời sắp đến tàn tiêu,
Cho nên đây mới có nhiều lời khuyên.
Nếu tâm mình được lặng yên,
Thì sanh về cõi an nhiên dễ dàng.
Tâm mình nếu mãi rối loàn,
Thì sanh đến cõi khổ nàn dĩ nhiên.
Căn nào quả nấy không phiền,
Loại nào chơi nấy trần duyên có tuồng.
Thấy đời lòng đã lắm buồn,
Chẳng đành để kẻ buội truông lu mờ.
Đem câu đạo lý huyền cơ,
Đặng nung đẩy chúng khỏi ngơ ngẩn lòng.
Hỡi này tất cả đạo đồng,
Từ đây khuyên hãy rèn lòng chánh chơn.
Giữ sao tâm chẳng mẻ khờn,
Ngày kia mới gặp dị nhơn hội hàng.
Bây giờ khuyên chớ than van,
Thời cơ khuất khúc ý toan lọc lừa.
Ai người thật dạ mến ưa,
Thì không nài việc sớm trưa chuyên cần.
Bây giờ khuyên hãy trau thân,
Rán làm cho trọn mười phần tốt xinh.
Bởi chưng đã yếu trong mình,
Đến đây xin dứt để trình kỳ sau.
Lời lẽ khuyên nhau có mấy điều,
Nên chờ bịnh hoạn giảm mòn tiêu.
Kỳ sau nhắc nhở thêm nhiều nữa,
Để giúp đạo đồng sớm được siêu.
15 tháng 7 Quý Tỵ -Tức 23 tháng 8-1953.
18- Ngày 30 tại ngôi Tây An Cổ Tự: Sự Nên mừng và Nên bỏ

Ngày 30 tại ngôi Tây An Cổ Tự: Sự Nên mừng và Nên bỏ

Xác thân giả tạm có đâu màng,
Chỉ mượn làm thuyền để quá giang.
Khi đã lên bờ rồi phải bỏ,
Đâu còn tiếc nó để đeo mang.

Chào quý đồng đạo,
Nghĩ vì sanh tử là việc lớn, cái may không đến nhiều lần, cho nên mặc dù trong người tôi hiện giờ còn bịnh, song mỗi phiên giảng trong mấy ngày rằm, 30 tôi vẫn tiếp tục như thường. Với cái định ý muốn cho sự nghe của đồng đạo không bị gián đoạn một kỳ nào, để được gia tăng sức mạnh tin tưởng hơn xưa, hầu có hăng hái giữ lấy mọi việc làm tốt đẹp trên đường đạo đức.

Hơn nữa, trên đời có sự chi vui bằng việc lành, không gì lớn hơn cái đạo, mà từ cổ chí kim các đấng
siêu phàm đều sống trong đó một cách tự tại và có đủ phương tiện đi lại khắp nơi phổ độ chúng sanh mê muội.

Thưa đồng đạo,
Hôm nay tôi xin giảng về: “Sự Nên mừng và Nên bỏ”, để chúng ta nhận xét mà đi đến mục đích của đạo Phật.

Nên mừng chỗ nào? Nên bỏ chỗ nào?
Nên mừng cho chúng ta sanh trong cõi ác trược được mang thân người, phải gắng sức tu tiến cho khỏi
thối hóa trở lại, Nên mừng cho chúng ta sanh trong cõi mê, mà được biết tỉnh ngộ tu hành cho đến chỗ rỗng không sáng suốt, Nên mừng cho chúng ta gặp sự khổ não mà vẫn được vui vẻ, hăng hái tu hành đến chỗ giải thoát, Và nên mừng cho chúng ta vào đời mạt hạ, tuy rằng phải chịu muôn ngàn sự thống khổ đưa lại, nhưng vẫn còn được diễm phúc gặp Đức Thầy và các vị Tiên, Phật, Thánh, Thần nhũ lòng từ bi đem pháp cao siêu mầu nhiệm hóa độ chúng ta. Như thế cũng là một dịp may hiếm có cho chúng ta tu hành, trước cứu tổ tiên cha mẹ được siêu thăng, sau độ mình khỏi chốn nê lê trầm nịch.

Những việc ấy nếu chúng ta không lấy làm mừng thì đứng trước bao nhiêu sự khó khăn gay ngạnh, cũng như mọi việc thử thách của đời, hẳn chúng ta không kiên tâm trì chí được. Như thế đối với sự tu hành và lời của Đức Thầy đã dạy bảo, chúng ta khó làm cho trọn vẹn. - Còn chúng ta nên bỏ là: Bỏ tất cả những việc ác của thân, của miệng, của ý, vì nó hay làm cho người chìm đắm trong cõi mê đồ dục lạc.

Nên bỏ tánh phân biệt nhơn ngã, thói hống hách kiêu căng, vì nó hay làm cho người mất hẳn lòng từ bi
khoan thứ; Bỏ tất cả tham lam đố kỵ, vì nó hay xô con người vào hố rẻ chia tội lỗi, tồi tệ dã man;

Bỏ tất cả sự câu nệ cố chấp, vì nó hay làm cho người ngu đần dốt nát; Bỏ tất cả lòng vị tư phân biệt tà chánh, vì nó là mối đầu của hố thù giữa nhơn loại chúng sanh; Bỏ tất cả sự vạy tà dối mị, vì nó chuốc lấy cho người cái sống hèn hạ, Và chúng ta cứ bỏ những gì mà giới luật đã cấm, cũng như phải làm hết các việc trong kinh giảng từng khuyến khích.

Như vậy, việc nên mừng và nên bỏ ấy là điều hữu ích và cũng cần thiết cho mỗi người của chúng ta trong lúc đeo đẳng tôn chỉ Phật giáo.

Thưa đồng đạo,
Vả chăng người sanh trong cõi đời, có thể nói toàn làm tôi mọi cho xác thân, dù bực vua quan cũng phải chịu dưới sự đòi hỏi sai khiến của nó: Thúc giục người sanh đủ trăm mưu ngàn kế mong đạt mọi lợi lộc, đặng tô trám cho ngũ dục, mà đến ngày kia nó cũng chỉ theo hơi thở cuối cùng của kiếp vô thường, không đem theo được vật chi cả. Nói rõ hơn, khi chết tất cả vật hữu hình của người đã tạo ra đều bỏ hết, chỉ trở lại tay không cũng như hồi mới sanh ra vậy. Xét đến chỗ đó, thử hỏi sự cạnh tranh thắng phụ của con người lúc bình thời còn có ý nghĩa gì đối với ngày chết, nếu toàn là những hành động bất chánh.

Huống chi, sự sanh tử là một việc tồi tàn nhơ nhớp, vì thể chất của thân vốn bẩm thọ mọi sự tanh hôi từ
mới tượng hình cho đến khi già chết. Nghĩa là xác thân do sự cấu hợp tinh huyết mà thành, khi thành rồi do mọi vật bổ dưỡng cho mà được sống, những chất ấy khi vào trong thân người đâu có thứ nào được sạch, sẽ.

Nên có câu của tổ Ưu Ba Cúc Đa nói:
“Sanh tử chi pháp, thậm khả ác tiện, du như phẩn uế, đa thiểu giai xú”. (Nghĩa là: Vật của sanh tử, rất
nên xấu hèn, như phẩn dơ, dù nhiều ít cũng đều hôi thối cả).

Thật thế ! thân người không luận nam nữ, tuy rằng bên ngoài ăn mặc tốt đẹp, dáng vẻ mỹ miều, nhưng
bên trong chứa đầy đờm đạnh cứt đáy, đi đâu cũng mang theo sự dơ bẩn còn hơn cầu xí. Lại sau khi chết thân ấy lần lượt sình dẫy lên, rồi mũ máu rịn chảy theo cửu khiếu, ruồi lằn đánh hơi bu núc, giòi tửa lúc nhúc đục ăn, toàn cả châu thân xanh nám lầy lụa, với mùi hôi thúi ấy bưng mũi không ai dám gần. Như vậy còn cho xác thân là đẹp đẽ nữa chăng? Hay chỉ thấy nó là một cái trăn cùm tội lỗi của kiếp người, dù phải bỏ đi cũng không tiếc, hà huống những việc phụ thuộc của nó thì có chi phải bịn rịn.

Vả lại cái sống chết, cái ghê tởm ấy nó không chỉ mới đây mà nó diễn đi diễn lại hằng muôn triệu lần có
thừa. Nên Phật xưa có nói: “Mỗi một chúng sanh, sanh ra mỗi lần một xác, mà từ vô thỉ đến nay, nếu những xác ấy đem chồng lại thì cao ngất như núi”. Mà hễ mỗi lần sanh ra là mỗi có cha mẹ, vợ con, quyến thuộc, mà càng nhiều đời nhiều kiếp như vậy, thì trên địa cầu này ắt hẳn chỗ nào mình cũng có sanh cư đến đó cả. Vì thế nên Phật xưa có nói: ”Cả thảy chúng sanh đều bà con quyến thuộc với nhau nhiều đời”, thật chí lý.

Nhưng những kiếp qua hình ảnh của nó đã mất đi, hơn nữa, vì bị màn vô minh che đậy làm cho chúng
sanh quên hết việc trước của mình, thế mới vui làm những việc thù hằn tội lỗi với nhau, mà không biết
thương yêu nể sợ.

Thưa đồng đạo,
Vì muốn đồng đạo cũng như tôi, đều nhận biết xác thân là mộng huyễn là trăn cùm, không còn quá vì nó mà làm những việc tội lỗi.

Phải tin rằng: “Ngoài thân phàm này còn có thân kim cang của Tiên Phật được bền bỉ tốt đẹp hơn và mọi sự sanh cư đầy cao nhã”.

Chúng ta có thể đến đó được, nếu chúng ta không mến giả thân và cứ làm theo những lời khuyên răn dạy bảo của Thầy Tổ một cách chắc chắn, không hề có sự nghi ngờ.

Nhưng muốn cho sự hành đạo của mình không sai chạy, thì không có phương pháp nào hơn là cần phải
khép vào khuôn khổ của giới luật, vì nó có mảnh lực chặn đứng các làn sóng vật dục và mọi sự mờ oán của người. Có bài kệ rằng:

Giới như minh Nhật Nguyệt,
Diệc như anh lạc châu.
Sa trần bồ tát giới (*)
Do thị thành chánh giác.

Nghĩa là:
(*) Có bản ghi: “Vi trần bồ tat chung”

Giới tỏ bằng nhật nguyệt,
Cũng như chuỗi anh lạc.
Bồ tát ví sa trần,
Nhờ đó thành chánh giác.

Huống nữa, giới luật ví như hàng rào làm ranh giới cho sự tội phước và cũng như tường phên ngăn chận
mọi việc háo thắng tội lỗi của người, mà kẻ nào biết gìn giữ giới luật thì sẽ được thành công đắc quả.

Còn trái lại, kẻ nào phạm giới thì khỏi cần phải hỏi ai, mình cũng tự biết không bao giờ chứng quả, mà còn phải sa đọa vào cõi u đồ thống khổ là khác nữa.

Tóm tắt bài giảng hôm nay, với cái thiện ý của tôi khuyến khích đồng đạo: Nên mừng những việc lành;
Nên bỏ các điều ác. Dầu rằng những điều lành rât khó làm, nhưng vẫn cố gắng làm cho được, cũng như các điều tập nhiễm đã quen rất khó bỏ, song phải trì chí để bỏ tất cả. Như thế, việc của ta muốn gặp Đức Thầy hay thành đạo ở một ngày kia hẳn không khó.

Yêu lẽ thiện khiến tôi giảng giải,
Nhắc chư hiền nhớ lấy tu cần.
Bởi cuộc đời thay đổi quá gần,
Vì sự thế biến di rất gấp.
Muốn cho kẻ thật tâm tu tập,
Nên gọi người cần kíp chớ buông.
Phải gượng mình để có qua truông,
Cần gắng chí ngày kia thoát khổ.
Bổn đạo Thầy rớt như lá đổ,
Bởi luồng giông vật chất thổi nhiều.
Nên ít ai còn giữ qui điều,
Thấy nhiều kẻ phạm vào giới luật.
Chẳng còn muốn trau giồi đạo đức,
Không toan lo khuya sớm tu trì.
Sợ ngày kia gặp nỗi sầu bi,
E giờ chót đeo mang tai ách.
Mới kêu gọi lương dân đủ cách,
Thêm nhắn nhe thế sự mọi điều.
Mong chờ nhau hành thiện sớm chiều,
Ước sao chúng khỏi điều thống thiết.
Còn chi qui hơn nha Nam Việt,
Đến sau này có đấng Thánh Quân.
Kẻ trung lương sẽ được hưởng ân,
Người bội phản phải đành tiêu tận.
Cơ hội ấy người lành gặp vận,
Còn bây giờ lao lý phải đành.
Chỉ gắng công khuya sớm tu hành,
Là mới khỏi khổ lao đưa lại.
Đã quyết chí tu hành đừng nại,
Lòng mến Thầy cay đắng không màng.
Miễn bước lên chiếc bát nhã thoàn,
Hoặc tay nắm được kim cang gậy.
Để trừ diệt những loài tà quấy,
Hầu vượt qua khổ hải một phen.
Cuộc hồng trần tuy quá tối đen,
Nhưng đã có sẵn đèn trí huệ.
Khá soi đó đi theo kẻo trễ,
Mới khỏi ngày bỏ phế việc mình.
Người đời nay cứ mãi chống kình,
Lo trau trỉa thân xinh vóc đẹp.
Nào son phấn mở dầu giày dép,
Thêm vòng vàng chuỗi hột áo quần.
Muốn thân mình đủ cách tối tân,
Để khoe sức với người lân cận.
Làm lắm việc rất nên nhơ bẩn,
Gây tủi phiền các đấng tiên nhân.
Đến ngày kia e khó bảo thân,
Phải chịu nỗi lao lung biết mấy.
Hỡi đồng đạo ! từ nay xét lấy,
Sự tu hành tinh tấn một lòng.
Cũng chớ nên rày bưởi mai bòng,
Khuyên đừng có thay đen đổi trắng.
Tâm Phật giáo sớm chiều uốn nắn,
Tánh bồ đề mai tối luyện rèn.
Chẳng biệt phân kẻ lạ hay quen,
Đều một dạ thương yêu tất cả.
Để có thể cứu nhau khỏi rã,
Hầu dắt dìu đến hội Long Đình.
Nay dầu cho gặp lắm tà tinh,
Ta cũng cứ tâm thần vững chắc.
Vậy mới được Bồ đề quả đắc,
Làm cho mình sau đặng sống còn.
Lại xong rồi bổn phận tôi con,
Không còn hổ giống người đất Việt.
Lời giảng giải đây lòng thành thiệt,
Tiếng nhủ khuyên toàn lẽ bi ai.
Chỉ muốn cho đồng đạo gái trai,
Đồng gắng gổ sớm hôm như một.
Thấy những kẻ tu hành trồi sụt,
Khiến lòng đây như lửa đốt vào.
Thế cho nên lắm tiếng kêu gào,
Chẳng hề quản thân đau hay mạnh.
Nhưng xét thấy giữa đời tranh cạnh,
Lời khuyên như nước đổ lá môn.
Biết làm sao tất cả đồng tôn,
Khi nghe lấy một lòng phới phở.
Như vậy mới rối nầy được gở,
Bằng trễ bê khó sở được nào.
Dân hỡi ơi ! nhìn cảnh bên Tàu,
Rồi ngắm lại đồng bào Nam Việt.
Thấy việc kẻ việc mình phải biết,
Rồi biết rồi làm tinh khiết nơi lòng.
Có mấy khi khai mở Hoa Long,
Lại ít gặp lập Phong Thần hội.
Ngày thế giới năm châu thay đổi,
Chỉ sống còn những kẻ tu hiền.
Thương bao nhiêu hung ác lụy phiền,
Đâu còn được coi miền Bảy Núi.
Ngày lập hội thây nằm như củi,
Còn máu kia tựa suối chảy ầm.
Trước cảnh này ai cũng động tâm,
Huống hồ các Thần, Tiên, Phật, Thánh.
Nhưng rồi cũng khó phương cứu rảnh,
Bởi nhân không toàn thiện phải mang.
Lời khuyên răn người hãy sửa sang,
Lẽ khuyến khích kẻ nên liệu lượng.
Khuya với sớm Di Đà hằng tưởng,
Trưa cùng chiều Lục Tự chớ phai.
Sáu chữ nầy cứu khỏi họa tai,
Lại cũng được đưa về cõi Phật.
Bởi thế sự khổ sầu chất ngất,
Vì tuồng đời khúc chiết quá nhiều.
Nên Phật Tiên ban rải luật điều,
Mà chư chúng cơ hồ chẳng giữ.
Bởi lỗi đó nên thiên hạ sự,
Càng ngày thêm tai nạn dập dồn.
Chỉ chờ ngày có lệnh Chí Tôn,
Để phân xử mới xong cuộc thế.
Lời khuyên nhủ kẻo người bê trễ,
Tiếng gọi kêu e chúng lảng lơ.
Lời khuyên răn mong chớ làm ngơ,
Sự khuyến khích hãy cần phấn tấn.
Tu thì phải giữ lòng tin cẩn,
Không vì ai giàu có bợ bưng.
Cũng chẳng nên ưa kẻ nịnh gần,
Lại trừ hẳn mọi điều tửu sắc.
Bổn tâm vẫn giữ màu trong vắt,
Việc làm hằng chơn chánh luôn luôn.
Dẫu rằng trong cuộc thế quay cuồng,
Mình quyết được vững lòng đi tới.
Sự nhắc nhở đạo đồng ơi hỡi,
Bởi xác này chưa mấy mạnh lành.
Nên đôi lời khuyên nhủ tu hành,
Giảng đây dứt để tình ghi nhớ.
Dứt giảng xong rồi hỡi bá gia,
Với lòng ghi nhớ chớ rời xa.
Xin chào đồng đạo nam cùng nữ,
Tuần tự để rồi được bước ra.
30 tháng 7 Quý Tỵ - tức ngày 7 thang 9-1953.


  THÁNG TÁM:
19- Tại ngôi Tây An Cổ Tự, Đêm 11 nhân vía Đức Phật Thầy Tây An tịch.

Tại ngôi Tây An Cổ Tự, Đêm 11 nhân vía Đức Phật Thầy Tây An tịch.

Kính chào tất cả đồng đạo nam nữ,

Nay và mai kỷ niệm ngày Đức Phật Thầy Tây An nhập tịch, không biết lấy chi để đáp ơn Đức Phật đã
đem lòng từ bi giáo độ chúng sanh cho đến khi bỏ xác mà cũng vẫn còn trở lại nhiều lần, cứ tiếp tục công cuộc hoằng hóa như xưa, quyết cứu vớt chúng sanh lớn nhỏ trong cõi Ta bà. Hôm nay thấy cần đem nhắc lại những điều đạo đức, các lẽ huyền thâm của Đức Phật đã truyền dạy bấy lâu, để chư đồng đạo nhớ rõ mà tu hành cho được tiến triển hơn trước.

Ơn trên Đức Phật thấy biết toàn cả nhơn sanh mang cái huyễn thân thì không một ai được trường tồn, mà chỉ thường sống ngắn ngủi và chịu mọi nỗi đau khổ để rồi cũng đến chỗ biến hoại như bọt nước, nên Ngài đem cái thuyết nhân quả luân hồi giảng nói cho các chúng sanh lấy đó kinh sợ, mà tránh những điều ác bạo, hầu tạo lấy sự nghiệp chơn chánh cho ngày kia được hưởng mọi sự vĩnh cửu hơn.

Song muốn thoát cái khổ quả ấy, cần phải đặt đức tin đầy đủ trên đường đạo pháp, gìn qui củ, trọng luật
giới và tạo các nhân lành thì chư vị Phật, Tiên, Thần, Thánh sẽ ủng hộ cho mình đến chỗ tròn tốt.
Ngược lại việc làm của mình vạy tà hung ác, trái lẽ nhơn luân, không lòng từ ái chỉ biết xu phụ theo lòng ích kỷ tổn nhơn thì mọi ác thần, ma oán thừa chỗ hư trống ấy mà đẩy xô quyến rủ mình theo chúng làm các việc tội lỗi hung tàn. Đến ngày kia có thể chống lại những bậc chơn chánh để rồi phải bị đánh đọa mà không dễ sanh được làm người hoặc Phật Tiên chi cả.

Vả lại, kẻ đã đặt mình trên đường đạo đức với mục đích giải tỏa mê lầm, đánh tan nghiệp chướng lần đến cảnh giới trang nghiêm thanh tịnh của Tiên Phật, đâu còn luyến ái cõi trần là nơi mọi người phải đổ ra bao nhiêu khổ nhọc mà không đủ ăn đủ mặc.

Hỡi đồng đạo,
Một khi chúng ta nhận con đường đạo pháp vốn cao siêu mầu nhiệm, có thể chúng ta trở nên giác ngộ như Phật. Lẽ cố nhiên bước đầu ta phải tuân thủ qui giới cho tinh nghiêm và đến khi được thuần thục tánh lành nhứt là kẻ học đạo cần phải có hạnh, đạo hạnh phải đi đôi mới là đầy đủ ý nghĩa của người tín đồ nhà Phật.

Hơn nữa nếu kẻ đã hâm mộ đạo lý mà không đức hạnh thì không bao giờ chứng quả. Ví như người đói
mà không ăn vào thì chẳng no, lại chẳng khác nào thuyền không đáy không thể chở người qua bên kia
sông được.

Gia dĩ, người biết tôn thờ đạo giáo phải cho lễ độ hiền hòa nhu nhuận kính nhường và có cả đức tánh
nhẫn nại nữa, mới đáng cho là người thật tâm tôn thờ đạo giáo, những đức tánh này chúng ta cần phải có vì nó tiêu biểu mọi sự cao qúi của kẻ học đạo và cách xử thế trong xã hội. Nếu không có nó chẳng khác nào đi đêm không đuốc sẽ có nhiều sự nguy hiểm đến mình.

Thưa đồng đạo,
Lúc nào tôi cũng lấy làm đau buồn thấy có những người không vâng lời của Đức Thầy dạy bảo, chỉ biết
nghinh ngang xấc xược, táo bạo hung hăng, không làm việc chi cho đất nước cho tổ tông được nhờ mà
thấy họ chỉ làm tai hại đất nước, nhục nhã tổ tông, bại hoại luân lý và làm cho không biết bao nhiêu người vì họ mà chịu mọi nỗi khổ vật chất lẫn tinh thần, những điều ấy giai do không gìn đức hạnh mà ra.

Những hạng người đó họ cũng vẫn nhắc nhở Đức Thầy, có nhiều khi họ còn khóc lóc mướt ma, song kỳ
thật bên trong của họ không giống như bên ngoài như cách nhắc nhở khóc lóc ấy, nên họ tuy thờ phượng mà không cúng lạy, không giữ giới và họ thường đảo ngược lại những lời dạy bảo trong kệ giảng như một vài trường hợp cấm uống rượu thì họ uống và nấu rượu, cấm cờ bạc thì họ đánh và chứa cờ bạc. v.v...

Thưa đồng đạo,
Vào buổi Hạ nguơn này, cả thảy chúng ta đều sống trong nhà cửa lửa tam giới, chỉ trong nháy mắt có thể bị chết thiêu trong ấy, song được có Đức Thầy kêu gọi chúng ta, nếu chúng ta nghe theo thì sẽ ra khỏi nhà ấy, được sống sót yên ổn tạo lập lại gia đình rộng rãi hơn, yên tịnh hơn tức là cõi Thượng nguơn hay nước An Lạc vậy.

Trong dịp này, nếu chúng ta để trôi qua không hưởng ứng theo sự cứu khổ của Tiên Phật thì đến một
ngày kia trong lúc hấp hối dẫu ta có phát tâm trai giới, lắm tiếng khẩn cầu cũng không cứu mình khỏi phút tiêu diêu được đâu. Như thế ta không làm xong các bổn phận:

1- không báo ân đất nước được một phần công lớn nhỏ nào.
2- Không đáp tạ nghĩa sanh thành dưỡng dục của mẹ cha.
3- Không làm xong các lời dạy dỗ của Đức Thầy.
4- Trong khoảnh sống ta đã thọ ân của nhiều người giúp đỡ mà không làm được những việc chi có phúc lợi để đền đáp lại.

Bốn lỗi ấy kẻ phàm phu không nhận ta làm bạn tác, huống hồ Phật Tiên các Ngài đã thấy xa hơn, hiểu rõ hơn thì có lý nào dung trữ ta được, nghĩa là các Ngài không bao giờ tiếp độ ta đâu.

Hơn nữa, chúng ta nếu nghĩ tới ngày Thượng nguơn là một ngày đổi mới của xứ sở, trên chúa thẳng dưới tôi hiền, đời sống của toàn dân được sang phẳng ấm no, nhứt là được hòa ái thì bây giờ chúng ta hãy sửa mình chơn chánh, gát bỏ việc hung tàn mới đến được ngày ấy. Vì cõi Thượng nguơn chỉ dành cho những người hiền lương chánh trực, không tiếp nạp những kẻ xảo trá tội lỗi.

Thưa đồng đạo,
Nếu chúng ta tin nơi lời của Đức Thầy là sự thật, cũng như tin nơi luật nhân quả chẳng hề nói ngoa thì
hãy gìn lòng trong sạch, giữ việc tốt lành và lúc nào cũng chắc chắn có sự giúp đỡ của ơn trên, làm cho
mình đến chỗ trọn lành trọn sáng, để cứu vớt tổ tiên cha mẹ và các loài.

Vả lại, sự tu hành rất hữu ích cho xã hội, nếu ai giữ lấy sự hiền lương chất trực, không tánh tham lam,
ngạo mạn, tật đố, kiêu sa và không làm điều trái ngược đạo lý nhơn luân thì đó là một phương pháp đem lại yên vui hạnh phúc cho mọi người. Như thế ai còn chối cãi gì không nhận việc tu hành đạo đức là hữu ích để sấn sước đi tới.

Vả chăng hiện giờ các cuộc thù hằn, chém giết dằng dai, ấy chẳng qua bàn sàng của tạo hóa lựa chọn
người hiền đức và cũng là để trả xong oan gia, trái chủ giữa nhơn loại.

Tuy nhiên Đức Ngọc đế và Đức Phật hết sức tìm cách làm cho chúng sanh ăn năn hối cải các việc tội lỗi đã qua và sắp tới, trở lại thi hành mọi việc phước điền, mới có thể đủ điều kiện sống sót đến ngày Hội Long Hoa.

Để nhắc lại ngày hội ấy: Cả bầu trời chuyển động, các cảnh giới hiện ra, khổ nỗi chúng Ma Vương xô đẩy bao người vào cảnh chết chóc một cách thê thảm, trừ những kẻ đủ đức hạnh, vững tinh thần mới không bị lũ nó ám hại.

Trong cảnh ấy, dù rằng người từ trước đến giờ không biết niệm Phật cũng hốt nhiên niệm Phật, họ
niệm để cầu lấy sự an ổn sống sót.

Đành rằng Đức Phật bao giờ cũng độ tận chúng sanh, nhưng chỉ độ được người làm lành, làm phải, ăn
chay, giữ giới. Trái lại, kẻ gian ác bạo tàn, không biết tôn thờ Trời Phật mẹ cha thì Phật Ngài cũng không thể tiếp độ cho họ được.

Nên Đức Thầy có nói:
“Phật từ bi độ tử độ sanh,
Là độ kẻ hiền lương nhơn ái”.

Vả chăng đối với kẻ ác, bao nhiêu việc làm của họ chỉ gây ra đau khổ cho người đời và trở ngại việc
hoằng hóa của chư Phật, họ với Phật cách xa nhau một trời một vực, giữa hai luồng tư tưởng không đồng nhau thì chẳng hề được thông cảm nhau, nếu họ không hồi tâm xóa sạch bức tường ác nghiệp đang làm chướng ngại.

Với những kẻ này, trong lúc họ làm ác chỉ vì nghiệp mê xúi giục, nếu họ cứ làm mãi như thế thì giữa Phật với họ không gặp nhau. Nhưng sau một niệm tỉnh ngộ họ với Phật sẽ gần nhau như cây với trái. Như thế thì kẻ ác đâu phải là không thể hối ngộ để đến chứng quả được mà chẳng gấp rút cải tà qui chánh, lánh dữ về lành.

Tóm tắt sự tu của chúng ta hiện giờ thật đại hữu ích, đại phước duyên, hữu ích ở chỗ làm lợi phước cho
đồng bào nhơn loại, phước duyên được nghe đạo, được gặp Thầy là điều không thể dễ cầu.

Chúng ta không đến nỗi ngu mê, nhờ Đức Thầy dạy dỗ biết luật nhân quả, học hiểu sám kinh, chỉ còn có bổn phận thi hành theo đó một cách chí thiết sẽ được đến chỗ thành đạt nguyện ước.

Trên dương thế xiết bao tai khổ,
Ở trong trần nhiều chỗ cấn gay.
Sự tu hành đồng đạo gái trai,
Hãy trì chí gặp ngày Thượng cổ.
Nhờ ơn Thầy dày công dạy dỗ,
Tưởng Phật Trời thương xót thế trần.
Nên sắc ban cho các thánh thần,
Xuống trần hạ giải bày đạo lý.
Kẻ được biết cuộc đời mộng mị,
Gắng tu hành sẽ được siêu thăng.
Người mê si đạo đức bỏ lăn,
Ngày chung cuộc xác hồn tiêu tận.
Ta hãy gắng làm tròn bổn phận,
Của Tổ Thầy dạy dỗ bấy nay.
Trên đường tu nhiều chỗ gốc gai,
Kẻ trì chí không hề nao núng.
Coi sấm giảng thiệt hành được trúng,
Xem thời trời liệu lượng cho cân.
Bởi nay đã cảnh giới Hạ nguơn,
Trời Phật định gần ngày tiêu diệt.
Thương những kẻ mắt không thấy biết,
Tưởng ngày giờ còn mãi kéo dài.
Nên sự tu lòng để chuyển lay,
Không còn được như hồi buổi trước.
Đến ngày kia hẳn đành thiếu phước,
Không bao giờ hưởng đặng sống còn.
Bước tu hành xem quá mỏi mòn,
Nhìn sanh chúng lòng đau tợ cắt.
Nên trong lúc Đức Thầy vắng mặt,
Thanh Sĩ nay dùng lẽ nhủ khuyên.
Để thức nhau trong giấc triền miên,
Hoặc gọi kẻ lòng còn ngờ vực.
Để có thể tăng cường nghị lực,
Hầu vững vàng chí sức tu hành.
Gặp phải đường gai gốc nhọc nhanh,
Nếu sân sướt có ngày thành tựu.
Chuông thúc nhặt trên đền Linh Thứu,
Vọng hiền hòa ở giữa giảng đường.
Kêu gọi nhau chỉ tỏ lòng thương,
Đâu hề có bày trò bươi móc.
Cốt chỉ biểu cho người tầm gốc,
Để ngày kia hầu được thưởng nhờ.
Thương cùng nhau trong lúc tối mờ,
Nên phải rán nhắc cho đường lối.
Thầy vắng mặt ta như người tối,
Có biết đâu đàng nẻo để đi.
Không lẽ nhau cứ mãi ngồi lì,
Cũng phải rán lần dò để bước.
Hỡi ai kẻ tâm còn bạo ngược,
Kể từ nay khuyên hãy răn chừa.
Nên nhìn coi ngày tháng sớm trưa,
Thật mau chóng khác nào tên bắn.
Thấy thế cũng biết đời thúc ngắn,
Còn chi mà không rán tu hành.
Mai để tâm vào việc cạnh tranh,
Tiền của ấy tưởng đâu dài dặn.
Khuyên người nhớ đời này như cặn,
Có một ngày sắp đổ bây giờ.
Đã nhiều nơi cảnh vật sơ rơ,
Nhà với cửa điêu tàn bằng địa.
Cả nhơn loại sẽ còn mất vía,
Xác chồng lên như núi càng ghê.
Cõi trần còn chi nữa mà mê,
Hãy dẹp gát để lòng tu niệm.
Nhưng cũng phải ăn cần ở kiệm,
Để lâu dài đặng có tu hành.
Đừng xa hoa theo thói thường tình,
Đã phí của lại thêm vô ích.
Nay sanh chúng trong vòng tối mịt,
Hãy tìm phương để lánh chơn ra.
Còn chi mà cứ mãi dần dà,
Việc xảy tới e người khó liệu.
Nam với nữ đôi bên rán hiểu,
Trẻ cùng già hay phía nghiệm suy.
Cuộc đời này sắp đến biến di,
Cơ tạo hóa ngày kia lập lại.
Hẳn mạt thế không hề tồn tại,
Chỉ còn điều chơn chất hiền lành.
Ai được nhiều công đức tồn sanh,
Kẻ thiểu phước phải đành mất xác.
Lời khuyên nhủ chị anh cô bác,
Tiếng gọi kêu đồng đạo nữ nam.
Trò đời này như huyễn đừng tham,
Cuộc thế đã mỏng màng chớ mến.
Thuyền bát nhã Phật Tiên đã đến,
Còn chi mà chẳng bước xuống đi.
Nếu dần dà thì gặp hiểm nguy,
Chừng ấy mới ăn năn sao kịp.
Trên đường đạo lắm người bỏ líp,
Cửa phấn son nhiều kẻ chen chơn.
Ôi ! trên đời không thấy chỗ mừng,
Mà chỉ ngắm nhiều điều buồn thảm.
Thương những kẻ bị màn hắc ám,
Chẳng rõ thông thời thế vị lai.
Nên tu hành chẳng có miệt mài,
Đến ngày chót ô hô một giấc.
Đã tiêu tận đi rồi xác thịt,
Còn mất tan luôn cả linh hồn.
Làm bụi bùn kiếp số ngàn muôn,
Sau rồi mới dần dần tỉnh lại.
Cuộc tuần hoàn nghiệm suy kinh hãi,
Hỡi đạo đồng gắng chí tu cần.
Còn chi mà cứ mãi lựa lần,
Hãy tinh tân một đàng đi tới.
Thương Đức Phật vào trong tam giới,
Chịu nhọc nhằn để dạy nhơn sanh.
Thương những người tuy đã siêu hình,
Mà cũng phải trở mình độ chúng.
Bởi sắc lịnh Tây Phương mở rộng,
Nên dầu ai cũng phải lập công.
Phật Thánh Tiên đã có hội đồng,
Định phương hướng mỗi người mỗi chỗ.
Tùy duyên nghiệp tùy theo trình độ,
Để mà lo dạy dỗ người đời.
Kẻ thiệt tâm chơn chánh không rời,
Người giả dối bạo tàn chẳng bâm.
Lời khuyên nhủ đạo đồng hay thẩm,
Để về nhà trau tấm lòng mình.
Đến ngày kia mới được tồn sinh,
Bằng chẳng vậy sau này đại khổ.
Lời nhắc nhở nào đâu ai ố,
Tiếng nhủ khuyên không có ngã nhơn.
Muốn cho người bền vững tâm thần,
Hầu đến được Long Vân kỳ chót.
Vậy mới gọi là mình nối gót,
Của Tổ Thầy với các người xưa.
Đôi lời lành khuyên nhủ hãy ưa,
Để trau trỉa cho mình thêm chánh.
Bởi xác thân Sĩ Thanh chưa mạnh,
Nên ít lời khuyên nhủ đạo đồng.
Giảng đến đây cũng đã vừa xong,
Xin chào hết đạo đồng nam nữ.
Giảng đã hết rồi hỡi nữ nam,
Nghe rồi nghiệm xét xét rồi làm.
Khuyên đừng ra lộ rồi quăng hết,
Để phải buồn tanh cái xác phàm.
11 tháng 8 Quý Tỵ - tức ngày 18 tháng 8-1953.

20- Ngày Rằm tại ngôi Tây An Cổ Tự: Sự Thấy-Sự Nghi

Ngày Rằm tại ngôi Tây An Cổ Tự: Sự Thấy-Sự Nghi

Chào tất cả đồng đạo,
Thân người khó kiếm, cũng như đạo pháp đâu dễ được nghe, huống chi sanh cõi loạn lạc sống đời mạt
pháp đối với xác thân cũng như đạo lý, càng khiến cho mỗi người phải bảo trọng hơn nữa.

Vì thế cho nên tôi không quản đau ốm và chẳng ngại trí siển tài sơ đứng ra khuyên nhủ đồng đạo. Vì muốn phụng sự Phật Pháp lâu dài nên phải gìn giữ xác thân không được khinh suất, để có thể đưa nó đến chỗ sáng sủa cao quý của Đạo Phật và mỗi khi nghe được lời đạo đức thì hãy tưởng cho việc đó rất ít có mà hết sức vui mừng học hỏi, để sửa được thân mình cho trở nên tốt lành, khỏi chỗ xấu xa hư hỏng.

Nhưng tôi cảm thấy phần nhiều người chỉ có lòng tín ngưỡng Trời Phật mà không tìm biết lẽ ta chánh, cứ bạ đâu tin đó. Vì vậy, trên đường đạo đức không mấy người mở mang trí huệ mà chỉ thấy càng ngày càng khiến mình tới chỗ hoang mang tăm tối thêm.

Vả lại, chỉ có lòng tín ngưỡng một cách suông sẻ hấp tấp, không để trí nghĩ suy, chẳng tìm hiểu sự thật
thì việc làm của mình sao biết trúng trật, như thế có khác nào người mù ai dắt đâu đi đó.

Với những kẻ có quan niệm trách nhiệm về ảnh hưởng của việc làm thì càng có tánh cẩn thận, nhiều nhứt là vấn đề tôn giáo họ không dám hấp tấp một việc nào trong đó cả. Vì nếu họ tin tưởng sai lầm sẽ có hại cho người khác, nhứt là những người quen biết thân thuộc của họ, như thế chẳng khác nào họ rước thầy bá láp về trị bịnh thì tránh sao cho khỏi nguy hại tánh mạng của người uống lầm thuốc.

Vì thế cho nên lòng tôi rất lo ngại cho số người cũng xưng mình là tín đồ Phật giáo, song không chịu theo chánh đạo vô vi của Phật Thích Ca mà ngày nay Đức Thầy của chúng ta đem ra truyền bá, thì sẽ có hại rất nhiều:

1- Làm mất ý nghĩa chánh đáng của một tín đồ nhà Phật.
2- Làm hại cho mình không đến chỗ trí huệ giải thoát.
3- Làm hại gia đình cùng theo tà giáo mà tán thân sạt nghiệp, thần hồn đọa vào quỉ quái.
4- Sẽ gây sự rối rít tinh thần, hoang mang đầu óc những người xung quanh, vì tin theo mình mà phải hư hại.
5- Sẽ còn di hại kẻ khác sau này tưởng lầm mà truyền tụng theo đó gây thành tập quán nữa.


Cũng vì vấn đề mê tín dị đoan nên Đức Thầy khuyên dạy nhơn sanh dẹp bỏ thinh, âm, sắc, tướng trở lại nghi thức vô vi của Đức Phật. Đồng thời Đức Thầy đưa ra những cách thờ phượng tuy đơn giản mà tượng trưng đầy đủ ý nghĩa: Trên bàn Tam Bảo chỉ cần kéo một tấm Trần Điều, dưới có bàn Củu Huyền, ngoài sân dựng một bàn Thông Thiên, như thế là mỗi nhà đều có sẵn một ngôi tam bảo, hôm sớm tự tiện tu hành cúng bái khỏi phải đến chùa miểu.

Huống chi trên sự cứu đời càng nhiều hình thức chừng nào lại càng rối loạn cho kẻ tín phụng chừng nấy, lại có nhiều khi mất hết ý nghĩa tôn nghiêm của nó và cũng sẽ khiến cho người nhân vào chỗ phiền phức ấy mà đâm ra chán nản hoặc sơ sót.

Chúng ta hãy xem xét lại các lời dạy dỗ của Đức Thầy, nhứt là Tám điều răn cấm phải lãnh hội ý nghĩa
và thuộc lòng, vì trong đó Đức Thầy có dặn dò và ngăn cấm nhiều việc mà mỗi tín đồ đều phải chăm chú nghe theo để khỏi phải sai phạm lạc lầm, hơn nữa, nếu mình là một tín đồ của Đức Thầy mà không hành đúng chơn pháp của Thầy, không hiểu biết tôn chỉ của đạo thì sao gọi là tín đồ và cũng sẽ:

1- Không trọn làm đúng lời Đức Thầy đã dạy.
2- Một khi có người ngoại đạo hỏi đến mình không trả lời được, sẽ khiến họ chê cười cho ta là mê tín.
Như thế, có phải ta làm nhục cho đạo chăng? Và cũng khiến cho người ngoài hiểu lầm mà không bước vào để tu học.


Thế nên, việc hành và học đạo ta cần hiểu cho tinh tường căn bản để thiệt hành, mới đạt được mục đích và cũng không lầm lạc.

Sở dỉ tôi phải nói thế vì buổi hạ nguơn có nhiều tà giáo nổi lên, dùng đủ ngụy thuyết khéo léo lôi kéo
người chạy theo để làm rối nước nhà, phá mờ chánh giáo, cho bọn chúng lợi dụng khối người thật thà mê tín để làm hậu thuẫn cho chúng nghiễm nhiên ngồi trên địa vị cao cả... mà tự ý tác phúc tác oai.
Bởi lẽ nóng lòng vì chánh đạo của Đức Thầy nên tôi không ngại ngùng đem lời thành thật nói đây, mong toàn thể đồng đạo nam nữ nên nghỉ vì sự tin tưởng là quan hệ mà hết sức cẩn thận để khỏi lạc lầm. Chớ riêng tôi, đối với vấn đề này không hề có ẩn ý tật đố hay xuyên tạc một ai cả.
Hôm nay tôi xin giảng về hai điều:

1- Sự thấy cho được ngay chánh.
2- Sự suy nghĩ cho được ngay chánh.

Bởi hai điều ấy đối với người học đạo lúc nào cũng lấy nó làm căn bản để đi đến mức cuối cùng của mục đích.

Sự thấy:
1- Thấy rõ mọi sự hơn kém trên đời đều do nhân trước của mỗi người mà có, nên không hề sanh tâm oán hận.
2- Thấy rõ sự luân hồi là một việc đau khổ và uế tiện hơn hết, nên lúc nào cũng quyết tâm cầu đạo giải thoát.
3- Thấy kẻ lớn tuổi hơn kính như cô bác anh chị của mình, nên hết sức tôn nhượng lễ phép không dám vọng tưởng vạy tà hoặc nói lời thô lỗ xúc phạm đến.
4- Thấy kẻ nhỏ tuổi hơn tưởng như con em cháu chít của mình, nên dạy dỗ thương yêu chẳng có ý nghĩ lường gạt bức hiếp.
5- Thấy các sắc tương trong trần dầu tốt đẹp cách mấy cũng tưởng như chiêm bao, như hình huyễn
không phải thiệt có và cũng chẳng bền bỉ, nên không để tâm ganh đua tham đắm.
6- Thấy tiền của dù nhiều như núi cũng vậy, đều tưởng cho là keo mực hay làm hoen ố lòng người và
cũng thường khiến cho mình mắc dính vào đó mà tạo ra ác nghiệp, nên tìm cách tránh xa đừng để nó sai khiến ràng buộc.
7- Thấy rượu chè dù ngon cách mấy cũng cho nó là một thứ chất nóng hay làm mờ mịt trí khôn, rối loạn đầu óc của người, gây ra mọi điều nhơ xấu, nên nhứt định cự tuyệt không dùng đến một giọt (chỉ trừ trường hợp bịnh hoạn do lương y chỉ biểu mới được uống, khi mạnh rồi thì thôi).
8- Thấy sự mê tín là tai hại, vì nó dễ bị lừa gạt, ma quái thường ám ảnh dắt dẫn đến chỗ ngu đần cuồng táo, nên lúc nào cũng lấy trí não bình tĩnh sáng suốt, quan sát tường tận rồi mới đặt sự tin tưởng vào.

Nói tóm lại, chúng ta phải lấy cái thấy chơn chánh làm gốc, dù việc lớn nhỏ cũng vẫn giữ sự cẩn thận để xem xét, không được vì trường hợp nào mà khinh suất, mới tránh khỏi sai siển đáng tiếc.


Vả lại, trong chỗ thấy ngay chánh đối với người có địa vị quan trọng trong xã hội lại cần phải có nhiều hơn, vì nếu không thấy ngay chánh sẽ không rõ ai có thật tâm để dùng, ai có dã tâm để tránh và không khỏi hiểu lầm kẻ có tốt lòng với mình làm cho mất hết cảm tình, trở lại có sự nghi ngờ chia rẽ.

Có thể nói ta nên dùng cái thấy của một đấng anh hùng đối trước nghĩa vụ, cái thấy của người mẹ đối với các con, nghĩa là trong chỗ thấy cũng có mềm mại mà cũng cứng rắn, bài bác tất cả giả dối huyền hoặc có hại cho đời và cương quyết ủng hộ mọi công bằng lợi ích trong thiên hạ.

Tuy nhiên, cái thấy ngay chanh như thế cũng chưa đủ kềm chế ý mình vĩnh viễn, cần thêm vào cái nghĩ ngay chánh nữa mới đủ giúp mình đến chỗ thành công có hiệu quả hơn.

Sự nghĩ:
1- Nghi cho sắc đẹp như là hầm chông, dù ai sa vào cũng thấy hư thân mất tiết cả, nên tránh đừng để lụy vào.
2- Nghĩ cho rượu chè như là thuốc độc hễ uống vào đều tổn thân mất hạnh, nên không ghiền đến.
3- Nghĩ cho cờ bạc như là trái ban hễ lâm vào đều tán gia bại sản, nên chẳng nhiễm theo.
4- Nghĩ cho kiêu căng như là què xuội hễ ai có thói ấy thì trí hóa không mở mang, nên chừa đi không học đến.
5- Nghĩ cho ngạo mạn như là phun cùi hễ ai có tanh đó thì bạn tốt không gần, nên tránh xa không tập lấy.
6- Nghĩ tánh phân biệt nhơn ngã như là mồ hoang hay làm cho giữa mọi người trở thành lạnh lùng đau
khổ, nên cố răn trừ.
7- Nghĩ tánh tham lam như là quỉ đói hay xui người làm tất cả việc ác không chừa, nên quyết tâm lánh bỏ.
8- Nghĩ cho lời nói dối trá như là rắn độc hay giết người bằng cách hiểu lầm, nên tránh xa.
9- Nghĩ cho nóng giận như là rồng lửa hay đốt phá mọi loài không chút nhúng nhường, nên chẳng nhen nhúm.
10- Nghĩ cho thói tật đố như là nọc ong hay châm chích cho nhau mất thiện cảm, nên gắng trừ xong.
11- Nghĩ cho lòng câu nệ như là xiền xích làm cho trí người quanh quẩn chỗ chật hẹp dốt nát, nên cố phá bỏ.
12- Nghĩ cho sự mê tín như là mù đui hay dắt mình đến chỗ ngu dại và lần đến sự giết mất hy vọng của mình trên đường Phật Pháp, nên lúc nào cũng ngăn ngừa xa tránh không để lâm vào.

Nói rõ hơn, ta cần phải nghĩ tưởng ngay chánh cả mọi việc và lấy sự tương đối trong mọi vấn đề, để mà
định đoạt việc làm cho khỏi có sự phản ứng cay nghiệt.

Như thế ấy, cái nghĩ tưởng giúp ta khám phá được sự hại trong mọi việc làm và cũng đưa ra cho cái thấy của ta được thêm phần ngay chánh hơn để đến chỗ thực hành như ý nguyện.

Xin nhắc lại một lần nữa, trong lúc ta còn mê ví như người trọng bịnh dễ chết, muốn được sống phải tìm vị danh y có đủ phương khoa kỳ diệu mới cứu được, nhược bằng hấp tấp rước lấy ông thầy dở tệ thì sẽ làm hại mạng ta, vì thuốc không nhằm chứng hoặc khắc lại với bịnh.

Huống chi, chúng ta đã có Đức Thầy nghĩ khỏi phải tìm kiếm đâu nữa, hãy căn cứ vào kinh sám luật nghi của Đức Thầy đã dạy ranh trong đó mà làm theo, sẽ tiện đến chỗ toàn thiện toàn mỹ không sợ lầm lạc ai hết.

Giả như chúng ta muốn tìm một đấng siêu nhân thì hãy xem ngay hành vi đức độ của người, mỗi mỗi đều phải trên hơn kẻ phàm phu thường tục, nhứt là các ngày luôn luôn không tự đắc tự phụ, vì đã hiểu chán thói đời ngã nhơn cao hạ là mối đầu của lòng thân sơ ái ố.

Xét nghĩ đến thế ta sẽ tự biết rõ ai thật tâm cứu đời, ai ẩn ý lợi dụng người chất phát, để làm lợi khí cho họ ngồi trên hưởng sự cao sang sung sướng mà tìm cách chặn đứng và sa thải họ ra khỏi xã hội, đặng tránh bớt tác hại cho mọi người.

Thưa đồng đạo,
Vì muốn giữ mình trong sạch, tránh chỗ lạc lầm đáng tiếc để chờ ngày Đức Thầy trở về, trước là Đức Thầy được hài lòng khi thấy chúng ta trung thành từ tư tưởng đến hành động, sau chúng ta cũng được xứng đáng một công dân biết làm vinh hiển tổ tiên cha mẹ, nên tôi từ lâu đã lắm lời khuyến ca nhắn nhủ với đồng đạo mà chẳng ngại chỗ sơ sót phiền hà, với điều này tôi rất mong rằng đồng đạo hiểu thấu đáy lòng chân thật của tôi mà quên đi những điều siển bạc và cũng chớ quá câu chấp danh từ hay lý thuyết, hãy xem ngay việc làm để mà phê phán mới có bằng chứng cụ thể hơn.

Phương chi trong lúc Đức Thầy vắng mặt, có nhiều người viện ra mọi lý lẽ, vì họa nồi da, vì nghèo túng, vì sự chết chóc ly tán của gia đình mà đâm ra nghi ngờ phóng túng hoặc trở lại mưu sanh những nghề bất chánh thì với kẻ thật tâm vì Đạo trông thấy há dễ ngồi ngó được sao hay là cần phải có đôi lời cảnh tỉnh.

Vả lại không phải chỉ ở Việt Nam mà hầu khắp thế giới, đâu đâu cũng có loạn lạc chiến tranh, theo tôi cho đó là phút cùng rốt của Hạ nguơn, nên nhơn loại đều phải chung chịu như nhau hết. Nếu kẻ nào không tin đời này sắp đến chỗ tàn tạ, cứ đua nhau giành quyền cướp lợi tạo gây nhiều nghiệp dữ, chừng đến ngày chung cuộc thân thế và sự nghiệp ấy sẽ theo luồng mây khói tan như bèo bọt ngoài sông, không thể tồn tại vĩnh viễn được.

Thưa đồng đạo,
Đã trải qua mấy năm biến cố, không biết bao nhiêu người đã mang sự rủi ro mà chúng ta vẫn còn được
sống sót đây, nghĩ cũng có phước duyên lắm rồi. Lẽ ra chúng ta cần phải nỗ lực trau giồi đức hạnh, tu tấn thêm lên, để kéo dài sự sống này đến ngày kia, nếu không đủ sức để chứng bậc Phật Tiên thì cũng được làm thần dân của Thượng nguơn mới qui hóa.

Thử hỏi, hiện giờ với kẻ đã quyết giữ vững tâm hồn của một tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo có thể chạy ra trường đời để mưu cuộc giàu sang bằng cách dối trá như kẻ khác được chăng? Hay là dù sao cũng vẫn chịu nghèo để làm tròn sứ mạng của kẻ đã giác ngộ và được Đức Thầy giáo hóa, mà lo bảo thủ lòng mình cho được trong sạch đến cùng.

Nhưng tôi lấy làm đau đớn, thấy có một số đồng đạo chỉ lo cậy sức mạnh làm việc riêng cho mình, vấn khăn dà, mặc áo vạt mẻ mà không hổ thẹn khi làm việc nhơ xấu bạo ngược.
Nên Đức Thầy có than rằng:

“Hãy tưởng Phật đừng làm bạo ngược,
Ta phần hồn dạo khắp thế gian,
Vào xác trần nước mắt chứa chan,
Khắp lê thứ nghe lời thì ít”.


Và có câu:

“Dọn bề trong mới gọi đẹp xinh,
Chớ mang lốt bề ngoài chẳng tốt.
Dạy chẳng đặng lòng như lửa đốt,
Khắp dương gian chưa được ba phần”.

Chúng ta thấy chăng chơn thần của Đức Thầy đã giao du bốn biển, dạo khắp mười phương, dù trong
việc buồng kín cũng thấy rõ như ngoài sân, chúng ta hãy lấy đó răn mình chớ dễ duôi mà mang lỗi.
Vả chăng ta đừng để “hưu danh vô thật” chỉ mang tiếng là tín đồ Phật giáo mà cứ đảo ngược Ngũ giới
Tam quy, vì thứ Phật giáo ngoài da ấy sẽ không khác kẻ đói mà uống dầu, thì tức là phải chết.
Phật giáo với chúng ta cũng như cơm với nước cần thiết cho sự sống, ta nên hết sức bảo vệ:

- Phải tôn kính,
- Phải gìn giữ,
- Phải chăm nom và thực hành.

Trong lúc ta chưa đủ can đảm trình bày việc quấy của ta với người trong nhà hay kẻ khác thì hãy đến
quỳ trước ban Tam bảo để tỏ lòng sám hối, sự đó sẽ được ơn trên tha thứ cho nếu bắt đầu từ đó về sau
mình không tái phạm.

Thưa đồng đạo,
Tôi giảng nhiều, tôi nói nhiều vì tôi muốn cho nhau được sống chơn chánh, được gặp Đức Thầy và được khỏi luân hồi thống khổ. Nói rõ hơn, đối với tất cả đồng đạo lúc nào tôi cũng đem hết tâm tư trí não, gào thét cho nhau làm xong bổn phận trong lúc Đức Thầy vắng mặt, nghĩa là:

- Tu thân.
- Xử thế,
- Bồi bổ công đức.
- Tuân thủ lời Đức Thầy.

Có thế mới đáng gọi là tín đồ Phật Giáo.
Tóm tắt bài giảng này có hai mục chanh: “Thấy ngay chánh; Nghi ngay chánh”, mà hễ được thấy ngay
chánh, nghi ngay chánh thì việc làm cũng sẽ do đó mà ngay chánh theo, chừng ấy những tội lỗi nơi mình không còn và các việc của mình đối với mọi người cũng được thù đap ân nghĩa trọn vẹn.

Ngâm:

Ý muốn cho đời gắng sự tu,
Nên chi Thanh Sĩ chẳng nài đau.
Đem lời Phật Thánh khuyên trần thế,
Để được cùng chung một sắc màu.
Ý muốn cho đời gắng sự tu,
Nên chi Thanh Sĩ chẳng nài đau.
Đem lời Phật Thánh khuyên trần thế,
Để được cùng chung một sắc màu.
Đó là nghĩa của phần Thanh Sĩ,
Đã vì người lớn nhỏ nhủ khuyên.
Bước tu hành hãy nhớ cần chuyên,
Đường đạo lý phải nên xet cứu.
Theo tiếng chuông nơi đền Linh Thứu,
Bước xuống thuyền của lão Bồng Lai.
Nhớ ơn Thầy hỡi bơ gái trai !
Tưởng Quan Cựu ở người đồng đạo.
Bởi thấy chúng sanh còn đổ máu,
Vì thương người quá đỗi muội mê.
Nên Phật Tiên cõi hạ tựu tề,
Tìm đủ cách khuyên người tỉnh thức.
Thương những kẻ thật tâm chánh trực,
Buồn cho người giả dối gian tà.
Ở ngoài môi miệng niệm Di Đà,
Trong tâm trí tưởng điều yêu quái.
Kẻ đó hẳn không hề tồn tại,
Đến ngày kia hồn xác chẳng còn.
Trên thế trần nhiều việc thon von,
Giữa cõi khổ muôn điều lao lý.
Tu thì phải tìm chơn lánh ngụy,
Biết được ranh các việc chánh tà.
Những điều nào hợp lý Thích Ca,
Thì sấn sướt một lòng đi tới.
Bỏ những chuyện trái điều phạm giới,
Lánh mọi phương huyễn hoặc dối gian.
Tu sao cho đến cảnh Niết bàn,
Hành được thấy nơi câu thâm diệu.
Đọc sấm giảng khuyên người sớm liệu,
Tầm kệ cơ nên hiểu lẽ mầu.
Tu sao cho được đến sơn đầu,
Tu khỏi để thân vào miệng cọp.
Tu cho được khỏi lờ khỏi lọp,
Tu không sa vào rập quỉ ta.
Tu được coi cái Hội Long Hoa,
Tu thấy cõi Ta bà biến đổi.
Tu sao thấy chư bang thế giới,
Nhìn nước Nam với vẻ kính cung.
Chẳng còn tâm xưng bá xưng hùng,
Với ý chí theo đường đạo đức.
Khuyên hãy rán một phen nỗ lực,
Để tìm về đến cõi Thượng lai.
Khỏi những điều lao khổ như nay,
Thêm hưởng lấy mọi phương mầu nhiệm.
Tu hành phải thành tâm tô điểm,
Những điều lành gắng sức làm lo làm.
Các việc nào nhơ xấu đừng ham,
Trái giới luật phải nên chừa bỏ.
Hỡi tất cả đạo đồng lớn nhỏ,
Thương Đức Thầy đừng có thả trôi.
Phải hợp hòa hôm sớm trau giồi,
Nhớ lại Đức Thầy còn lao lý.
Chúng ta chớ quá vì ích kỷ,
Hãy lo cho xong chí tu hành.
Để ngày kia quả đắc công thành,
Lại cũng được phỉ tình thầy tớ.
Ai bao nỡ quên cơn Tần Sơ,
Không chờ trông hết cuộc rẻ chia.
Phải thành tâm cầu Đức Thầy về,
Để qui hội dứt rồi tai khổ.
Phải thương Thầy gắng công dạy dỗ,
Nên mến nhau cùng một đạo tràng.
Hãy nghĩ rằng nơi cõi trần gian,
Khác nào thể đám mây lửng đưng.
Tuy mịt trời gió qua vài bận,
Trong khắc giờ nó sẽ tiêu tan.
Dầu cho nay người có tham sang,
Đến chung cuộc cũng ra ma quái.
Chi bằng nên trì trai giữ giái,
Rèn bốn ân với tám điều chơn.
Đến ngày kia sẽ được tồn thân,
Lại cũng thấy Ngũ Vân mầu nhiệm.
Trên rưới giọt mưa hoa khó kiếm,
Dưới Phật Tiên công dụng phép mầu.
Cứu trần gian đi đến Long Lầu,
Độ bá tánh khỏi cơn tiêu diệt.
Thương nhau phải lấy lời thành thiệt,
Vì muốn cho đồng đạo chánh chơn.
Nên có lời chơn giả biện phân,
Hãy tùy ý lọc lừa chọn lấy.

Ngâm:

Kinh kệ nhiệm mầu hỡi bớ ai !
Trên đường tu học gắng công mài.
Để chờ được gặp Long Vân Hội,
Đến đó Tôn Sư trở gót hài.
Gót hài khi trở rất siêu cao,
Vậy cả đồng môn chớ ngại nào.
Nay phải nhứt tâm qui hướng Phật,
Để chờ đi đến một ngày sau.
Hỡi đồng đạo giồi mài tâm chí,
Dẫu lao lung thê mấy đừng phai.
Ai ôi tu tỉnh ngày nay,
Ngày kia sẽ được non đài đến nơi.
Cuộc thay đổi khắp trời nguy biến,
Chuyện hãi hùng đâu đó như nhau.
Trên đường Phật Pháp siêu cao,
Một lòng gắn bó thì nào mất thân.
Gọi khăp cả mười phương dân chúng,
Kêu ai người thật tánh chuyên tu.
Từ nay chớ nghi lu bù,
Hãy nên nhứt quyết vượt tù trần gian.
Đường đi đến Thất San không dễ,
Qua Vàm Nao việc ấy khó khăn.
Tâm kia khá giữ năm hằng,
Sau rồi mới khỏi dưới lằn kiếm đao.
Đời ơi ! Sĩ quá buồn than vãn,
Nghĩ vì ai phải rán nhủ khuyên.
Chớ tâm này ngày tháng sầu riêng,
Thương đồng đạo nhớ Thầy vắng mặt.
Dẫu Thanh Sĩ có lời để nhắc,
Cũng cơ hồ như vá múc thêm.
Biết bao giờ trên dưới một niềm,
Để được khỏi có điều phiền muộn.
Ai cũng biết tu hành yêu chuộng,
Có bao giờ gây cuộc xéo dày.
Rán tu hỡi bơ trần ai,
Từ rày việc thế đổi thay không ngừng.
Khuyên nhau đây chẳng lựa lần,
Gọi nhau cho biết Phật Thần nơi đâu?
Cơ trời xem thấy không lâu,
Chỉ hiềm dân chúng cơ cầu chẳng tin.
Lời khuyên đây thật hữu tình,
Chỉ vì bá tánh chưa gìn đấy thôi.
Ôi ! Ôi ! ba bốn tiếng ôi !
Để sau rõ biết non đồi nổ tan.
Chừng kia chung thấy đền vàng,
Mới quay tưởng Phật muộn màng lắm thay.
Bây giờ chưa gặp nạn tai,
Với lòng lơ lảng không hoai sự tu.
Chừng khi nạn ach lu bù,
Mới là lớn nhỏ dập đầu cầu Tiên.
Ôi thôi ! đến thế thêm phiền,
Phật Trời đâu thể xuống liền cứu cho.
Lời khuyên nhủ gay go từ đoạn,
Tiếng nhắn nhe hãy rán bớ dân !
Bởi vì đây lập đời tân,
Muôn thu mới có một lần này thôi.
Lời giảng khuyên nhau đã đến đây,
Gọi cho hãy nhớ nhớ công Thầy.
Ra về ôm ấp câu huyền bí,
Để được cùng đi đến hội mây.

15 tháng 8 Quý Tỵ -Tức ngày 22 tháng 9-1953.

21- Ngày 30 tháng 8 tại Tây An Cổ Tự: Lựa lời ngay chánh - Lựa nghề ngay chánh

Ngày 30 tháng 8 tại Tây An Cổ Tự: Lựa lời ngay chánh - Lựa nghề ngay chánh

Ngâm:


PHẬT xuất An Giang đủ phép mầu,
GIÁO truyền Đạo Thích rất cao sâu.
HÒA trong sanh chúng gieo điều thiện,
HẢO ý đưa về kiến Bửu Châu.

Hỡi đồng đạo,

Như kẻ muốn làm giàu, việc làm đầu tiên là phải thức khuya dậy sớm, lo tính làm lụng mệt nhọc cực
khổ và phải ăn cần ở kiệm, dành dụm com kỉnh từ đồng, lâu ngày dư động được nhiều mới trở thành nhà phú hộ.

Người tu hành cũng thế,

Muốn đến địa vị cao quý của Tiên Phật cần phải giữ giới, niệm Phật, tích đức tu nhân, làm tất cả việc lành, giữ mọi điều chơn chánh và lúc nào cũng mài miệt cố gắng để mà đi tới.

Với những công phu ấy không hề chán nản bỏ qua, cứ một mực trau trỉa thêm lên, chừng khi có đủ công đức phước điền mới đạt thành ý nguyện.

Trái lại, trong sự tu hành lòng đã muốn gần Phật, chứng quả mà chẳng chịu theo lời Phật dạy thì đâu có công duyên gì, hẳn không bao giờ Phật thọ ký tiếp độ mình đâu. Như vậy, sự mơ tưởng và hứa nguyện suông sẻ đó chưa làm đủ làm cho Đức Thầy cứu độ.

Hiện giờ chúng ta là môn nhơn của Đức Thầy, với bốn cuốn giảng chánh của Đức Thầy đã dạy, nếu chúng ta thực hành theo đó một cách viên dung sẽ được phát huệ và giải thoát.

Chẳng phải vậy thôi, ngày kia chúng ta còn được gặp Hội Long Hoa, chầu Chúa Thánh, nghe pháp mầu, đó là điều hy vọng duy nhứt của cả tín đồ nam nữ đã trông mong chờ đợi.

Song theo chỗ nhận thấy của tôi việc làm của anh em đồng đạo, nhứt là về cách thức tu hành ở buổi đầu rất gần chân lý, nếu rán “thêm thêm” một chút nữa là nắm được hiệu quả. Nhưng hình ảnh ấy đã mất đi vì ngày tháng trôi qua, nhứt là trong lúc vắng mặt Đức Thầy, phần đông đều bị vật chất xô đẩy, tiền bạc ám ảnh, sắc đẹp rù quến, quyền thế cuốn lôi, chỉ vì lòng ích kỷ đành quên hết lời dạy của Đức Thầy, không còn vẹn lòng trung thành với lý tưởng Phật Giáo Hòa Hảo như xưa.

Vì lẽ ấy, tôi và biết bao vị khác, vì sự lợi ích nhơn sanh, nói rõ hơn vì muốn chấn hưng đạo đức, hồi phục gia phong mới đứng ra kêu gọi nhắc nhở lý tưởng cao siêu của Thầy, của Phật để cho anh em lớn nhỏ nhứt tâm tu hành, trước khỏi lâm tội ác, sau sống sót coi đời. Nghĩa là trong sự giảng giải có mục đích làm cho sáng tỏ tâm hồn tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo và trùng hưng phong tục cao quý của giống nòi, với lại lần hồi làm lan rộng lý thuyết từ bi cùng khắp nhơn sanh, để cho mỗi ai cũng biết tự giác trên lẽ công bằng, hầu cứu nhau khỏi sống trong cảnh chênh lệch khổ sở.

Hơn nữa, mọi lời nhắc nhở của tôi để làm cho anh em đồng đạo tin rằng: Lúc Đức Thầy vắng mặt ơn trên chẳng bỏ qua việc đạo đức mà vẫn khiến có người khuyến nhủ luôn. Ngoài điều này, những việc làm nào của chúng ta đều được Đức Thầy hiểu biết tường tận, cũng như chư vị thánh thần đều thấy rõ. Nếu chúng ta làm những điều chơn chánh sẽ được các Ngài ủng hộ bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp, trong giấc mộng hay bên ngoài.

Chúng ta chớ quá bi quan trong lúc Đức Thầy vắng mặt, để say mê theo vật chất phù phiếm ma quên lảng tinh thần đạo đức siêu việt. Đành rằng sự sống phải cần đến vật chất, song vật chất ấy chỉ cung ứng tạm thời và thích thú ngắn ngủi, nếu ta mãi đeo nó thì sẽ vì nó mà khổ lụy nhiều kiếp. Ta hãy nghĩ đến chơn thần của ta siêu suất hơn, để gắng sức trở lại và mở mang sáng suốt, chủ đích để gặp Hội Long Hoa và chầu Phật.

Tuy nhiên trên lẽ thực tế nếu muốn khoáng triển đạo đức chúng ta cần phải bảo trợ đất nước an vững, vì nếu nước biến thì dân nghèo, mọi sự khuynh đốn đê tiện hẳn phải xảy ra, hơn nữa không có một vị trí an ninh bảo đảm chắc chắn để cho ta thuyết minh đạo lý dưới một hình thức nào rộng rãi được. Còn nói gì những phương tiện truyền bá hẳn phải gặp nhiều sự khó khăn.

Thưa đồng đạo,
Vì muốn cứu thế khỏi chốn trầm luân, đã xuất hiện biết bao thánh hiền, có đủ cách kiềm hãm con người trở lại khuôn khổ tốt đẹp giữa nhau. Đồng thời có những phương pháp giúp người thực hành đến chỗ giải thoát.

Tóm lại với những hành động của các vị ấy, do lòng đại bi mà chẳng quản khó nhọc, nhiều phen đã phải hy sinh rất nhiều về tánh mạng cũng như tài sản cho chúng sanh; như Đức Thầy lúc nào cũng thương mến chúng ta trong lúc mê muội chẳng khác người trên giường bịnh trầm trọng, sảng sốt. Muốn cứu chúng ta, Đức Thầy đã đưa cho nhiều diệu dược, hềm vì chúng ta không chịu uống vào thì sự nguy hiểm tánh mạng đâu tránh khỏi.

Diệu dược ấy là: Sấm giảng, kệ cơ, qui giới của Đức Thầy đa dạy cho ta để trị bịnh mê si ta kiên ac nghiệt, nếu chúng ta cố gắng thực hành sẽ được mở khai trí huệ và giải thoát mê ly, hơn nữa kỳ Hội Long Hoa này cả muôn thu mới có một lần, chỉ để thu nạp những phần người hiền đức sang dự nơi đó, nếu chúng ta không gấp rút sửa mình để đến ngày kia dẫu có hối tiếc cũng không kịp.

Thưa tất cả đồng đạo,
Hôm nay tôi xin giảng về hai điều:
  • 1- Lựa lời ngay chanh.
  • 2- Lựa nghề ngay chanh.
Hai điều này trợ giúp cho ta gây lấy thiện cảm với mọi người và tránh mọi ác nghiệp cho ta ở kiếp hiện hữu và vị lai, chẳng thế thôi nó còn giúp cho ta trở thành một tín đồ đủ đức hạnh và qui củ của đạo Phật nữa.
Lựa lời ngay chánh:
1- Lựa lời thành thật không nói giả dối.
2- Lựa lời minh chánh không nói vạy tà.
3- Lựa lời hòa nhã không nói đâm thọc.
4- Lựa lời hiền lành không nói hung dữ.
5- Lựa lời hữu ích không nói bông lơn.
6- Lựa lời khiêm cung không nói cao gát.
7- Lựa lời lễ độ không nói ngang tàn.
8- Lựa lời ân nghĩa không nói bội phản.
9- Lựa lời hiếu thuận không nói ngỗ nghịch.
10- Lựa lời thanh bai không nói tục tằn.
11- Lựa lời thánh hiền không nói truyện nhảm.
12- Lựa lời nhân quả báo ứng không nói câu nệ vô thần.

Tóm lại chúng ta nói lời phù hợp đạo lý, hòa thích nhơn tâm, gây lấy sự sống trong bầu không khí êm dịu nhẹ nhàng và cũng chẳng gây cho ta tội lỗi ở lỗ miệng.

Đức Thầy có nói:

“Lựa lời tiếng dịu dàng trong sạch,
Khi thốt ra đoan chánh hiền từ”.

Thấy chăng? Đức Thầy đã dạy chúng ta những lời lẽ mềm dịu, ngọt ngào để kết lấy sự thân ái giữa nhau và cũng theo phép lịch sự của con nhà lễ giáo, huống chi sách xưa có câu: “Bán cú phi ngôn ngộ tổn bình sanh chi đức”, ý nói: “Nửa lời chẳng phải sẽ làm ta mất đức lúc bình sanh”. Như thế chúng ta đâu nên khinh thường lời nói, hãy dè dặt lọc lừa trước khi thốt ra mới xứng đáng môn nhân của Đức Thầy.

Tuy nhiên, nói không cũng chưa đủ làm giá trị hẳn hòi, vì nếu nói mà không làm thì chỉ kể như là vọng ngữ, nên cần phải kèm theo việc làm, nhứt là lựa làm những nghề ngay chanh mới đủ kết quả cao quý.
Lựa nghề ngay chánh:

1- Không làm nghề trộm cướp lận lường.
2- Không làm nghề đồ tể sát sanh.
3- Không làm nghề phá thai, chẩn huyết.
4- Không làm nghề nuôi điếm mãi dâm.
5- Không làm nghề gây men, nấu rượu.
6- Không làm nghề chứa rủ bạc bài.
7- Không làm nghề khiêu vũ, hát ca.
8- Không làm nghề viết truyện huê tình.
9- Không làm nghề buôn lậu đầu cơ.
10- Không làm nghề tạo bán đồ giả.
11- Không làm nghề oa trữ gian tế.
12- Không làm nghề kiện mướn mưu mẹo.
13- Không làm nghề săn bắn lưới rập.
14- Không làm nghề phù thủy ếm đối.
15- Không làm nghề coi bói tướng tay.

Nói tóm lại, chúng ta tránh tất cả nghề nghiệp nào có hại cho đạo lý, đất nước và phong tục của giống nòi.
Đức Thầy có nói:

“Tích thiện thời thường có phước dư,
Bằng tích ác họa ương đeo đắm”.


Như vậy việc làm hẳn có quan hệ đến đời sống hiện hữu và tương lai của ta rất nhiều, vì thế ta cần chọn lựa xem xét đến nghề nghiệp nào chơn chánh, được lợi ích cho mình và kẻ khác. Nhứt là những việc làm nào được vinh hiển tổ tiên cha mẹ, mới khỏi hổ phận là người sanh trên cõi đời, nhứt là sanh vào đất nước Việt Nam.

Hỡi đồng đạo,

Đồng đạo hãy quan tâm vào việc làm nhiều hơn, vì nó sẽ làm xứng đáng dân tộc tự giác. Trái lại, nó cũng hay làm cho thiên hạ nhạo cười, tổ tiên bị khinh rẽ, nếu việc làm ấy tham tàn bạo ngược trái công lý.

Khổng tử có nói: “Phú nhi khả cầu, chấp tiên diệc vi, như bất khả cầu tùng ngô sở háo”: Việc giàu sang mà cầu được, dù nghề cầm roi cũng làm, như chẳng cầu được thì nên theo ở điều ta thích. Lại có câu: “Các nhân chi tài sản do hồ các nhơn chi phước lực, tịnh phi thiết mưu nhi khả đắc dã”: Tài sản của mỗi người bởi phước lực mà có, đều chẳng phải bày mưu thiết kế mà đặng.

Như thế sự giàu nghèo hẳn có định mạng chúng ta chớ có bốn cạnh theo tiếng gọi của lòng tham dục, theo ngoại cảnh của trường ác thế, hãy trở lại với việc làm chơn thật công bằng, nhứt là phải được siêng năng tiết kiệm để không khiến lâm vào cảnh hư hèn như bợn.

Vả lại xét đến cõi đời, sở dĩ đã diễn ra lắm trò hung tàn cay nghiệt giữa nhau, đó chẳng qua vì con người quá tôn trọng vật chất, nói rõ hơn vì sự ăn, mặc, ở, lợi, danh, tình mới nỡ xuống tay tàn sát lẫn nhau, gây cuộc biến loạn trong nước khiến dân phải khốn khổ, phải chia ly, để rồi chỉ đem lại sự tủi nhục tổ tiên, tội lỗi nòi giống, nhứt là mỗi người trong ấy đời sau phải hái lấy khổ quả thê thảm vậy thôi.

Bởi thế cho nên chúng ta hãy trực tâm tuân thủ qui ủ của Đức Thầy đã chỉ rạch từ việc một trong sấm giảng, để có thể làm được những việc công lợi cho đất nước, ân đức cho nhân sanh và cũng là để giúp mình đến chỗ hoàn thiện trong buổi chọn lọc sang cõi Thượng nguơn.

Chúng ta lúc nào cũng tưởng Đức Thầy trước mặt, để không quên nhưng lời dạy dỗ cao quý và nghĩ rằng sự tái lâm của Đức Thầy, với mục đích cao thượng là gầy dựng hạnh phúc cho nước nhà, cứu thoát cảnh đao binh cho dân tộc và gieo mầm đạo đức cho khắp cả chúng sanh, để cùng chung hưởng trong ngày Hội Long Hoa là giờ phút thiêng liêng siêu tuyệt.

Cũng cần nhắc lại câu Đức Thầy đã dạy:
“Đứng trước mọi việc chi, về sự đời hay đạo đức ta phải suy xét cho minh lý rồi sẽ phán đoán việc ấy”, nếu mỗi lần muốn thi thiết một vấn đề nào ta đều có chỗ xét nghĩ như thế, hẳn không bao giờ lâm vòng tội lỗi thái thâm, vì những điều không hợp lý cố nhiên ta đã tranh trước.

Trái lại, với sự thích ứng đạo lý, lợi ích mọi người dù nhỏ lớn ta đều tiêm tế để làm và nếu có làm như vậy mãi phước đức thêm dầy, đạo hạnh thêm lớn, trí huệ càng mở mang, đến chung qui hẳn phải được toại nguyện trên đường giải thoát.


Thưa đồng đạo,

Sự giảng giải của tôi chỉ vì thương đồng đạo giữa nhau trong lúc vắng mặt Đức Thầy, với phương diện
nào cũng đều cuồng quẩn, nếu tốt thì tốt hết, xấu thì xấu lây, huống lại chúng ta cùng đi trên con thuyền nếu có kẻ nhổ đinh, pha chốt, rủi chìm dù kẻ không phá cũng phải chịu chung, Vì thế mà chúng ta cần phải giữ gìn khuyên nhủ lẫn nhau tranh điều tổn hại, nhứt là phải biết đoàn kết chặt chẽ để tiến xa trên đường đạo nghĩa, ngõ hầu khỏi phụ công lao của Đức Thầy về mặt truyền giáo cũng như cách mạng.

Tóm tắt mục giảng này có hai điều: Trước lựa lời ngay chánh, sau chọn nghiệp chơn thật mà làm trong
mỗi ngày, sẽ khiến mình trở thành tốt đẹp, vừa công lẫn đức cho ngày kia gặp Chúa, gặp Thầy và dự Hội Long Hoa.

Ngâm:

Rủ đi Long Hội triệu muôn người,
Nhưng chữ lợi tình chẳng chịu thôi.
Càng nhiễm ô lâu càng thấy lâm,
Giữa đường lắm kẻ nỡ buông trôi.
Trong cảnh khổ nhìn nhau chua xót,
Nên Sĩ Thanh nối gót khuyên đời.
Kêu gọi nhau cạn tiếng ráo lời,
Nhưng ít kẻ thật tâm nghe lấy.
Tưởng lẽ nhiệm còn nằm trong giấy,
Chưa lộ bày nên chẳng đủ tin.
Để đợi khi sấm nổ liên thinh,
Chừng đó mới giựt mình hối ngộ.
Như vậy đó cũng đà quá khổ,
Còn chi đâu tu kịp bớ người !
Cảnh huống này nửa khóc nửa cười,
Khóc những kẻ giữa vời phụ bạc.
Cười lắm hạng bề ngoài chay lạt,
Mà trong lòng chứa chất mặn mòi.
Tu thế ni Long Hội khó coi,
Hành như vậy Phật Trời đâu chứng.
Kêu kẻ trí từ đây bền vững,
Gọi người ngay mai tối khẩn cầu.
Việc tu hành đâu nệ mau lâu,
Miễn cho được một câu tỏ ngộ.
Sau rồi gặp diệt Kim qui Cổ,
Hội Nhà Bàng mới toại con lành.
Hiện bây giờ nhiều nổi rối đoanh,
Bởi cơ tạo chuyển xây quá ngặt.
Trên đường lành bước đi gút mắc,
Nhưng tâm hồn giữ chặt chớ rời.
Có ngày kia được sống coi đời,
Đặng gặp Chúa gặp người Thượng cổ.
Việc nói đó có ngày phát lộ,
Chẳng hề không ớ hỡi đạo đồng !
Tu từ đây gắng giữ lòng trong,
Hành khuya sớm gìn tâm như nhứt.
Dẫu có gặp lắm điều khổ cực,
Lòng vẫn tin Trời Phật độ điều,
Có ngày kia được gặp Trời Nghiêu,
Hưởng an lạc muôn điều thong thả.
Khuyên ai rán bền tâm chắc dạ,
Để đợi Thầy trong lúc trở về.

**
Thầy ôi ! trở gót cứu con thơ,
Lạc mẹ con gà thật ngẩn ngơ.
Còn khổ chi hơn nghe tiếng ó,
Cả bầy chiu chít tợ vò tơ.

**

Thầy ôi ! trở gót cứu con hiền,
Được khỏi lưới rào của tụi Phiên.
Để có tự do đi đến hội,
Ngõ hầu cúi bái đấng Thần Tiên.
Lời khuyên nhủ cho người tỉnh thức,
Tiếng gọi kêu mong kẻ hồi đầu.
Tuy sự tu vẫn đã hèn lâu,
Nhưng phát huệ ngắm xem thời ít.
Bởi vô minh tâm kia mờ mịt,
Rán giồi mài có thuở sáng soi.
Phải làm sao rạng vẻ giống nòi,
Nên sửa phận để không hổ mặt.
Nay sự thế ngày càng siết chặt,
Để đến hồi kết thúc cuộc cờ.
Vậy ai người hiểu rõ thời cơ.
Nên bền chí chớ đừng ngao ngán.
Đã được biết đạo mầu chanh đang,
Hãy vững tâm khuyên chớ sụt lùi.
Cũng có ngày hưởng sự an vui,
Giữa thầy tớ cùng nhau hội hiệp.
Hãy nhớ giống Kim Chi Ngọc Diệp,
Cũng nghĩ rằng tổ phụ anh hùng.
Nay chúng ta phải gắng vẫy vùng,
Theo kịp chi người xưa mới đáng.
Tu thì phải hiền lành ngay thẳng,
Nhưng cũng lo vùa giúp nước non.
Để cùng nhau được hưởng sống còn,
Đặng đi đến ngày kia thấy Chúa.

**

Lời khuyên chưa thấy mãn lời,
Điệu đờn không phím tuyệt vời bớ ai.
Trên Chúa thánh thẳng ngay một dạ.
Dưới tôi hiền chẳng khá hai lòng.
Từ xưa nay vẫn sạch trong,
Tựa như màu sắc bá tòng non mây.
Lời khuyên vưng ý Đức Thầy,
Để cho đời biết cõi này có Tiên.
Nhủ lòng của các chư duyên,
Tới đây nghe giảng hãy truyền ra xa.
Một khi trở gót lại nhà,
Nên đem lẽ chinh khuyên mà gia trung.
Lời giảng giải chưa cùng chưa tận,
Tiếng nhủ khuyên còn thẩm còn sâu.
Nhưng nay tóm tắt ít câu,
Đến đây đã dứt thảy hầu lui chơn.

30 tháng 8 Quý Tỵ - tức ngày 7 tháng 10-1953.


  THÁNG CHÍN:
22- Ngày Rằm tại ngôi Tây An Cổ Tự (Đời sống chơn chánh-Tiến tới chơn chánh)

Ngày Rằm tại ngôi Tây An Cổ Tự (Đời sống chơn chánh-Tiến tới chơn chánh)

Kính chào tất cả đồng đạo nam nữ,


Ví như hồ nước đã trong lặng ngàn năm, chỉ một hồi khuấy động đủ làm cho cặn cáu nổi lên, dơ đục trở lại như cũ. Với lòng người cũng thế, đã từ lâu cố rèn luyện cho được khoan hòa thanh tịnh, một khi hốt khơi nóng giận, tham lam hoặc nghi ngờ, sẽ khiến cho thần trí xiến xao mờ tối, đức tin mòn mỏi lui sụt, rồi lần lần mất hết hình ảnh sáng suốt chơn thật, quay lại những điều tội lỗi ương hen hơn hồi chưa tu nữa.

Vì thế, kẻ học Phật sau khi đặt chơn trên đường đạo hãy giữ vững đức tin và mạnh mẽ tiến tới mức cuối cùng, dù gặp nguy nan khốn ách thà chịu chết chớ không để thối chuyển. Có được như vậy mới khiến cho mình tiến tới chỗ toàn thiện toàn mỹ, nắm lấy kết quả vinh diệu của đạo.

Vả lại, trong sự tu hành không thể hạn định giờ khắc, cứ phải bền bỉ cố gắng, nhứt là phải được tỏ ngộ thì mới mong mỏi chứng đắc. Thế nên chúng ta phải cần mẫn siêng năng tìm hiểu rõ ràng lý đạo, trước hết phải hiểu giới luật, vì kẻ học đạo mà không cần mẫn để khảo nghiệm và thực hành theo đúng qui củ, hẳn không bao giờ đưa mình đến chỗ tốt đẹp, tròn vẹn của một người Phật tử được.

Sách có câu: “Nhơn vô qui củ, bất năng chế kỳ tà, vô tình cần bất năng thanh kỳ chí”: Nếu người học Phật không qui củ, chẳng chế ngự được tâm tà, không chuyên cần, chẳng làm nên được cái chi. Vì vậy, đối với sự cần mẫn, giới luật rất quan thiết cho người tu học, lúc đầu dù ai cũng phải lấy nó làm khuôn thước, mẫu mực để mà tiến đến mục đích giải thoát.

Thưa đồng đạo,
Về nghi thức cũng như phương pháp tu hành của chúng ta ở thời kỳ này có khác hơn thời trước nhiều.
Bởi tùy theo thời cơ và căn khí của chúng sanh, nên ơn trên Đức Thầy khéo dùng cho thích hợp. Như việc thờ phụng chỉ đơn giản, giáo pháp tóm tắt. Mỗi tín đồ chỉ cần giữ một ít giới răn, bòn chút phước duyên, được đi đến kịp kỳ ơn trên phân định.

Dù rằng pháp môn tuy giản yếu, nhưng không được bao nhiêu người chịu khó làm theo đúng cách, nhứt là đối với Tám điều răn thì thật ít kẻ làm tròn. Và cũng vì thế, mà kẻ này mới đứng ra giục thúc đồng đạo nhớ lại bổn phận của một tín đồ nhà Phật. Rán làm những điều Đức Thầy dạy bảo, ngoài hai thời cúng lạy, lớn nhỏ còn phải sửa tánh răn lòng, làm điều phước thiện, cần nhứt là phải luôn nhớ Bốn trọng ân.

Vả lại, nhờ sự cúng lạy khó mỏi, mới làm cho người có được công phu rồi lần đến công đức, có công phu công đức mới gồm đủ phước huệ, cũng như cái hoa đủ hương đủ sắc. Như thế mới chứng thành viên mãn có sự ủng hộ của các vì Tiên Phật Thánh Thần. Và nhờ gói mình trong qui giới mới tránh được điều sai phạm tội lỗi, trở nên kẻ hoàn toàn chơn chánh giác ngộ.

Hỡi đồng đạo,
Ngày giờ mỗi phút qua mau, tình thế đao binh thêm siết bó, chúng ta không nên dai đai, hãy siết chặt tay nhau, sốt sắng tạo tác phước điền, vun bồi công đức, ngừa bỏ lỗi lầm để xây dựng nền móng đạo đức cho nhau cùng hưởng hạnh phúc chung. Dù cho ngày kia cuộc thế biến dị, thời nhà thay đổi, chúng ta cũng không đến nỗi lâm vào chỗ nguy kịch. Huống nữa, trên lẽ giải thoát, nếu chúng ta đâm ra nghi ngờ xao lảng rủi gặp cái chết đưa lại bất ngờ, nạn tai đến mình không hẹn, chừng đó dù muốn làm lành, muốn niệm Phật cũng không làm sao được, vì trong lúc hấp hối thì tâm thần điên đảo, thân thể bức ngặt, không còn đủ sức bình tĩnh để nhớ nghĩ như lúc bình thường. Thảng hoặc sự chết bất kỳ tử, thì việc muốn niệm Phật, làm lành lại càng không dễ được.

Bởi vậy đồng đạo cũng như tôi, lúc nào cũng đầy đủ tin tưởng Đức Thầy chẳng dối gạt ai, chỉ muốn dẫn dắt chúng ta đến chỗ hiền hơn, để cùng chung hưởng với Thầy một bầu an vui khoái lạc trong ngày hội Quần Tiên. Việc này Đức Thầy đã hứa hẹn trước, hiện giờ chúng ta hãy cùng nhau, mỗi người mỗi nhớ chỉ bảo nhắc nhở lẫn nhau cho không phạm lỗi, thì phút chung qui mới đến chỗ hẹn ấy được.

Đức Thầy có nói:

“Phải qui căn cùng nhau hội hiệp,
Rán mau chơn mới kịp đạo mầu.
Sớm với chiều gắng chí nguyện cầu,
Thì sẽ được tòa chương dựa kế”.


Đức Thầy đã dặn trước và lúc nào cũng chú vào sự đoàn kết của chúng ta. Thêm nữa, vì muốn cho chúng ta thảy đều hồi đầu hướng thiện, nên Đức Thầy mặc dầu đã chịu nhiều đau khổ nhưng chẳng hề than.

Thật ra Đức Thầy dạy bảo chúng ta rất lao tâm khổ xác, nhưng chưa hưởng chút lợi riêng nào, chỉ thấy
cam chịu mọi nỗi truân chuyên, phải xa cha cách mẹ, lìa chị bỏ em, không quản đến gia đình thân thế, phải trải gió dầm mưa, màn trời chiếu đất, bôn Bắc tẩu Nam, đi lại khắp nơi lo cuộc hưng vong nước non, đạo lý va phải va chạm biết bao sự ngang trái, nhứt là bị lời cay tiếng đắng của kẻ ngoại đạo và người vô nhân.

Nhưng, hễ mỗi lần nhớ đến Đức Thầy với tâm hồn của một tín đồ thuần thành trung nghĩa không khỏi
buồn than cho một số anh em đồng đạo, ngỡ đâu Đức Thầy không trở lại nên tha hồ bôn xu theo vật chất, son phấn, đỏ đen, đổi lại tâm hồn quỉ mị, tu hành biếng nhác, đức tin mỏi mòn, không còn chú thiết lời vàng tiếng ngọc của Thầy Tổ nữa.

Thảm thay ! Ngày giờ đen tối tình thế đảo điên, đạo giáo trong cảnh suy đồi đó là triệu chứng đưa đến tiêu diệt. Người có đạo căn sao không suy xét đặng tự chủ lấy mình theo đường chánh đáng, nỡ để cho ma vương lôi kéo, tiền bạc cám dỗ, sắc đẹp rù quên, quên mất lời Đức Thầy mách dạy.

Ai bảo cho sự đời chưa tới?
Ai nói tình thế không biến di?


Có thấy chăng từ năm 1945 đến nay, khắp vùng đều lâm nạn đảng tranh, dân cư phải nát cửa tan nhà, thêm vào sự chết chóc mỗi ngày không ngớt, nhứt là dân sự sống trên cái sống củi quế gạo châu, rất hỏng heo số kiếp, như vậy chưa đủ tỉnh hay sao?

Đức Thầy có nói:

“Ngày tiêu diệt từ năm Bính Tý,
Đến năm nay hao hớt đã nhiều.
Các ngoại bang đã nhuộm máu điều,
Sao trần thế không toan chẳng liệu.
Để đến việc dang lưng mà chịu,
Chớ Phật đâu cứu kịp cho người”.


Chiếu theo đây thì đời đã tới từ năm Bính Tý đến giờ. Bắt đầu từ đó đến nay nhơn loại ngày càng giết chóc lẫn nhau thấy chồng gấp mấy dãy Thất Sơn, huyết đọng bằng sông Cửu Long và nước mắt của nạn nhân tuôn ra dường biển lớn. Tuy nhiên, nạn ách này tới đây chưa phải hết, nó sẽ còn diễn đi diễn lại nhiều lần nữa, cho đến ngày Thượng nguơn hoàn toàn trở lại mới dứt.

Thưa đồng đạo,
Giờ phút nghiêm trọng này, đời cũng như đạo đều có một lối bảo tồn khác biệt. Đời thì toan lấy mâu thuẫn quỉ quyệt của trí não, để gồm thâu cái lợi về mình; đạo thì có các nhà giác ngộ, các vị Tiên Thánh Phật nổ lực giáo hóa kẻ có thiện căn khỏi nỗi tội mê để trở về cựu vị. Vì ở cõi thế gian, tiền kiếp của mỗi người đều có thầy, Đến giai đoạn này thầy nào trò nấy, có trách nhiệm dẫn dắt nhau. Chánh trở về bên Chánh, tà quay theo phía tà, thành đoàn thành ngũ mới có cuộc tranh tài đấu phép, nếu ai có đức rộng công dày sẽ được tồn tại, còn ai cậy mạnh ỷ khôn không tuân đạo lý sẽ bị tiêu diệt, vì trái thiên điều.

Vậy ai là kẻ thật tâm vì Thầy, vì Đạo hãy tự xét lấy mình có điều chi lỗi lầm sơ sót, nên mau mau chừa bỏ, vì ơn trên lúc nào cũng tha thứ những kẻ biết hướng thiện quày đầu. Trái lại, kẻ đã hung hăng, tuy tự biết mà không nể tránh, nghĩa là cứ làm hung mãi thì đó tự dắt mình đến nạp cho tử thần sớm vậy.

Thưa đồng đạo,
Hôm nay tôi xin giảng:

1- Đời sống chơn chánh,
2- Tiến tới chơn chánh.


Vả chăng, con người được sống chơn chánh mới có giá trị kiếp sống; và có tiến tới chơn chánh mới có
công nghiệp với đời:

1. Phải sống bằng mọi công nghệ chánh chơn hợp pháp;
2. Phải sống với những sanh kế có ẩn lẽ nhân đức từ hòa;
3. Phải sống bằng mọi phương pháp không tổn hại đến mọi người, và được mọi người thuận ưng vui vẻ;
4. Phải sống trong các hành vi thanh liêm và đơn kiệm;
5. Phải sống để mà diễn đạt tâm hồn cao thượng của thánh hiền cho khắp cả dân gian;
6. Phải sống đặng làm cho các hột giống lành có dịp sanh sôi nảy nở;
7. Phải sống để làm sống tinh thần đạo đức ở trong lòng của mỗi người;
8. Phải sống để giúp sống cho đồng bào nhơn loại;
9. Phải sống toan làm những việc làm của các bậc anh hùng chi sĩ;
10. Phải sống theo con đường cao siêu chánh đạo của các tiên nhân;
11. Phải sống cho xứng đáng một kiếp sống, nhứt là không sống theo sự nịnh lùa nhơ bẩn;
12. Phải sống tìm làm những điều vinh diệu tổ tiên cha mẹ;
13. Phải sống có đủ cách làm tỏ rạng ngôi Tam bảo Phật, Pháp, Tăng;
14. Phải sống với một hương vị bất diệt.


Có được cái sống như thế, chẳng những làm cho tuổi tên vang lừng, giá trị đầy đủ mà sẽ còn được đời tôn kính là một vị ân nhân.
Cái sống này nó đối lập hẳn với những cái sống tồi tàn nhơ bẩn của kẻ khác, như ta đã thường thấy:

Có kẻ sống chỉ làm cho người phải khóc đứng than ngồi;
Có kẻ sống để làm chướng tai gay mắt của thiên hạ;
Có kẻ sống để bán giống buôn nòi;
Có kẻ sống làm ký sanh trùng của xã hội;
Có kẻ sống trên cái ngu muội của kẻ khác;
Có kẻ sống trên giọt mồ hôi, nước mắt của lê dân;
Có kẻ sống như hình rơm tượng gỗ;
Có kẻ sống chỉ làm chết dân tộc đồng bào;
Có kẻ sống cho thần sầu quỉ khóc;
Có kẻ sống chỉ để gieo sự đau khổ cho gia đình;
Có kẻ sống chỉ gây sự phiền tủi Tổ tiên cha mẹ;
Có kẻ sống trong cái chết. Nghĩa là: kẻ này tuy ăn nói, đứng đi như bao nhiêu người khác, song không chút lương tâm, không mảy đạo đức; đứng trước cái đau khổ của người họ vẫn lạnh lùng trơ trẽn, không làm lợi ích cho ai.


Một khi đã tránh xa hoặc đào thải cái sống nhơ bẩn ấy, chúng ta sẽ thấy sống cách khoan hòa, êm dịu, tuy không hẹn mà Trời Phật cũng trao lây nhiệm mầu cho ta, vì Trời Phật lúc nào cũng ủng hộ lòng tốt của chúng ta, chẳng khác mẹ gìn con trong giấc ngủ mê lăn gần cạnh giường mau tay ven đỡ cho con khỏi té. Song vì mắt phàm mãi nhắm nghiền không thấy, nên mới có người đem lòng nghi ngờ cho không có sự cứu hộ của các đấng từ bi.

Trông thấy sự mê lầm ấy lòng tôi rất xót xa, mặc dầu đương bịnh cũng quên đi, để đến đây mỗi kỳ sóc vọng, có trần tố lại tâm hồn đạo đức cao cả của tiên nhân, khiến cho mọi người nhớ tôn chỉ Phật giáo hầu theo đuổi đến kỳ cùng của ngày kết quả. Sau khi nhắc cho mọi người biết tự giác lẽ sống đúng đắn rồi, phải hăng hái tiến tới trên mọi lẽ chơn chánh mới làm cho đời sống có giá trị và được hữu ích cho thiên hạ.

1. Tiến tới đời sống hoàn toàn thanh bạch.
2. Tiến tới những việc làm đã suy nghĩ kỹ lưỡng, không tổn hại quyền lợi người khác và được chơn chánh.
3. Tiến tới một tinh thần đạo đức thuần hạnh cao cả;
4. Tiến tới lòng tự giác, giác tha của chủ nghĩa từ bi;
5. Tiến tới một sức mạnh vô biên của trí thần để gạt bỏ tất cả thói quen nhơ xấu của thân, khẩu, ý;
6. Tiến tới phá bằng thành kiến vị ngã để tự do giúp đỡ mọi người;
7. Tiến tới rửa sạch mười nghiệp ác, đổi làm mười nghiệp thiện;
8. Tiến tới ngăn lấp tám nẻo tà, khai thông tám đường chánh;
9. Tiến tới chỗ phẳng bằng sáng suốt của đạo tâm;
10. Tiến tới các việc làm công đức sâu rộng, để đủ sức cứu hộ chở che tổ tiên cha mẹ;
11. Tiến tới để phụng hành lý tưởng cao siêu chơn chánh của Thầy Tổ giáo truyền;
12. Tiến tới nền chơn lý và trí huệ quảng đại, để hướng dẫn nhơn sanh trở về đường quang minh
chanh đại;
13. Tiến tới một tình thương rộng rãi, từ phạm vi đồng bào nhơn loại nhẫn đến khắp cả chúng sanh;
14. Tiến tới lòng hiếu dưỡng mẹ cha rộng sâu vô bờ bến;
15. Tiến tới đạp phá tất cả chướng ngại của tâm cảnh, để hoàn thành mục đích cao thượng của kẻ tu hành.


Nói tóm, chúng ta chỉ phải tiến tới mọi việc làm chơn chánh, nghĩa là: những việc ấy chẳng những không tổn thương mọi người, trái lại còn làm lợi ích cho họ, nhứt là được vinh quang đồng bào nhơn loại.

Có những chỗ tiến tới như vậy, mới khiến cho người đạt thành vị quả cao siêu mà từ xưa đến giờ các tiên nhân ta phải làm khổ công trên lẽ ấy.

Vì nếu không biết tiến tới như thế, hẳn khoảng đời ta đối với nước nhà không công lao, với gia đình không đầm âm, nhứt là đối với đạo lý không được mở mang thì bến mê đồ có bao giờ thoát khỏi.

Lại nữa nhờ sự tiến mạnh này mới giúp cho ta sớm gặp Đức Thầy, vì Đức Thầy của chúng ta không vui gần những đứa con bất hiếu, một tín đồ ương ngạnh trái thuyết từ bi.

Hỡi đồng đạo !
Phần sống chơn chánh và tiện tới chơn chánh đã kể vừa qua chỉ một phần đại cương, song nó bao hàm hết ý nghĩa của sự sống và tiến của kẻ hành đạo.

Tôi rất mong rằng, sau khi nghe điều này, đồng đạo nam nữ hãy để vào tâm thì sự đi nghe này mới là hữu ích. Trái lại, nếu vì tánh háo kỳ, thấy ai đi thời đi theo chơ không chú ý nghe học; như thế chỉ làm hư hại công ăn việc làm và mê mệt thân xác chớ có ích lợi chi đâu.

Việc giảng giải của tôi từ lâu với sở nguyện muốn cho mỗi người được nghe hiểu, nhứt là hiểu rõ tôi là
một tín đồ chơn thành của đạo Phật Giáo Hòa Hảo, nhân lúc xa cách Đức Thầy đem lời kêu gọi cho người đồng đạo gắng làm những việc phước duyên để thỏa lòng Thầy và cứu mình sống sót.

Kỳ thật bởi lòng tôi quá bùi ngùi, một khi đi lại một nơi thấy tinh thần đạo đức của anh em bị phai mờ trong vật chất, lợi danh, tình ái đổi lại sự lên xe xuống ngựa, áo lụa quần hàng, môi son má phấn, trau chuốc chưng dọn theo lối hoa mỹ kim thời để trêu hình bẹo dạng lừa đảo lẫn nhau. Rất tiếc cho mớ khăn thâm, áo dà của thời kỳ đã qua, ngày nay chỉ còn sót lại một ít.

Thưa đồng đạo,
Tiền của phi lý có làm vinh cho ta chăng?
Khi vô thường đến nó có ngăn cản được không?
Nhứt là nó có khiến cho mình gặp Đức Thầy ngày kia chăng? Hay tiền của chỉ để giết mình nhiều hơn và nó thường xúi giục cho nhau đoạn phân tình nghĩa đổi lại sự thù ghét, giết bỏ gớm ghê mà gây lấy mọi điều tội lỗi với Tổ tiên nòi giống, hễ khi có tội lỗi thì tránh sao khỏi luân hồi trong sáu đường để đền trả, có khi cả ngàn năm sau mà chưa thoát kiếp.

Bởi xét như thế, nên ông Bàng Cư Sĩ có câu:

“Thế gian trọng trân bửu,
Ngã qui sát na tịnh;
Tài đa lụy nhân tâm,
Tịnh kiến chơn như tánh”.


Nghĩa là:

Người đời trọng châu báu,
Ta qui một mảy tịnh;
Tiền lắm lụy lòng người,
Tịnh được thấy chơn tánh.

Vì sự nhận định ấy, nên cả nhà của ông Bàng Công Cư Sĩ gồm có bốn người đều được trực vãng Tây Phương.

Tôi ước ao sao trong số người nghe giảng hôm nay, được đa số không nghĩ ngợi việc khác, chỉ cố gắng noi gương theo gia đình ông Bàng Công, hẳn cũng sẽ được kết quả như vậy.

Tóm tắt, đây không phải trò xiếc, cũng không hát sơn đông mà là giọng nói thành thật, kêu gọi anh em
giữa đời sống và tiện tới chơn chánh, để được xứng đáng một người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo trong đời mạt pháp này.

Đem những lẽ cao siêu mầu nhiệm,
Chẳng tiếc chi với khách hồng trần.
Lòng đau buồn cho khắp vạn dân,
Sự nghe nhớ nghĩ thôi quá ít.
Bởi tâm tánh vô minh dày bịt,
Nên ít khi thấy rõ diệu huyền.
Phải gắng công sớm tối tịnh thiền,
Để sớm được bỗng khai trí huệ.
Trên Tiên Phật các Ngài đã thệ,
Quyết độ đời đến phút cuối cùng.
Dẫu cho thân gặp lắm lao lung,
Cũng chẳng quản chi lòng cứu thế.
Thấy lắm kẻ tu hành bê trễ,
Trông nhiều người đạo lý lu mờ.
Thế cho nên tạm viết kệ cơ,
Hoặc phải nói những lời thi phú.
Đây chẳng khác lạc nhau kêu hú.
Làm cho người nghe rõ trở về.
Buổi sai lầm chỉ tại tâm mê,
Cơn tỉnh thức nhờ tầm đàng giác.
Muốn cho kẻ khỏi trường sống khác,
Nên có lời khuyên nhủ cạn cùng.
Ơ cõi trần nào khác thiết lung,
Lâm tình ai như sa hầm lửa.
Sự đau khổ còn mong chi nữa,
Đã diễn lan khắp chỗ quá rồi.
Biết bao giờ tiếng kệ này thôi,
Bởi đạo lý nơi người quá ít.
Lời khuyên nhủ vịn câu Phật Thích,
Tiếng kêu gào do ý Khổng Phu.
Để gọi nhau trở lại đường tu,
Hầu chừa bỏ mọi điều gian trá.
Vui sướng chi tuồng đời tạm giả,
Nỡ chẳng gìn nhưng lẽ nhiệm mầu.
Cuộc chuyển xây trái đất không lâu,
Ngày biến đổi nhơn sanh nháy mắt.
Ai được có thật tâm đạo đắc,
Thương những người giả dối tan hồn.
Trên đường tu chẳng lựa bôn chôn,
Miễn cho được thành tâm bền bỉ.
Điều trước nhứt diệt lòng ích kỷ,
Để phụng hành chánh giáo đại từ.
Lẽ thứ hai tập tánh yêu người,
Mới có thể hy sinh việc khó.
Điều thứ ba quả căn tin có,
Để lánh xong những việc vạy tà.
Việc thứ tư khắp cả vạn gia,
Tin có Hội Long Hoa gần đến.
Mới gắng chí đưa mình tới bến,
Lòng không sanh những ý bỏ bê.
Trong điều hành gặp việc thảm thê,
Kẻ thức tỉnh với lòng cố gắng.
Dầu phải chịu ngàn cay muôn đắng,
Với tâm kia một mực chơ từ.
Vào Hạ nguơn gặp vị Chơn sư,
Hẳn tiền kiếp tạo nhiều duyên hạnh.
Đức Thầy còn máng trong khổ cảnh,
Huống chi mình sao khỏi tai nan.
Bởi nghiệp xưa đã lắm đeo mang,
Nay mới phải chịu nhiều ách thảm.
Khi trả rảnh khỏi vòng hắc ám,
Sẽ đến nơi huyền diệu thiên nhiên.
Rồi tự do giao hội thần tiên,
Không còn ngại trên đường sanh tử.
Nay nhắn nhủ cùng nam chí nữ,
Hãy để tâm bình tĩnh ta cầu.
Phải cảm trên Tiên Phật Thánh Thần,
Nhờ phép nhiệm chở che nhơn loại.
Nếu trễ chơn sa vào khổ hải,
Rồi khó mong về cõi Tây Thiên.
Bớt hồng trần khỏi trí đảo điên,
Đặng quả quyết trên đường giải thoát.

**

Lời lẽ khuyên răn khắp mọi người,
Với lòng rười rượi nỗi buồn vơi;
Nghĩ suy Nam Bắc ngày chung cuộc,
Chọn lại người ngay chẳng mấy nơi.

**

Nơi hiền rất hiếm với nhân gian,
Phải gấp thẳng chơn đáo Niết bàn;
Ngày Hội Long Hoa ôi quá ít !
Chỉ vì mang mểnh cái dây oan.
Dây oan trăn trói gái cùng trai,
Nên khó gieo thân đến Phật đài;
Nay cất tiếng khuyên khuyên hãy tỉnh,
Để rồi được sống đến ngày mai.
Ngày mai vinh diệu lắm người ơi !
Nơi chốn Năm Non quá tuyệt vời;
Rồng phụng nhơn nhơ trưng cảnh thượng,
Không còn lao nạn chốn trần vơi.

**

Lời khuyên ai hãy tỉnh lòng,
Để rồi trau sửa cho xong phận mình.
Đây khuyên nhủ đó hết tình,
Nếu không trau sửa thì mình khốn ngụy.
Nhủ tâm thức lẽ từ bi,
Nặng lời Thầy Tổ ra đi khuyên đời.
Đi nghe thì phải nhớ lời,
Để về giữ vững một đời thanh cao.
Bởi lẽ thân này chưa mấy thuyên,
Cho nên văn tắt ít lời khuyên;
Mong người nhớ đó hầu tu tấn,
Đã dứt giảng rồi kẻ thiện duyên.

15 tháng 9 Quý Tỵ – tức ngày 22 tháng 10 năm 1953.

23- Ngày 30 tại ngôi Tây An Cổ Tự: Y Niệm Chơn Chánh và Tâm Định chơn chánh

Ngày 30 tại ngôi Tây An Cổ Tự: Y Niệm Chơn Chánh và Tâm Định chơn chánh

NGÂM:

Hương vị đạo mầu ngát bốn phương,
Vẳng nghe tiếng giảng chạnh tình thương.
Tơ cuồn non nước chung tay gỡ,
Đem lại cho nhau phúc thạnh cường.

Xin chào tất cả đồng đạo nam nữ,
Sự tu hành của đồng đạo mấy năm qua, mặc dầu có nhiều nơi bản lảng vì sự dồn ép của nạn nồi da xáo
thịt, song từ sau ngày ngôi Tây An Cổ Tự được tu bổ lại đến nay khiến lòng tôi lấy làm hoan hỷ thấy mỗi ngày sóc vọng anh em nam nữ hăng hái đến đây, trước chiêm bái Phật Trời, sau nghe những lời đạo đức.

Có nhiều khi vì máy khoang thanh trục trặc khiến cho những người đứng xa không nghe được đành ôm
phút thất vọng ra về. Tuy nhiên với lòng vẫn còn hoài ngưỡng để đến kỳ khác cũng vui vẻ đi nghe không chán nản.

Để thù đáp tấm lòng chiếu mộ của người đồng đạo, tôi có những lời đạo đức thể theo chơn lý của Phật,
của Thầy, đem ra khuyến tấn anh em nam nữ cố gắng trau giồi hạnh nết, rèn luyện thân tâm và làm những điều lợi dân ích nước, để khiến cho mình có nhiều công đức được sống sót đến ngày kia vui chén quỳnh tương, khi nước nhà khỏi vòng xiềng xích, nhơn loại hết cảnh đao binh, dưới nét mặt của mỗi người được hiện ra vẻ tươi cười hòa ai.

Cảnh ấy có thể nói tương xứng với cõi Thần Tiên, mà kẻ thật tâm yêu dân, mộ đạo từ lâu đã ao ước trông chờ.

Hỡi đồng đạo,
Nếu người ham đạo cũng như ham tiền, mê tu như mê sắc và chùi rửa mọi sự hen úa xấu xa như chùi rửa ống nhổ thì phước duyên nào không sanh, đức ân nào chẳng lập và trí huệ sao lại chẳng khai? cho đến đạo quả cũng sẽ thành tựu dễ dàng.

Nếu con người dám thẳng tay trừng trị việc tội lỗi nơi mình, kế đó cố gắng tẩy trừ mọi điều nhơ xấu đã hoen nhiễm từ xưa, hẳn sớm muộn gì cũng được trở nên sáng suốt. Nhân đó sẽ có đủ phương tiện tạo lấy việc nhân từ đức hạnh, lợi ích quần sanh, chẳng khác nào kẻ muốn qua sông đã được thuyền, không những được làm chân đưa mình qua bờ giác ngạn, mà sẽ còn giúp cho thân nhân quyến thuộc của mình cũng như kẻ khác quá giang, để đến chỗ giải thoát khỏi bến sanh tử luân hồi.

Song người làm lành hẳn phải chạm nhằm kẻ dữ, nhưng đã quyết tâm thiệt thi tinh thần bác ái thì không
vì có sự trở ngăn của ngoại cảnh mà thối khuất ý chí cao cả của mình. Như vậy mới có thể từ chỗ mê muội đến nơi sáng suốt, nếu mê muội đã hết thì sẽ hiện ra nơi mình mọi việc an vui, bởi Không còn việc si mê lầm lẫn.

Ai có biết chăng, cảnh sống hiện hữu của nhơn loại quá đỗi chập chờn vì đang bị ảnh hưởng của đao binh, khiến cho cuộc đời phải lăm trầm thăng tiêu trưởng.

Thế mà có nhiều kẻ nhắm mắt bảo cho là sung sướng, đẹp đẽ, quên hết căn xưa cội củ của mình, trở lại tạo thói đê hèn tồi tệ làm cho nhơ tông hổ tổ, tủi nước sầu dân, gây nên tội trạng tày đình, làm cho thân muôn kiếp gánh lấy sự đọa đày khổ nhục.

Như vậy ai có chút kinh nghiệm hẳn thấy rõ sự giả dối phù phiếm của trường đời đã ám ảnh con người làm những việc tội lỗi táo bạo: nào giữa nòi giống xé sâu, tình cha con giết hại, nghĩa chồng vợ rã rời và dẫn nhơn loại đến chỗ thiêu đốt dưới làn bom đạn, mũi kiếm đao.

Để tỉnh giác những tâm hồn đương sống bằng cạnh tranh giết hại khá mau nhìn lại sự tàn ác mâu thuẫn
vừa qua mà sớm trở lại con đường từ hòa đạo đức, ngõ hầu khiến cho giữa người này kẻ nọ biết tương trợ lẫn nhau, tránh bớt nỗi cơ cực nguy nàn, nghĩa là: mọi người biết đãi nhau như ruột thịt làm cho cảnh sống được bằng phẳng an vui, từ lời lẽ đáp họa đến việc làm và ý tưởng cũng đều được hòa nhã ngay chanh trong sạch. Được như thế mới đổi cảnh biến động trở nên thanh tịnh an bằng.

Đau xót cho đời cất tiếng kêu,
Gương lành mai tối đã hằng nêu.
Những mong nam nữ trau lòng chánh,
Để có sau đây sống đặng nhiều.

Bởi nhận biết ở thời này quá hung ác, bạo ngược, nhân lành rất ít, nghiệp ác đã nhiều hẳn chung qui không được bao nhiêu người sống sót.

Thế nên, kẻ này đã nặng lòng thệ nguyện độ rỗi mọi người bằng cách: Trước đem lời Thầy Tổ đánh thức kẻ mê man trong tràn mộng huyễn cho có dịp hồi đầu, kế đó chính mình thiệt thi những điều cao siêu trác tuyệt, có phương tiện che hộ quần sanh được chung sống ngày Thượng nguơn tái lập.

Nhưng nỗi u buồn đã mấy thu,
Ngắm nhìn thiệt quá ít người tu;
Biết sao có phép Quan Âm Phật,
Giúp được một phen cá hóa cù.

Hỡi ai ! Trong khoảng xa vắng Đức Thầy chẳng khéo gìn nhau để đưa đến chỗ đê mê, cảnh giết chóc,
như vậy vô tình bôi xóa công hạnh của mình tu nguyện từ lâu và gieo nỗi buồn đau cho Đức Thầy khôn xiết kể.

Đức Thầy vì lòng thương chúng ta mà đã phải gội tuyết dầm sương, nằm gai nếm mật, chịu biết bao gian khổ sở, xa cha cách mẹ, thân thế lao đao, suốt mười mấy năm trời chịu đủ lời cay tiếng đắng của kẻ hiểu lầm và phải ẩn ánh khi gặp những chông gai ách nạn, ngày ăn chỉ một ít vật thô đạm, đêm ngủ không đợi nệm rộng giường cao, trong người mãi sầu ưu và bịnh hoạn, vì phải nặng lòng lo cho nước nhà khỏi phải xiềng xích, đạo pháp càng được mở mang.

Mỗi tín đồ một khi hiểu được lòng hy sinh và tình trạng của Thầy như trên chi khỏi động lòng rơi lệ.

Ôi mấy người trông thấy cảnh ni !
Để mà chan sơt chút kham bi;
Ân Thầy nặng trịu dường non núi,
Phận tớ sao xong cái đạo nghì !

Tôi vẫn biết đồng đạo cũng như tôi đã tri ân Đức Thầy và thấm nhuần lý tưởng Phật Pháp hẳn cũng toan lo đạo đức, vì rằng chúng ta càng tu bồi đạo đức thì việc lợi ích trước nhứt là nước nhà được bớt đi một kẻ phá hoại, gia đình thêm một điểm sáng, trong giáo đường nảy một hoa thơm thì sự hữu ích không số lượng. Trái lại, chúng ta là một đứa con hoang đảng, thứ người phi ân thì sẽ khiến cho đất nước thêm một mục u, càng nhiều chừng nào khiến cho sự đau đớn khó chịu thêm nhiều chừng nấy. Kết quả chỉ thấy tai hại muôn đời cho xã hội một cách tủi nhục.

Cho nên chúng ta cố gắng giữ mình trong sạch để trở thành con người hữu dụng cho đất nước, cũng như
đáng làm gương mẫu của một tín đồ chơn thành trong đạo Phật Giáo Hòa Hảo. Nếu được như thế thì mình không hổ thẹn khi đứng trước bàn Cửu Huyền và Tam Bảo.

Hỡi đồng đạo,
Trong sự nghe này tôi ước sao cho được đích đáng cái nghe, nghĩa là ai cũng chăm chú lựa lấy cái tinh túy của mỗi câu giúp cho mình thêm sự làm chánh đáng được trở nên người tốt đẹp.

Vả lại trong khi nghe giảng, mỗi người tránh được ba điều thô ác:

1. Vì phải chú tai nghe, nên không dư ý mà vọng tưởng việc sái quấy qua rồi hay hiện giờ.
2. Vì cần giữ im lặng để nghe nên không thốt ra những lời vô ích nào làm phiền lòng đến kẻ khác.
3. Trong khi đi nghe đều ngưng hết những việc làm tà tịch sẽ được lợi cho ta và người bớt việc xúc chạm hoặc tội lỗi.

Như vậy đối với người đi nghe đạo lý không đến đỗi phải vô bổ, trái lại càng làm cho trí óc mình được khai thông, tư cách càng trở nên bặt thiệp và lời nói càng tỏ ra lễ độ hơn nhiều.

Thưa đồng đạo,
Hôm nay tôi xin giảng về: “ý niệm chơn chánh và tâm định chơn chánh”. Bởi vì nếu có được ý niệm chơn chánh mới khiến cho người có tâm định ngay thẳng để đến một hành động cộng lợi kết quả theo ý của mình.

Một khi muốn đến một ý niệm chơn chánh thì mỗi người cần phải rèn luyện như sau:
1. Thấy thân hình béo mập của thú cầm chớ khởi ý niệm thèm thuồng muốn giết.
2. Thấy vợ con của người chớ khởi ý niệm hoa nguyệt tà dâm.
3. Thấy tiền của người, chớ khởi ý niệm gạt lường cướp giựt.
4. Thấy người có danh vị cao hơn mình, chớ khởi ý niệm đổ xô chiếm đoạt.
5. Thấy người quyền thế nhỏ hẹp hơn mình, chớ khởi ý niệm lang ngược bức hiếp.
6, Thấy người giàu có sang trọng hơn mình, chớ khởi ý niệm tóm thâu bưng bợ.
7. Thấy người nghèo nàn cơ cảnh hèn hạ hơn mình, chớ khởi ý niệm đầu độc rẻ rúng.
8. Thấy người tài năng thông thái hơn mình, chớ khởi ý niệm xiên ngoa đố kỵ
9. Thấy người dốt nát ngu muội hơn mình, chớ khởi ý niệm khinh khi lợi dụng.
10. Thấy người hình dung tốt đẹp, chớ khởi ý niệm thèm muốn vạy tà.
11. Thấy người thân thể xấu xi tật nguyền, chớ khởi ý niệm nhàm nhụa háy hó.
12. Nghe người ngợi khen nịnh hót mình, chớ khởi ý niệm vui mừng khoái trá.
13. Nghe người chê bai ngạo biếm, chớ khởi ý niệm buồn giận tức tối.
14. Nghe mùi vị thơm ngon, chớ khởi ý niệm thèm khát kiếm tìm.
15. Nghe tiếng vọng đờn ca, lời bùi ngọt, chớ khởi ý niệm thích ưa say đắm,
16. Khi mặc hàng lụa, chớ khởi ý niệm cho la tốt đẹp, trơn láng, dễ chịu.
17. Khi mặc vải bô, chớ khởi ý niệm cho là xấu xí, ô nham khó mang,
18. Ở nhà ngói tô lầu các, chớ khởi ý niệm cho là sang trọng, rộng rãi khoảng khoát.
19. Ở mái chòi tranh, lều trệt, chớ khởi ý niệm cho là hèn hạ thấp nhỏ bẩn chật,
20. Chớ khởi ý niệm cho đạo mình chánh, đạo người tà.
21. Chớ chớ khởi ý niệm nhớ lo những điều xấu xa vừa qua hiện giờ và sắp tới. v.v...

Tóm lại, ta không nên có tất cả những ý niệm xằng xiên thô ác hoặc tánh hay đố kỵ
- nhứt là trong lúc niệm Phật cũng như khi cúng bái, ta nên giữ đừng cho tâm ý vọng động chuyện ngoài, chỉ để một lòng thanh bạch cầu nguyện mới có hiệu quả và tránh được tội ngạo mạn.

Những điều trên đây, chúng ta hãy bình tĩnh để mà truy cứu lẽ chơn ngụy của nó hầu lần lượt làm cho
mình có một tâm định hẳn hòi.

Nếu ta không có những ý niệm xằng bậy thì tâm tanh sẽ trở nên định tĩnh mà lần đến chỗ phát khai trí
huệ. Nhược bằng mỗi ngày ta cứ thâu nạp mọi tư tưởng xấu xa, các ý niệm tà vạy, đầu óc bị quàng xiên,
tâm trí phải xao động trở nên mờ ám ngu muội, không còn phân biệt được lẽ phải trái, hư nên khiến cho mình đến chỗ lỗi lầm sai ác.

Muốn cho mình đến chỗ tâm định chơn chánh và có hiệu quả xác thật, thì phải thiệt hiện phần thanh tịnh
của lục căn đối với lục trần trước hết, như là:

1. Thấy cả thảy sắc mà không khởi lòng tà, đó là mắt định.
2. Nghe cả thảy tiếng mà không khởi quấy, đó là tai định.
3. Ngửi cả thảy mùi mà không khởi ý chấp, đó là mũi định.
4. Nếm cả thảy vị mà không khởi tâm nhiễm trước, đó là lưỡi định.
5. Chạm xúc mọi vật mềm cứng, thô mịn, lạnh ấm, v.v... mà không khởi lòng phân biệt lấy bỏ, đó là thân định.
6. Trước cảnh giàu sang sung sướng, danh vị, lợi tình, v.v... mà không khởi lòng ô luyến, đó là ý định.
Nếu mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều được khiết định
cả,(Khiết là thanh khiết, sạch sang. Có bản in là: quyết định.) thì sự sáng suốt lần lượt mở khai và nhờ đó mà lục thông ngày một phát hiệu.

Tóm lại, như ai thể theo những ý niệm và tâm định chơn chánh như đẫ kể trên thì người đó đạo hạnh viên dung, tương lai chắc sẽ được quang minh để bước lên Phật quả.

Trên bước tu hành phải gắng công,
Khó khăn dầu lắm cũng làm xong;
Gỡ tâm tục lụy, đeo lòng Phật,
Mới được đưa mình dự Hội Long.

Có những định tánh tốt đẹp chơn thật mới có thể đủ làm cho mình sống còn đến được ngày Thượng
Nguơn và Hội Long Hoa. Bởi Hội Long Hoa do Tiên Phật lập ra để chọn người trung nghĩa, hiền đức.

Dầu cho kẻ không ở tôn giáo nào nhưng lòng vẫn chơn chánh từ thiện cũng được tồn tại đến đó. Trái lại kẻ có tôn giáo mà không tuân trọng qui điều, hành sử tà kiến, không đúng lời phó thác của Chơn sư, thì không thể sanh tồn đến ngày kia hay siêu thoát linh hồn được.

Công cuộc lập đời quá éo le,
Mỏng manh xem thấy tựa màn the;
Gọi kêu lắm lúc mong người tỉnh,
Để được chung xem ở Ngọc Tòa.

Lẽ đạo đức cao diệu không ngần, ai muốn đi đến chỗ tuyệt luân của nó mới có sự bình đẳng vô cùng.
Nhưng đến được đó, trước tiên người phải ghép mình trong khuôn khổ đã định của luật giới, để đoạn trừ tội lỗi, làm mọi việc phước đức, dù phải lấy cái chết đổi nó cũng vẫn vui vẻ tiến tới. Như thế mới mong nắm được chanh quả.

Vả lại người có đức rộng, ân dày lúc nào cũng được Thiên Long, Hộ Pháp ủng hộ, nên nhiều khi gặp những việc thập tử nhứt sanh cũng được thoát khỏi, trở lại hưởng sự thù đáp cao diệu của các đấng bề trên. Huống chi như kẻ muốn tìm vàng, hẳn phải ra công lọc đãi, dù chịu nhiều ngày lao nhọc và tốn hao công cán cũng quyết cố gắng dẻo dai thì mới có thể bòn lượm được vàng để nấu thành khối, trở nên một nhà phú hộ. Thì đối với việc tu hành cũng vậy.

Đạo quả đắc thành cũng thế ư !
Gìn lòng nhớ việc của Chơn sư;
Lao lung dẫu gặp tâm đừng nản,
Vẫn quyết hành y chữ thiện từ.

Đồng đạo ơi ! trên sự đạo đức chúng ta còn được gặp nhau đây là do tiền kiếp đã cùng gieo một nhân lành, nên ngày mới khiến chung bước vào một lý tưởng. Thì nhiệm vụ đầu tiên chúng ta phải dìu dắt nhắc nhở lẫn nhau phải nỗ lực rèn đuc tâm hồn trong sạch trong kiếp này, để ngày hội Quần Tiên cùng nhau có mặt.

Trên bước gian truân thấy được nhau,
Với lòng thương xót biết là bao !
Chỉ chờ đến được Long Hoa Hội,
Mới toại ước nguyền đã bấy lâu !

Vậy chúng ta hãy gắng chí, nhứt là phải nên thường coi Quyển Sách Nhỏ (Quyển Sau) của Đức Thầy, để
làm xong Mười Điều Thiện, Tám Việc Chánh rồi lần đến đức lớn: đại từ, bi, hỉ, xả như Đức Phật, để đạt
đến bốn ngôi vô thượng chánh giác.

Và đã làm được những việc lành mới gọi rằng người đạo, vì kẻ biết quy đầu Phật Pháp, cố nhiên trong lòng đã giác ngộ việc tội phước trả vay. Song, sau đó mình để cho có nhưng việc làm sai phạm, nhứt là phản lại qui giới của đạo thì tội phải gấp mười lần hơn người chưa biết tu hành, vì mình cầm luật lại phạm luật.

Nhưng mà Phật thánh vẫn từ bi,
Với kẻ bấy lâu đã lỗi nghì;
Nay biết ăn năn và sám hối,
Phật Trời cũng lượng đó nhiều khi.

Ơn trên Trời Phật lúc nào cũng rũ lòng ai mẫn khắp cả chúng sanh như mẹ thương con, tuy vẫn biết nó
hoang đàng ngỗ nghịch, nhưng khi đã biết ăn năn hối ngộ thì các vị liền vui lòng tha thứ ngay.

Bởi đầy lòng từ bi như thế, nên chư vị Phật Tiên Thánh mãi vào cõi Ta bà dạy dỗ chúng sanh mà không
nại sự đau khổ. Như Đức Thầy chúng ta chẳng hạn, lợi quyền không hưởng mà tai tiếng phải lây mang.

Tình cảnh ấy mỗi một tín đồ khá thương đến và phải nỗ lực phụng hành những lời Đức Thầy đã dạy dỗ cho được mười phần trọn tốt.

Đồng đạo hỡi ôi một buổi này !
Nếu không tuân thủ đúng lời Thầy;
Ngàn muôn kiếp nữa không trông gặp,
Nỗi khổ muôn ngàn lắm bớ ai !

Chúng ta phải vững mạnh tinh thần đạo đức để lướt tới phút cuối cùng. Vì thời Hạ nguơn này sớm muộn gì cũng đến chỗ tận diệt để lập lại Thượng nguơn, kẻ tu hành ngay thật được sống, người không tu giả dối sẽ chết. Thể theo ý của Đức Thầy thì ngày Thượng cổ trở lại những phần tử tội lỗi xấu xa đều bị rửa bỏ tất cả.

Đây cũng như lúa ngoài đồng đã gặt một lần rồi chỉ còn mót lại một ít bông chét, khi xong người chủ ruộng sẽ phóng hoa đốt đồng để cày sạ mùa khác. Những phần tử nhơ nhap như rạ co khô sẽ phải chịu dưới sự thiêu sạch của ngọn lửa trời của ngày tận diệt sắp tới chẳng không.

Ngày nay có những kẻ làm hung sùng độc ác mà họ vẫn ngang nhiên hương cảnh giàu sang quyền qui, đó là nhờ ở ngày trước của họ có chút nhân bố thí, nên kiếp này được trả lại cho họ thụ hưởng. Nếu họ không gìn giữ thì khi phước hết họ đành phải theo lằn sóng đại vô thường của ngày biến thiên nhận họ.

Đồng đạo hỡi ôi hãy tỉnh lòng !
Cuộc đời bach cân quá long đong,
Chần chờ ắt phải sa hầm hố,
Đến đó tỉnh rồi cũng hết trông.

Lời khuyên nhắc của tôi chỉ thấy nhiều người đương lúc nghe lấy làm hối hận, dường như đã giũ sạch cõi lòng trần tục, nhưng khi trở về thấy tiền của lợi quyền, tình ân nghĩa ái rồi cứ quay theo đó mà bôn ba, xâu xe, không còn khiếp sợ như hồi nghe giảng nữa.

Hãy tránh xa câu: “Xuất gia nhứt niên Phật tại nhan tiền, xuất gia tam niên Phật quá Tây Thiên”.

Bởi lòng mình không gìn thủy chung như một, lúc đầu sốt sắng sau lại bỏ bê, nên nhưng tội phước chưa
trừ xong ma lỗi sau đa khởi thì đâu có dư ra phước đức để chứng đến địa vị Tiên Phật được. Và nếu mỗi
kiếp đều bị thối chuyển như vậy hết thì biết bao giờ ra khỏi bể mê.

Bởi vậy người tu, việc làm trước nhứt là phải chịu được sự kham khổ và bền bỉ đi tới thì không lâu sẽ
được thành công.

Sách có câu: “Nhơn giảo đắc thái căn tắc bá sự khả tố”: Nghĩa là người ăn được rau củ thì có thể làm được cả trăm việc. Vì nếu người chịu khó cực được thì bất tất việc chi nếu họ muốn thì sẽ làm được ngay. Bởi đó có nhiều người thành công trong những việc làm phi thường mà kẻ khác không thể tưởng tượng được.

Vả lại, việc tu hành không phải khổ sở mãi mà nó chỉ thúc nhặt ở phút chót nhiều hơn, nếu lướt qua được thì sẽ đắc đạo. Bằng trái lại sẽ dễ bị sa ngã.

Hỡi đồng đạo,
Lúc chiến tranh, gia sản dân chúng phần nhiều bị phá hủy, nên thường bị đói kém nghèo khổ, song với
chung ta hiểu đạo, nhứt la được biết đời tạm giả, thì đâu còn lo sợ cái nghèo mà bôn xu theo tà nghiệp,
miễn sao đủ cơm tẻ ngày hai và thậm chí cháo rau qua thời cũng được, để lo tu hành bòn mót công quả cho nhiều là hơn.

Chúng ta hãy tránh đừng để lòng quá so sánh vật chất làm việc tội lỗi, hãy giữ tâm hồn trong sạch, ngày
kia sẽ đang qúi hơn con người giàu sang với làm ô tổn bạo ngược.

Đức Thầy có câu:

“Chữ bần tiện khuyên dân đừng nại,
Miễn cho ta trở lại ngay đàng;
Chữ vinh hoa giờ chớ có mang,
Bởi giả tạm của đời Nguơn Hạ”.

Do đó chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa, cứ đua làm những việc có lợi ích cho tinh thần đạo đức, nảy
nở giống dân hiền hòa để được cùng nâng chén quỳnh tương với các đạo thần tiên trong kỳ chót.

Nếu lòng chúng ta còn ngờ vực lời Thầy, nghĩa là: cho đời chưa kết thúc, mãi lăn xả theo guồng máy vật
chất thì sẽ bị nó cán chết trong đó.

Đời hỡi gắng công một buổi này,
Dẫu rằng trời sụp, đất này xây;
Lòng trong hôm sớm gìn ngay chánh,
Đến phút chung qui sẽ gặp Thầy.


Kết luận, bài giảng hôm nay chỉ khuyên mỗi người cần trau giồi ý niệm chơn chánh va tâm định chơn
chanh để đạt đên một tri huệ rộng rai, hầu có tạo lậpniềm an vui phúc lợi cho đời và chính đó cũng là nhơn lành đưa mình đến mức giải thoát thống khổ.

Lời khuyên đồng đạo ghi lòng,
Từ rày hãy rán sửa trong thân mình.
Làm sao cho được sạch tinh,
Đến ngày chung cuộc mây lành phủ che.
Dẫu rằng gặp lắm chua the,
Với lòng cũng vẫn tin nghe đạo mầu.
Đừng rằng thế cuộc quá lâu,
Mà tâm kia chẳng sửa trau lương thuần.
Buồn lao hết, sẽ gặp mừng,
Chiến tranh qua khỏi đến hưng khải hoàn.
Nay còn nhiều nỗi gian nan,
Nhưng tâm vững chắc chớ toan buông rời.
Đi hoài ắt cũng tới nơi,
Sớm rồi hẳn phải có hồi chiều qua.
Tâm kia giữ chữ hải hà,
Thì sau cũng được đến tòa Năm Mây.
Bây giờ phải chịu nồng cay,
Nam gia nữ phái đừng phai tấc lòng.
Dầu ai thay đổi bưởi bòng,
Tâm mình cũng khá cho xong một bề.
Sợ e đến việc ủ ê,
Bốn phương yêu nghiệt đổ về Nam Bang.
Gây nên một cuộc chiến tràng,
Máu lên ống cẳng lầm than muôn người.
Thây thi chồng chất ngất trời,
Đó là họa gởi cho đời Hạ nguơn.
Sự tu nếu ít phước duơn,
Không mong sống được gặp cơn thái bình.
Lời khuyên nam nữ khá tin,
Để hầu khuya sớm giữ gìn cho xong.
Chừng nào nghe tiếng trời long,
Nhìn ra thì bãi hóa sông hết rồi.
Biết đâu nay lỡ mai bồi,
Nay bồi mai lỡ vô hồi chuyển xây.
Sự tu hẳn phải có gay,
Nhưng mà tiến bước có ngày cũng suông.
Trong cơn khát gặp nước nguồn,
Với lòng kia cũng như tuồng bớt lo.
Sự tu muôn lẽ thơm tho,
Hãy nên nắm chặt đừng cho rã rời.
Chừng nào gặp được Hội Trời,
Thì dân mới khỏi những nơi khổ nàn.
Ngày nay còn phải gian nan,
Bởi Thầy xa tớ chưa an chút nào.
Khác chi thuyền đứt dây làu,
Buồm kia lại trở ghe ào nước vô.
Bây giờ cây nọ muốn khô,
Nước đây một gáo tưới vô thể nào.
Lời khuyên nam nữ cùng nhau,
Nhớ ghi rồi phải sửa trau cho thường.
Đạo là tuyệt diệu mùi hương,
Đời là cặn bã như ương cá sình.
Hãy nên hôm sớm chặt gìn,
Ngàn cay muôn đắng tâm tình chớ lơi.
Mận đào hẳn gặp chuột dơi,
Nhưng cần rào bó khỏi nơi rụng rời.
Ai ơi ! xét lại cuộc đời,
Khác nào bông bí chiều mơi héo tàn.
Tâm kia nếu được chánh đang,
Như là nghèo đặng gặp vàng khỏi lo.
Trong cơn sầu tủi ngao cò,
Nghe lời giảng giải rỗi cho tâm mình.
Đường dài được có thần linh,
Đôi phen ám trợ cho mình khỏi nguy.
Bây giờ hãy giữ đạo nghì,
Xong rồi sẽ được từ bi dắt dìu.
Niết bàn cõi ấy cao siêu,
Lòng kia trong sạch sớm chiều được qua.
Nếu còn bận cảnh tà ma,
Thì nơi Phật Quốc khó qua được nào.
Sự tu thì phải sửa trau,
Bỏ đi việc quấy đeo vào lẽ chơn.
Mắt trần chưa rõ nguồn cơn,
Chớ trên Bảy Núi Thất Sơn sẵn đền.
Chỉ chờ có tiếng sấm rền,
Thì miền Nam Việt có đền nguy nga.
Khỏi còn chịu nỗi thiết tha,
Nước dân được có ông cha hiền từ.
Nay còn vương lũ cẩu trư,
An hào giết hỗn mọi người đắng cay.
Bởi xưa nghiệp chướng còn dầy,
Nên đời nay phải trả vay nặng nề.
Nhưng lòng hãy tỉnh đừng mê,
Thì sau cũng được trở về Bồng Lai.
Xưa kia có Phật khổ gay,
Mà tâm chẳng rúng gặp ngày thảnh thơi.
Bây giờ khắp cả mọi người,
Vững tin luật giới chiều mơi rán cầm.
Ngày kia bước đến rừng lâm,
Để chầu Minh Đế toại tâm ước nguyền.
Đẫ là con cháu Rồng Tiên,
Trước sau phải gỡ xích xiền cho xong.
Kẻ nào có nghĩa có công,
Sẽ là được sống non sông được gần.
Người nào đại đức đại ân,
Về nơi Cực Lạc hưởng phần vinh miên.
Như ai bác ái lành duyên,
Sẽ theo về ở cõi Tiên thanh nhàn.
Đổi đời đất có hóa vàng,
Đá kia hóa ngọc muôn ngàn xinh tươi.
Tuy nay mình thịt xác người,
Ngày kia đổi lại như thời Thần Tiên.
Rán tu hỡi bớ chư duyên,
Đời này đã cân còn phiền việc nao.
Nếu không hơn sớm chùi lau,
Khi Thầy trở lại dòm nhau khó nhìn.
Tâm kia nếu được hiền lành,
Dầu nơi góc bể đầu gành cũng thông.
Sợ e việc ác đầy lòng,
Ngồi bên chân Phật vẫn không sống đời.
Phật là công chánh tuyệt vời,
Chẳng như kẻ thế chịu lời bợ bưng.
Ngoài môi tuy có tôn xưng,
Mà trong không chánh thì thân chẳng còn.
Ai ơi ! Nam vang, Sài Gòn,
Ngày kia đổi lại năm non vui vầy.
Sự tu may được gặp Thầy,
Đó là duyên trước đã dầy lắm ôi.
Bây giờ gắng chí trau giồi,
Có ngày cũng được đứng ngồi ổn yên.
Đời này khó làm Phật Tiên,
Chớ làm cho được người hiền dễ không.
Một khi hiền đức đầy lòng,
Thác rồi cũng được điểm công cao phần.
Cũng như kẻ thác vì dân,
Khí linh đã mạnh chứng Thần lẽ ni.
Người lành tuy chịu khổ nguy,
Nhịn qua rồi cũng được đi nhẹ nhàng.
Ai ôi ! dầu gặp khổ nan,
Lòng kia hãy nhớ Phật đàng chớ buông.
Kéo linh cắt kiện tơ cuồn,
Để tâm bình tịnh trông nguồn ma ha.
Tưởng cho cõi thế thiết tha,
Nơi miền Cực Lạc vào ra tươi cười.
Tâm kia vẹn thiện được mười,
Kíp chầy cũng được Phật Trời độ cho.
Đạo mầu thiệt quá thơm tho,
Tại sao người chẳng gắng lo cho rồi.
Thói đời lắm việc bại tồi,
Người chê kẻ nhạo đeo thời làm chi.,
Nói hiền dân chúng yêu vì
Người theo nói dữ kẻ khi người cười.
Việc thường làm phải tốt tươi,
Nhưng mà ít kẻ giữ thời làm theo.
Mãi đua học tánh hùm beo,
Cứ quào quấu mãi càng đeo tai nan.
Một khi hái trái trên ngàn,
Hẳn là phải khó bước đàng khá nương.
Ví dầu đạm bạc rau tương,
Mà thành chánh quả cũng nương đến cùng,
Hơn là sung sướng một thân,
Ngày kia khổ não muôn ngần ai ham.
Khuyên người gác tánh tục phàm,
Để mà sống được theo đàng Phật Tiên.
Những lời Phật Pháp thâm uyên,
Gắng công trì niệm chớ phiền khổ lao.
Gần đào phải được ăn đào,
Kẻo mà chúng hái khát khao cho mình.
Ở trong đạo Phậtt rán hành,
Để cho đến được chứng thành quả cao.
Đời này còn lắm khổ lao,
Anh em đồng đạo đua nhau tu hành.
Thương Thầy còn phải nhọc nhanh,
Thân mình sung sướng có đành hay sao?
Thương Thầy nay ở phương nào?
Mạnh lành thân ấy ra sao hỡi người?
Nay mình hãy rán giữ lời,
Để mà trau sửa cho đời tốt xinh.
Nếu ta làm những việc lành,
Phương trời Thầy cũng lòng đành dạ ưng.
Bằng ta tạo việc bất nhân,
Hẳn Thầy phải lắm buồn bân tâm lòng.
Biết bao những sự cay nồng,
Người đời đổ hết cho lòng Thầy mang.
Nhưng mà có lắm gian nan,
Mới tin được biết đá vàng thấp cao.
Bây giờ đồng đạo sửa trau,
Lời y lẽ giống ngày sau sống còn.
Khuyên nhau điệu giọng thon von,
Gọi kêu bi đát người còn lảng lơ.
Nghe đây chớ vội ngẩn ngơ,
Hay nên trì chí mà nhờ tấm thân.
Tuy là nắng Sở mưa Tần,
Có ngày Phật cũng xây vần an vui.
Thân kia chớ để tanh hôi,
Lòng trau cho vẹn một nơi sạch lòng.
Kẻo mà tủi với non sông,
Cơn nguy chẳng có chút công đáp tình.
Cận đời ơ hỡi nhân sanh,
Giảng đây đã ngấm thơm lành hãy mua.
Nghiệm rằng trái hẳn không chua,
Nếu người nói chát chẳng mua tại người.
Xưa kia cũng nhớ vì đời,
Đã làm lắm việc ích người lợi thân.
Nay đây vịn Đức Thanh nhân,
Đem câu huyền diệu tỏ phân đến người.
Lời phân mong kẻ nhớ lời,
Giảng cơ đã dứt mọi người lui chơn.

Dứt giảng rồi ai hãy đứng lên,
Ra về ghi chặt dạ đừng quên;
Để lần sau đến nghe đông nữa,
Hàu có trau tâm được vững bền.

30 tháng 9 Quý Tỵ – tức ngày 6 thang11-1953.



  THÁNG MƯỜI:
24- Ngày Rằm tại ngôi Tây An Cổ Tự: Rèn Lòng Từ

Ngày Rằm tại ngôi Tây An Cổ Tự: Rèn Lòng Từ

Bi Hỷ Xả và Diệt Tham Sân Si Ái

Hồ lặng trăng in nét sáng tròn,
Ngọc vàng đem sánh giá còn non;
Liên hương phảng phất mùi thơm ngát.
Phiền não nơi tâm đã hết còn.


Xin chào tất cả đồng đạo nam nữ,
Ví có người rán sức lội qua biển to, nhưng còn đeo thêm nhiều đá nặng, lội chưa tới bờ đã bị đuối chân chìm giữa dòng nước. Đối với người tu hành cũng thế, trong lúc tìm đường giải thoát khỏi bể ái mà lòng còn tham đắm lợi danh, luyến tiếc tài sắc, thêm đeo mang nhiều tật nghiệp xấu xa không chịu cương quyết cỗi bỏ, chỉ thường hay nói mà không hay làm thì phải chết đuối dưới lượn sóng thị dục, không bao giờ giải thoát được. Vả chăng người chỉ biết hứa nguyện suông mà không chịu thực hành thì kể bằng không. Trái lại, cứ mãi chất chứa nghiệp tội, gây tạo trái oan, lúc sống đa khiến cho nhiều người bỉ khinh ngạo báng và thường vương hoạn ách vào thân, sau khi mạng chung hồn linh sẽ đọa lạc vào ngục môn, chịu sự hình phạt chết đi sống lại cả muôn lần trong mỗi ngày, quá ư thống khổ!

Bởi đó cho nên phương tiện tu hành, kẻ thật tâm qui ngưỡng đạo pháp hãy trung thành với lời tin hứa của mình trước ngôi Tam bảo để giữ gìn tâm ý chánh chơn, hạnh phúc đầy đủ, việc làm phù hòa theo lời
Thầy Tổ đã dạy. Lúc nào cũng mở rộng lòng nhơn mà giúp mọi người đương cơ nguy biến, hành xử các việc công bằng liêm sĩ trong buổi loạn ly, nghĩa là hoàn toàn vâng làm mọi điều đạo đức.

Như thế mới gọi là người học Phật, phụng sự và sẽ mong đạt diệu huyền thành công đắc quả.
Nhận thấy rằng ngày tháng qua mau như đá lửa, lôi cuốn sự già bịnh đến lẹ tợ tên bay, nghĩ cũng nên sớm sớm hồi đầu, mau mau tỉnh ngộ, kẻ đã đang đi trên đường đạo lý, hay kiên quyết thực hiện cho kỳ được những điều siêu nhiệm của Phật truyền; hôm sớm thường niệm Di Đà, ngày tháng mai gìn đức hạnh, dù cho tan xương nát thịt lòng dạ cũng vẫn sắt đá một niềm.

Với lòng thuần thành và quả quyết như thế, chắc chắn cái chí nguyện cầu đạo giải thoát hẳn cũng có
ngày thành tựu, nhứt là khi tâm được bình, trí được tịnh, chạm xúc những nghịch cảnh không bị chuyển lay thì tâm kia sẽ lần sáng tỏ, thấy biết không lầm, chẳng còn đắm chìm trong bể khổ sông mê, quay quần bao nhiêu ngày tranh ăn tranh mặc.

Ôi ! đời là khổ, sanh là nợ mà nghiệp tội của mọi người càng lúc thêm nhiều, vì đó mới chịu lấy cảnh
huống thê thảm sầu hận của cuộc đao binh, thù oán giết chóc không ngừng.

Rất mong sao kẻ tỉnh tâm, người hối lỗi đồng kêu hú khắp cả mọi người hãy mở tánh háo sanh, nới lòng từ tế, giờ phút nào cũng tự bình tâm xét nét phận mình, có lầm lỗi sai phạm thì dứt trừ, được hiền nhân chơn chánh thì tân tới, phải biết yêu chuộng mọi việc hào hiệp, đạo nghĩa như ưa món cơm ngon để có hoàn thiện được con nhà Phật tử. Mỗi khi thật hành những điều thiện ấy hẳn phải chịu nhiều cực khổ.

Song có cực khổ mới lập nhiều công hạnh, rồi công hạnh ấy đưa đến thành quả Bồ đề. Và càng chịu nhiều lao lý mới giúp thêm hương vị cao khiết của kẻ tu học đạo mầu của Phật.

Hỡi đồng đạo,
Cuộc biến chuyển của ngày Hạ nguơn rất gần, sự tận diệt trong cơn mạt thế quá gấp, thảm cho kẻ thiếu
duyên lành khó được sanh tồn, không phước hạnh chẳng mong được Phật, nên từ đây mỗi người hãy rèn
đúc chơn tâm, giồi mài thiện ý vì ngày tháng không chờ ta, nếu bỏ qua phút nào thì mất phút nấy. Chừng
khi đối đầu nạn ách, gặp lúc truân chuyên, dẫu có thở than tiếc rẻ cũng không kịp được.

Vả lại ta phải tự hiểu quyết định của Ngọc Đế không đợi mình, nếu mình không mau tay xử phận, cứ tạo
nghiệp lăng loan, đến ngày kia ắt phải theo bựng đât tang thương chìm sâu đáy bể, ngan muôn kiêp chịu lăn lộn tử sanh.

Nhớ xưa Đức Phật Ngài đã cho biết chừng đến tận đời, trước đó bảy ngày, nhơn loại gặp nhau như người thợ săn gặp con thịt và cây đá đều hóa ra gươm trượng tàn sát lẫn người khiến cho thây chết đầy đồng, máu tuôn lợp đất.

Cảnh huống tân diệt ấy, ai có đọc trong giảng cơ hoặc xem cổ sấm đều phải thổn thức não nồng cho sự điêu linh của nhơn loại ngày kia, mà tự mình hết sức tin tưởng phụng hành việc phước đức và không hề nghĩ ơn trên dối gạt, nên lòng vui đổi dữ ra lành, cải tà qui chánh, nhứt là tâm luôn tưởng niệm Di Đà, chuốt điều Phật Pháp, có thể dám đem thân mình đổi lấy việc làm bác ái để cầu hồng phước cứu độ cha mẹ tổ tiên.

Huống lại kiếp sống con người không chi qui hơn tâm hồn chơn chánh, ý chí thuần lương nó sẽ làm cho
nước nhà an ninh, dân tâm yêu mến và gia đình mãi được đầm ấm vui tươi. Nếu như bản chất của mọi
người đồng nhứt trên lẽ ấy mãi, mới thiệt là chân hạnh phúc và cũng đáng kéo cho kiếp sống thêm dài.

Tự xét như trên ta thấy cần trị được tâm mình, lóng được tánh mình, không để cho ngoại cảnh ám ảnh làm chuyện tham ác, vì những điều ấy không hợp lý và các Phật xưa kia cũng không hề nhìn nhận.

Hơn nữa, ngày gần đây Phật Vương ra đời chọn những đấng trung lương phò tá, lập lại cảnh trời Nghiêu, đất Thuấn (gia vô bế hộ, lộ bất thập di) thì đối với kẻ bội cha phản chúa, đảo ngược luân thường, nhuốc nhơ tông tổ, nhứt là chỉ biết gây lấy sự đau thương tai khổ cho dân tộc quê hương hẳn không được bảo đảm tồn tại. Trái lại, khi các bậc tiền nhân liệt thần trở lại, với kẻ ấy đâu khỏi rơi đầu dưới ba thước gươm linh, mà còn để tiếng nhơ muôn thuở.

Có thế mới đem lại cho nước nhà một nền tảng hòa bình hạnh phúc đầy đủ, và giữ gìn trọn vẹn phong hóa thuần mỹ cổ truyền. Thêm nữa đủ sức đưa nguồn an lạc cho toàn dân lưu xuất lâu dài được.

Thưa đồng đạo,
Mỗi người hãy tự biết việc làm của mình vẫn có Thần Thánh xem xét, Thầy Tổ hiểu biết mà hết sức phòng giữ cẩn thận, đừng để sai phạm đến. Phật xưa có câu: “Nhứt thiết nhơn dân sở cư xá trạch, giai hưu quỉ thần, vô hữu không giả”: Nơi nhà cửa tất cả nhơn dân đều có quỉ thần, không cái nào sót. Nếu việc làm của người tồi tàn xấu xí, các Ngài liền ghi vào sổ trình tấu thượng thiên, Đức Ngọc Đế sẽ chiếu theo đó mà giảm thọ, xuống tai hoặc đau ốm hoặc lửa binh và vô số điều trừng phạt gớm ghiếc. Ngài không bao giờ để người này húng hiếp kẻ kia một cách vô cớ và thái ác.

Việc của Đức Ngọc Đế trừ khử những kẻ hung tàn chẳng khác chi người làm rẫy lúc nào cũng trừ diệt sâu bọ, thì mới gặt hái được nhiều trong khi có bông trái.

Có thể mới có sự thương phạt công minh và đáng thay mặt cho cả thảy nhơn gian để cầm quyền chưởng
quản, khiến cho vạn vật trên mặt địa cầu được biết tôn thuần công lý chung.

Xét đó đủ biết những phường vô loại hành tung càng thêm đậm chừng nào càng khiến cho chuỗi ác càng
mau đầy chừng nấy, để chờ lúc nghiệp đến như lá héo trên cành chỉ một luồng gió oan đưa qua cũng đủ rơi rụng.

Vả lại thống khổ là thống khổ, huyền cơ là huyền cơ, sen mọc dưới bùn không hôi hám, ngọc sa vào bụi
chẳng phai màu, hôm nay gặp phải trường hợp khúc chiết phần đông do kẻ bạo ngược gây ra, có những
anh em tín đồ ngờ vực máy thiên cơ trì trục, Đức Thầy không trở về. Thì hãy tin rằng may thiên cơ chẳng lầm, Đức Thầy sẽ trở lại với hình thê cũ đặng dìu dẫn chư đồng đạo nam nữ trung thành chơn chánh đưa đến Hội Long Hoa để hoàn thành sứ mạng của Phật tổ và Đức Ngọc Đế giao phó. Sau đó Đức Thầy mới trở lại ngôi xưa vị cũ hưởng quả bồ đề an lạc nơi cõi bất sanh.

Còn hiện nay số phận anh em tín đồ như thuyền nọ giữa dòng thì Đức Thầy đâu nỡ bỏ họ trong cảnh ngơ
ngác lưng chừng như nhạn lạc bầy, gà lìa mẹ.

Nhưng con thuyền đạo gặp phải lúc éo le giông bão mới đánh giá được lòng người. Với sự vắng mặt của
Đức Thầy nghĩ ra cũng là một trường hợp thử thách mắc mỏ, trong số mười người lọc ra chỉ còn được một hai kẻ chánh. Còn số đông đều bị tiền bạc cám dỗ, quyền thế mua chuộc, tài sắc đẩy xô khiến cho mờ ám tâm thần, mềm nhũn ý chí, quên hết căn xưa cội cũ của giống nòi và đạo lý. Số người này chắc chắn phải đắc tội với Tổ tiên và Đức Thầy, mà khó mong tái ngộ.

Vậy hỡi ai còn chút tưởng tin nhân quả, rõ lý huyền vi phải sớm hôm cầu nguyện ơn trên và thường trọng tôn giới luật, đối cha mẹ gìn tròn hiếu hạnh, cùng vợ con giữ vẹn nghĩa ân, ở bạn tác đầy lòng thành tín, nhứt là gặp khi nước nhà nguy biến phải lấy dạ trung trực báo đền, làm cho giang sơn chủng tộc khỏi bị xiềng xích thống khổ.

Và trong lúc ta được no ấm mà kẻ khác đói lạnh hãy mở lòng trắc ẩn chia sớt cho những món ăn thức mặc và thuốc men khiến cho người bớt nỗi ngặt nghèo hoạn khổ, và thường đem lời hòa nhã khuyên kẻ cọc cằn, lây lẽ đạo mầu dạy người ngu muội, nhứt là hay nhắc cho anh em đồng đạo của mình ngày đêm tưởng như Thầy đứng gần bên cạnh mà hết lòng tuân phụng giáo điều. Có vậy mới giúp cho nhau thoát khỏi sông mê, lánh rồi nghiệp chướng, đồng thời cũng phương tiện gây sự phước lợi, quang diệu cho nước cho dân.

Hỡi chư đồng đạo,
Với kẻ tu hành ngoài việc cứu mình còn phải cứu người và tổ tiên cha mẹ, cho nên ngoài thân thì gây lấy mọi thiện duyên, trong tâm vẫn phải luôn luôn niệm Phật, vì phép niệm Phật là đệ nhất của thời mạt pháp, có mãnh lực cứu khổ chúng sanh mười phần không sót một.

Vả lại, sanh thời mạt pháp chịu nhiều đau khổ của nạn giặc giả đói kém lạc loài mà lòng biết thiết tha
nhưng điều chơn chánh và niệm Phật, thì chẳng khác buồm kia gặp gió, giúp cho mau đến bờ giác ngạn và Hội Long Hoa để chầu Phật Thánh.

Song muốn được kết quả trọn vẹn trong sự tu thì mỗi người phải thật hành những điều kế đây cho được liên lạc chặt chẽ, tức nhiên cái kỳ vọng ấy sẽ được bảo đảm.

Những điều ấy như:
1. Hãy tập mở lòng lành rộng lớn để đem cả món thiết dụng của mình ra giúp đỡ cho mọi người cùng
sống no ấm an vui.
2. Hãy tập mở lòng thương sâu dày để phổ lợi cho cả thảy nhơn sanh bằng những đạo lý trí huệ
được biết thức tâm hồi hướng Phật đài, đoạn trừ tập nghiệp xấu xa, hầu thoát khỏi nẻo trầm luân khổ
hải.
3. Hãy tập mở lòng vui tươi không ngừng, vẫn gặp nghịch cảnh đưa lại không não phiền khờn mẻ,
cứ một đường sáng suốt đi tới để mở rộng phước điền, xây nền đức hạnh trên khắp quần sanh.
4. Hãy tập mở lòng rứt bỏ mạnh mẽ, các thân tâm không bị vướng mắc một mảy vô minh phiền
não, chẳng để cho cảnh trai tai gay mắt nào khiêu gợi được mình, nhứt là lòng luôn tha thứ cho người
lỗi phạm để cứu họ khỏi oan nghiệt hậu lai và cũng tránh cho ta mọi cuộc bất giác tội lỗi.

Có thế, tâm hồn ta minh bạch, ý niệm ta chơn chánh, cội đức của ta ngày một thêm nở lớn tốt tươi thì lo gì ngôi đẳng giác không tới được.
Song muốn làm được bốn điều ấy, chúng ta trước phải trừ được bốn tanh sau này:

1. Phải trừ diệt sạch cả tánh tham của mình quá đỗi ích kỷ xấu xa.
2. Phải trừ diệt hết tánh sân của mình quá đỗi cá nhân hèn mọn.
3. Phải trừ diệt sạch cả tánh mê của mình hay tin càn làm bướng, đảo ngược chơn lý có hại cho đức
cơ trí huệ.
4. Phải trừ diệt sạch cả lòng ái dục của mình quá đỗi hẹp hòi dơ bẩn, vì nó ám ảnh thúc giục thân,
khẩu, ý tạo gây các nghiệp tội, nhân mê.


Phật xưa cho rằng ái dục là cội gốc của sanh tử luân hồi, hễ trừ được nó tức là giải thoát.

Đại phàm khi người thật hành và trừ diệt được mấy khoản trên thì hoat nhiên hình ảnh huyền vi hiện ra cho mình tự thấy rõ ràng như đứng trước tấm gương trong sáng.

Tuy nhiên, trong lúc triển khai công hạnh phải nhẫn nại được các sự khổ của tâm và cảnh thử thách xui
biểu mới nên đạo quả được.
- Một là đối với bên ngoài của mọi cảnh giàu sang, quyền thế, đẹp đẽ, cao trọng, v.v... có khiêu khích,
quyến dụ cách mấy cũng vẫn coi thường và kiên chí để lướt qua.
- Hai là đối với bên trong thân mình như: Mắt, tay, mũi, lưỡi, thân và ý có sự thèm thuồng đòi hỏi bất
chanh nhứt định không nghe theo, trở lại dùng tinh thần làm chủ xác thân theo đúng tín nguyện đạo đức
bác ai, nhứt là trọn giữ chánh niệm.

Hễ được như thế, tự nhiên sự thấy không lầm, nghĩ không quấy, nói không ngoa, làm không phạm, sống
không tà, bước không trât, niệm không ác và tánh trụ không bị hoặc loạn vẫn sừng sựng như núi cao, trong trẻo như khối tuyết, rỗng trống như hư không và sáng sủa như ánh nhật nguyệt, không còn bị hoặc, tư, kiến điên đảo. Chừng đó lo gì không được Liên Hoa hóa thân, vãng sanh Cực Lạc để kiến diện Đức Di Đà và được tự tại vô ngại, cứu độ Phụ Mẫu quyến thuộc bảy đời và thân hành cúng dường chư Phật mười phương thêm nhiều công đức.

Hỡi đồng đạo,
Khó nghe được lời lành, ít gặp được phương tiện giúp ta phát triển mầm đạo đức. Cho nên mỗi người đi
nghe giảng phải thiết tha ghi chạm vào tâm khảm, để sau khi về thật hành hơn xưa, giúp cho mình mau
thành chánh quả mới không uổng công đi nghe. Và có vậy mới đáp được công sanh thành dưỡng dục của mẹ cha và sự đỡ nâng của mọi người, mà đó cũng sẽ thật hiện được nguyện vọng cao quí của tiền nhân và của mình.

Sở dĩ tôi phải gào thét, phải khuyên răn đồng đạo chỉ vì sự thống khổ của nhơn loại càng lúc càng tăng. Thế mà còn biết bao người cứ sống say chêt ngủ, đăm lợi, mê danh, không chán kiếp phù sanh nhược mộng, chẳng sợ nỗi sanh tử trầm luân, mãi hãm tâm trong nghiệp ác, đến ngày kia không tránh khỏi âm hình trừng phạt, cũng như luật vay trả hiện hữu quá ư thậm trọng.

Lời kêu gọi của tôi lấy tận đáy lòng, chỉ mong ở người nghe đến những điều của mình đã lầm lỗi, hãy
tự biết hổ thẹn để chừa bỏ thì mới tiến theo kịp hàng thiện nhơn tri thức.

Luân chuyển cơ mầu đã bấy nay,
Trông nhìn thiên hạ giấc còn say;
Lấy câu đạo pháp ngàn xưa Phật,
Để khuyến cho nhau tỉnh tháng ngày.


Lẽ mầu nhiệm của cơ nhân quả không sót lọt một ai, sự thưởng phạt của Ngọc Tây Kinh hẳn không tư vị, thế nên anh em đồng đạo chớ quá ỷ lại nơi Đức Thầy cứu cho mình mà buông lung tâm chí, hãy lặng tâm để cho trí huệ được mở, thường chương đức cho quả phẩm được cao và tập cho lời nói được hòa nhã chánh chơn để gieo lấy thiện cảm với mọi người.

Bởi vì thế giới sắp tan hoang,
Đổi lại nhơn sanh cuộc sống nhàn;
Nên có Phật Tiên đem lý diệu,
Hãy nên thức tỉnh bớ nhơn gian !


Cái sống của thời này vừa để trả quả cho thời trước, vừa gây nhân cho thời sau, cho nên người muốn cho
kiếp sau của mình thế nào, thì bây giờ bày biện như thế ấy. Nhưng nhơn loại ngày nay có một đặc điểm qui nhứt sống giữa ranh giới của Thượng và Hạ nguơn, nếu người có chút quyết tâm rửa bỏ mọi tập quán của hạ nguơn thì sẽ được các bậc siêu nhiên đưa tay dìu dắt qua cõi Thượng nguơn thọ hưởng lắm việc mầu nhiệm phi thường, không còn thấy diễn ra sự sống chênh lệch, cấu xé như ngày nay mà không lấy đâu làm đủ. Cơ hội này nếu lòng người còn nghi nan đạo đức, mê loạn tâm thần ấy là triệu chứng tận diệt.

Vậy đồng đạo mỗi người hãy tỉnh thức đi, cương quyết đi, để trễ một ngày là mất một ngày qúi báu của
ta. Phật, Thánh, Tiên đang chờ đợi kẻ có lòng trì niệm Di Đà, trau giồi nhơn đức để rước về an dưỡng cõi Cực Lạc.

Ngày nay lao lý trả chưa xong,
Để đến chừng kia thoa dạ mong.
Khuya sớm ai ơi nên niệm Phật,
Được nhờ Trên trước cứu con Hồng.


Nếu lòng người mãi tư tưởng xấu xa lo tính bạo ác thì trí huệ không bao giờ mở mang, quả phẩm bồ đề
khó mong chứng đắc. Nên chi từ đây nam phụ lão ấu hãy cùng chung sức tạo tác phước hạnh, kết chặt
nhân lành, hãy tự mình khiến trừ nhưng khi lỗi lầm hoặc xúc động trong tiềm thức.

Người ở cõi này đang sống trong cảnh ác trược mà vẫn làm được điều lành là qui nhứt. Ai trông vào cũng sanh lòng kính yêu, Trời, Phật, Thánh, Thần cũng ra tay ủng hộ, hầu giúp cho người ấy chóng đến kết quả mãn công viên, nhứt là khiên không bị ma lực làm cho thối chuyển.

Tóm tắt mục giảng hôm nay cốt yếu khuyên người rèn lòng từ bi hỷ xả, diệt tánh tham, sân, si, ái và
kiên nhẫn mọi sự khổ lao để tiến đến chỗ sáng sủa của đạo chánh.

Trong lúc mình đã từng gieo nhiều việc lành, tạo lắm điều chánh mà gặp những cảnh ngộ bất thường đưa lại chớ thối chi, hãy tưởng đó là nghiệp xưa chưa trả, quả trước còn mang nên ngày nay mới gặp nạn ách, nhưng nhờ có chút tu hành mà ơn trên đã giảm khinh rất nhiều, bằng không chắc phải nặng nề hơn nữa.

Đời ơi ! thức tỉnh bớ đời ơi !
Réo kêu đã lăm sao người còn mê.
Phật Tiên trông thấy ủ ê,
Thánh thần xét chúng tràn trề tội căn.
Khó mong dựa được cửa đằng,
Dễ nào dự hội đào bàn Bồng Lai.
Sự tu gắng giữ hôm mai,
E còn chưa được nắm ngay Niết Bàn.
Huống hồ tâm chẳng sửa sang,
Mong gì được sống trên đàng Thượng nguơn.
Làm sao cho sạch sẽ thân,
Giữ sao cho được chánh chơn mới là.
Cõi trần đầy dẫy tinh ma,
Hơ rồi khó dắt khó ra được nào.
Ai ôi ! bớt nói ồn ào,
Đến đây nghe giảng chớ nào phải tranh.
Lời khuyên nên mới lặng thinh,
Chớ đâu phải mắng mà mình cãi rang.
Đi đây đem tấc lòng vàng,
Để mà rước lấy một nang hương lòng.
Thương đời đây quá não nồng,
Ba mươi, Rằm cứ tùy lòng giảng cơ.
Mặc tình người có thờ ơ,
Với đây cứ mãi như tơ buộc vào.
Quyết lòng đưa đến thanh cao,
Để cho sống sót ngày sau được nhờ.
Nỗi thương trong lúc tối mờ,
Thầy xa tơ phải u ơ đoạn trường.
Nỗi buồn lắm kẻ nửa đường,
Vội vong việc đạo theo phường dối tu.
Ngày kia phải chịu âu sầu,
Đa mang nạn ách khắp đâu đổ về.
Hồng trần là cõi đê mê,
Hãy nên xa lánh tầm về Bồng Lai.
Ơ đây gianh giựt tối ngày,
Chết rồi cũng phủi hai tay chớ gì.
Đâu bằng niệm chữ A Di,
Thác về Cực Lạc còn chi sánh bằng.
Đài vàng các ngọc xuê xang,
Liên Hoa thân nọ nhẹ nhàng vĩnh miên.
Đã là con cháu Rồng Tiên,
Làm sao cho được khỏi phiền tổ tông.
Phải nên ôm chặt nơi lòng,
Những điều chơn chánh mãi không để rời.
Ngày nay mây khổ lợp trời,
Đạn sầu bay giáp con người tân toan.
Bước ra chỉ một tấc đàng,
Dễ đưa vào cái ổ hang thú hùm.
Biết bao tan khó buộc đùm,
Trông đời ủy mị hai hùng hay chưa?
Chớ rằng trời đất lưới thưa,
Lưới thưa không lọt ghét ưa mặc tình.
Vẫn đưa đôi mắt để nhìn,
Nhìn người tìm được kẻ lành bao nhiêu.
Khác nào ruộng đất đìu hiu,
Nhìn qua ngó lại chín chiều bâng khuâng.
Ngỡ là ngày hội chen chân,
Không dè đến đó dửng dưng thiếu người.
Ngó nhau muốn nhích miệng cười,
Với lòng còn ngại cho người hồ nghi.
Bởi xem cơ tạo ly kỳ,
Tới đời như giấc mộng thì ai hay.
Ngày nay đối với ngày mai,
Dễ ai được biết đổi thay thế nào.
Thương ôi ! dân chúng ồn ào,
Thể người đương ở trên tàu lá khô.
Thảm thương khuyên nhớ Nam mô,
Xót đau gào thét muốn khô cổ mình.
Nhưng không mấy kẻ hiền lành,
Bởi đời xô dập cho mình ác gian.
Đạo đồng ơi ! hãy sửa sang !
Thầy về có mặt đáng trang tín đồ.
No nao khăp chúng “lặng hồ”,
Để tìm của báu mấy bồ dành lâu.
Đừng cho mình mám lấy câu,
Hãy nên vùng vẫy kẻo lâu đuối người.
Tâm kia chơ để bời rời,
Hãy nên ghim gắn cho đời giá cao.
Phật Trời thương chúng dường bao,
Với ta đối lại phải sao cho vừa?
Hãy nên rứt bỏ tánh lừa,
Lấy lòng chơn thật mà đưa đến người.
Thương ôi ! trong bể trần đời,
Nhơn sanh như thể con người cuồng say.
Gọi kêu mười được một hai,
Còn bao nhiêu chẳng mấy ai làm lành.
Nhắn nhe người ở sầu thành,
Rán mà vượt khỏi rinh nhành quê hương.
Năm non ngày đến phi phương,
Dành cho những kẻ hiền lương sau này.
Hỡi trong tất cả gái trai,
Làm sao khỏi phải cổ nay xa đầu.
Chết xưa thì gẫm còn lâu,
Chết nay thấy lại trước sau lẹ làng.
Quả mùi thì trái xa tàng,
Nghiệt oan khi đến vào đàng Diêm Vương.
Nỗi niềm đây quá yêu đương,
Thiết tha điệu vọng ghét thương mặc đời.
Mong ai hãy lặng lẽ lời,
Chú tai nghe kỹ mọi nơi chỉ bày.
Từ đây chuyên một đường ngay,
Dẫu rằng phải thác lòng đây chẳng sờn.
Mau lên găng chặt keo sơn,
Đưa tay Đức Phật ban ơn cho đời.
Thuyền từ Đại si ra khơi,
Đương tìm vớt kẻ không lơi Di Đà.
Khuyên ai trong cõi Nê Hà,
Hãy nên chổi dây mới là tồn sanh.
Thân phàm quá đỗi hôi tanh,
Khác nào cầu xí cạnh tranh làm gì?
Ngoài ra nhiều cõi tú kỳ,
Chuyện vui khó kể sống thì vĩnh miên,
Nhà Tiên rồi lại cơm Tiên,
Áo quần thảy của cơ huyền giúp cho.
Đủ thần thông, có thơm tho,
Khắp ai cũng kính không lo khổ nan.
Đời nay như giấc mộng tan,
Cạnh tranh chi nữa thế gian buổi này.
Đạo đồng ơi ! nhớ Đức Thầy,
Vì ta mà đến thuở này còn xa.
Thân kia lắm nỗi chan hòa,
Mỗi khi nghe đến người nhà loạn tâm.
Nhủ khuyên nhau hãy trầm ngâm,
Để suy xét kỹ kẻo lâm khổ sầu.
Đường về Cực Lạc không lâu,
Tại mình trẫn trựa có đâu đến gần.
Đường dài thì phải bền chân,
Mới rằng nắm được quả thăng diệu mầu.
Xưa nay các Phật đâu đâu,
Vô biên vô lượng nương câu cánh thành.
Lúc nào cũng giữ lòng thanh,
Chẳng say tục lụy thường tranh nẻo huyền.
Cho nên mới được làm Tiên,
Hoặc nên ngôi Phật hưởng duyên lâu đời.
Nay đây khuyên nhủ khắp người,
Cõi đời mạt hạ hãy rời việc hung.
Ngày kia khắp chốn nổ tung,
Trung ương Nam Việt mới sung điện đài.
Bây giờ chỉ thấy đá cây,
Nên người lòng mãi đổi thay chưa gìn.
Làm cho mình được trọn lành,
Vẹn xong giới luật mới thành người tu.
Kìa xem những bóng trăng thu,
Cả ai cũng mến, người tu cũng là.
Lặng đi thấy Phật Di Đà,
Bình đi mới rõ tâm mà sáng trưng.
Chừng nào giá ngọc tay bưng,
Ân Rồng được thấy mới mừng đời yên.
Nay còn lắm cuộc đảo điên,
Tan nhà nát cửa ưu phiền khắp nơi.
Lạnh lùng trong cảnh trầm vơi,
Một khi biến đổi đôi nơi chan hòa.
Người tu muốn gặp Long Hoa,
Thì nên gìn chặt lòng ta lương hiền.
Lập đời rặc giống Thánh Tiên,
Không hề chứa kẻ đảo điên hung tà.
Hãy nên đem của tiền ra,
Giúp cho người đói mới là phước ân.
Hãy nên cương quyết một lần,
Chừa đi việc quấy mới gần thánh tiên.
Hãy nên sám giảng đọc liền,
Để tìm hiểu lý mà chuyên cho ranh.
Thệ rằng một kiếp tu hành,
Lên ngôi chanh quả mới đành dạ ta.
Nhớ đừng sai gục lẽ tà,
Đeo mang nghiệp chướng khổ mà xiết chi !
Từ nay rèn chí mau đi,
Cơ hồ việc thế biến di không chừng.
Bốn phương giặc cứ dồn gần,
Giữa mình chắc cũng tán thần một khi.
Đợi chờ gặp việc lạ kỳ,
Mới tu gẫm có nên gì bớ ai.
Giúp người trong lúc túng khoai,
Mới rằng lòng thiệt thương thay đến người.
Đợi khi kẻ ấy đủ rồi,
Đem tiền của đến cho người đâu ơn.
Trước khi chưa đổi Thất Sơn,
Hãy toan liệu sớm khỏi cơn máu đào.
Đợi chờ bốn phía đổ ào,
Dẫu tu chẳng kịp hãy mau ghi lòng.
Đạo đồng ơi hỡi đạo đồng !
Nghe rồi nên phải chạm trong não mình.
Làm sao cho được sạch tinh,
Làm sao khỏi vướng âm binh sau này.
Ngày kia ma quái dẫy đầy,
Rủ ren rán tránh, theo Thầy mà thôi.
Sầu đa lắm, khổ vô hồi,
Dân sanh ơi hỡi ! một đời gắng tu.
Làm sao cho vẹn đạo mầu,
Để ngày kia mới vào chầu bệ đơn.
Thương ôi ! nhiều kẻ trễ chơn,
Lại còn mê ngủ khó cơn sống nào.,
Đến đây nhớ lấy từ câu
Cớ gì nói chuyện ồn ào không thôi.
Lời khuyên từng giọt mồ hôi,
Ráo khô nước miếng người ơi nhớ giùm.
Ngày kia e lọt miệng hùm,
Chớ đừng nay mãi um xùm liền môi.
Sự tu gốc thiện ran bồi,
Đường lành cố đắp để hồi cảnh xưa.
Chớ rằng thời cuộc dây dưa,
Mà lòng mình cứ đẩy đưa có chừng.
Ngày nay nhiều kẻ vong thần,
Sớm chiều chẳng chút chuyên cần khói hương.
Công kia nhỏ tợ đợt sương,
Mà mong hái quả lớn bường núi to.
Hẳn là trời chẳng hề cho,
Nên mau xả thi mới no sau này.
Ai ơi ! còn nhớ Đức Thầy,
Thương đời khác thể mẹ ray thương con.
Đến nay mười mấy năm tròn,
Mà thân kia hãy vẫn còn xa phương.
Cũng chưa trở lại quê hương,
Cũng chưa thăm viếng Tổ đường buổi nao.
Với thân nắng đổ, mưa dào,
Gió sương vùi dập xiết bao khổ nàn.
Bởi Thầy gánh nghiệp thế gian,
Đỡ cho nhơn loại trong đàng mê ly.
Nay ta rán vẹn đạo nghì,
Để đền ơn trọng xiết chi của Thầy.
Đạo đồng ơi ! nhớ từ đây,
Nam mô sáu chữ như say chẳng rời.
Nhủ khuyên lời cũng cạn lời,
Đến đây đã dứt người người lui chơn.
Nam nữ đứng lên chực để về,
Giữa lòng trong sạch bớt cơn mê,
Con đường diệu vợi tâm đừng nản,
Có thuở chơn mình đáo Hội Huê.

15 tháng 10 Quý Tỵ – tức ngày 21 tháng11-1953.

  THÁNG MƯỜI MỘT:
25- Ngày mùng 1 tại Tây An Cổ Tự: Bốn Trọng Giới

Ngày mùng 1 tại Tây An Cổ Tự: Bốn Trọng Giới

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Một tòa sen trắng lóng lánh gương,
Trượng sau Phật thân ngắm lạ thường.
Tướng tốt băm hai không giống tục,
Hào quang chói khắp lẫn mùi hương.

Xin chào tất cả đồng đạo nam nữ,
Chỉ độ ba bốn kỳ giảng nữa là hết năm Quý Tỵ để bước qua năm Giáp Ngọ. Trên sự đạo đức đáng lẽ mỗi năm mỗi tiến và có thể nói phải tiến ở mỗi ngày trong những việc làm phước thiện hơn những điều tội lỗi của mình đã tạo vừa qua gấp bội. Như vậy mới khiến nghiệp trước càng mòn phước sau thêm lớn, hầu lần lượt tiến đến chỗ hoàn thiện đạo đức mà chứng quả Bồ đề hay giải thoát.

Nhưng hiện thấy phần đông nhơn tâm xu hướng theo hiện tượng vật chất, chỉ tưởng đó là mạnh mẽ
tuyệt đối, sung sướng vĩnh viễn, rồi cứ đua nhau quay quần tranh cạnh làm cho thần trí lu mờ, đạo hạnh kém sút, gần như không còn chi đượm đà mùi vị thơm tho nữa.

Như thế những kẻ có tâm hồn yêu dân mến nước, nhứt la có chí lợi tha trông vào cảnh ấy đâu cho khỏi thầm trách dân tâm tồi bại, đạo lý suy vi, cương thường sụp đổ, phong hóa hư hèn cũng như nước nhà lâm trong cảnh tối tăm mờ ám.

Tôi là một trong số người ấy, có những lời khuyến khích nhắc nhở mọi người với định ý làm cho ai nấy
thiệt hiện chánh đạo. Vì đó là một con đường sáng sủa phẳng bằng, khoan dung chơn chánh mà các vì Tiên Phật xưa kia đều đi trên lẽ đó để tiên đên địa vị cao qui. Hôm nay chúng ta phải noi theo đường ấy để theo kịp bước của tiền nhân, hầu khiến mình khỏi hổ thẹn và cứu vớt được dòng dõi tổ tông mà cũng có thể làm lợi ích cho toàn cả nhơn sanh chủng loại. Có được như thế kiếp sống của ta mới không vô ích mà vẫn được mọi người yêu đương kính trọng, vùa giúp ủng hộ cho ta vững mạnh để gieo rắc hột giống đạo nghĩa khắp nơi.

Vì rằng nếu nhơn loại càng lúc càng xâu xé nhau, mỗi ngày mỗi mưu mô giết hại giữa người này với
người khác, để cướp lấy cái lợi về mình một cách vị tư ích kỷ, nếu không nhiều người đứng ra gieo rải hột giống từ hòa đạo đức thì làm sao cải tạo được xã hội trở nên bác ái công bằng, để mọi người cùng biết tương trợ lẫn nhau. Như thế thì kiếp sống của con người chỉ là một đày đọa nặng nề chơ đâu lấy gì làm vui thú.

Vả chăng từ trước đến giờ, thường thấy những người đạo đức hằng được dân chúng yêu mến kính vì,
gia đình đầm ấm, ít bị kiện tụng, rầy ra chửi mắng. Trái lại chỉ thấy những hạng vô liêm sỉ, không đạo hạnh, chẳng trung hiếu thường bị dân chúng sa thải, chòm xóm khinh chê, gặp tai biến không được người cứu trợ và có điều thường diễn ra nhiều hơn hết là trong gia đình xào xáo, cảnh sống đen tối ngột ngạt. Thế là cái đạo đức có ảnh hưởng thơm tho tốt đẹp cho danh tiết và sanh cư của người, dù cho ai dốt nát cách mấy cũng nhận thấy được chỗ đó mà tự mình trau giồi lấy thân cho được chơn chánh, đức hạnh trong sạch và tâm trí sáng sủa.

Cứ theo luât phản ứng thì việc làm chơn chánh sẽ trả lại cho thân thể khinh an, tư tưởng trong sạch sẽ trả
lại cho trí hóa sáng suốt, lời lẽ ngay thật sẽ trả lại cho biện tài vô đối. Và một khi thân, miệng và ý của người được chơn chánh sạch trong, ngay thật thì được kết quả, ngoài sức lực cường tráng đoan nghiêm sẽ còn được chói hiện nơi thân những khí sắc tốt tươi sáng sủa, khiến mọi người trông thấy đều sanh lòng kính yêu cảm mộ. Bởi vì các nghiệp của thân, khẩu, ý bị mọi thị dục sai khiến theo các tội lỗi, mới khiến chúng sanh lăn xả trong sau đường, ba nẻo dưới sự bắt nạt khủng bố của tư thần, của bịnh tât, của gia yêu, của tai khổ, của cuộc sanh tử hợp ly, làm cho quanh mình bao phủ nghiệt oan, ngăn trở con người không tiến lên chỗ cao diệu được. Do đó mà lòng tôi không còn mong ước chi hơn là mỗi người đến nghe giảng phải tự xét lỗi mình để chừa bỏ, hầu trở nên người đạo đức đúng đắn, nghĩa là: Phải trầm mặc nhân kỹ nơi tâm nếu còn chỗ sai lầm thì cải sưa mà không để tái phạm, nhưng điều phước đức chưa thi thố được nhiều thì hãy gắng làm cho được viên mãn.

Cần nhăm vào qui giới để tu dưỡng tánh hạnh, nung luyện đạo đức đúng theo mẫu mực của Thầy Tổ, nếu ngày nay không được, ngày đến cũng phải được, bằng ngày đến không được, tháng đến cũng nắm được kết quả, miễn lòng mình cần cù nhẫn nại, bền bỉ dẻo dai thì sớm muộn gì cũng thực hiện được ý của mình muốn.

Thưa đồng đạo,
Bữa nay tôi xin giảng “Bốn Điều Trọng Giới” mà Đức Phật xưa thường răn dạy các hàng môn nhơn đệ
tử.

I- Noi theo lòng nhân ái mà mỗi người rán tránh nghiệp sát sanh, hoặc mình sát, hay dạy người sat và
không vui theo kẻ khác sát, để làm cho ác báo của chúng sanh lần lượt tiêu mòn và dứt mất, trở lại lòng
thân yêu hòa mục. Phật xưa có nói: Những người trừ được nghiệp sát sanh thì được mười pháp ly não:

1. Rộng thi pháp vô uy cho cả chúng sanh.
2. Thường ở nơi chúng sanh mà khởi tâm đại từ.
3. Vĩnh đoạn tất cả tập khí sân hận.
4. Thân thể thường không ác bịnh.
5. Thọ mạng được lâu dài.
6. Thường được Thiên Long, Bát Bộ ủng hộ.
7. Trừ sạch hết những oán kết, các oán tự tiêu.
8. Khi ngủ được an vui không bị ác mộng.
9. Không bị các đường ác: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh khủng bố.
10. Mạng chung được sanh lên cõi Trời.


Nếu đem những công đức này hồi hướng về ngôi vô thượng chánh đẳng chánh giác, thì sau khi thành Phật được tùy ý thọ mạng tự tại.

II. Noi theo đời sống chơn chánh mà mỗi người rán tránh nghiệp đạo tặc, hãy tự làm lấy nuôi thân, cung
cấp gia quyến và giúp người ngoài. Thấy của người hãy nghi sự làm mồ hôi nước mắt, tâm tư trí lực của
họ đã đổ ra, mới tạo được của ấy rất cực nhọc thì ta không nên viện lý do nào chanh đáng để lấy của họ về săm sanh ăn mặc. Và cũng không xúi người khác lấy hay vui khi thấy họ bị mất của. Vì chiếu theo luật nhân quả, nay ta lấy của người, mai mốt người lấy lại của ta, nếu ta không trả ở kiếp này thì kiếp tới ta cũng phải trả. Đó chẳng khác nào ta cầm trái banh liệng vào tường tự nhiên nó phải dội lại.

Phật xưa có nói: Những người trừ được nghiệp đạo tặc sẽ được 10 pháp bảo tín:
1. Tiền của dư giả không bị nạn nước lưa hoặc con
cái phá tán.
2. Thường được nhiều người thương tưởng.
3. Không bị người khi phụ.
4. Được mười phương khen lành.
5. Chẳng hề lo tổn hại.
6. Danh lành được truyền khắp mọi nơi.
7. Chung sống trong sanh chúng mà không chút sợ hãi.
8. Tài, mạng, sắc, lực an vui và được có biện tài đầy đủ.
9. Thường ôm chặt lòng bố thí.
10. Khi mạng chung sanh lên cõi trời.


Nếu đem công đức này hồi hướng về ngôi vô thượng chánh đẳng chánh giác thì sau khi thành Phật
được thanh tịnh đại Bồ Đề trí.

III. Noi theo lòng trinh chanh mà mỗi người hãy rán tránh nghiệp tà dâm. Bởi nó là mối đầu của các tội ác và điều dơ bẩn xấu xa nhứt của loài người. Có điều quan hệ đến bề trợ đạo của người, chính nó thường làm cho Thiên Thần ghét bỏ không ra tay ủng hộ.

Nếu người tôn trọng cương thường luân lý, giới luật tinh nghiêm thì không hề phạm giới tà dâm, hoa
nguyệt. Mà hễ tránh xa được điều ấy thì được thần khâm qui phục, dân chúng trọng tôn, mà những việc
làm nào cũng được người chung quanh đôn đốc ủng hộ. Vì xet ra trong việc tu hành thường đối đầu với
điều khó nhứt la săc đẹp, nêu thăng phục được nó thì việc khác trừ bỏ dễ dàng. Phật xưa có nói: Những
người trừ được nghiệp tà dâm thì được 4 công đức:

1. Mắt, tay, mũi, miệng, thân, ý được điều hòa thuận thiện.
2. Lìa xa tất cả những nơi phiền nhiễu ồn ào.
3. Thường được nhiều người tôn sùng ca tụng.
4. Vợ con không bị kẻ khác xâm phạm quyến rũ.


Nếu đem những công đức này hồi hướng về ngôi vô thượng chánh đẳng chánh giác thì sau khi thành Phật được âm tướng ẩn tàng của Phật.

IV. Noi theo lòng chân thật mà mỗi người rán tránh nghiệp vọng ngữ, bởi nó là mối đầu của sự hiểu lầm
chia rẽ gây lấy hậu hoạn cho giữa mọi người. Nếu người biết thủ tín, nói năng chơn chất, lời lẽ bặt thiệp, đáp họa đoan chánh, không thêu thùa đâm thọc thì ít bị người giem siểm, ghét hờn. Và hậu nghiệp không bị tật bịnh câm ngọng đớt đát, tướng lưỡi thô kịch hoặc đau đớn.

Phật xưa có nói: Những người trừ được nghiệp vọng ngữ thì được 8 công đức:
1. Trong miệng thường được thơm tho sạch sẽ như hoa sen.
2. Được mọi người kính phục.
3. Lời nói chứng nghiệm được các hàng nhơn, thiên kính ai.
4. Thường lấy lời diệu mềm hòa ái an chủng chúng sanh,
5. Ba nghiệp thân, khẩu, ý được nhiều thanh tịnh.
6. Tâm thường an vui, lời lẽ không lầm lẫn.
7. Thường nói lời cao trọng được mọi người và Chư Thiên phụng hành.
8. Khi mạng chung sanh lên cõi trời.


Nếu đem những công đức này hồi hướng về ngôi vô thượng chánh đẳng chánh giác thì sau khi thành Phật được chứng bậc chơn thật ngữ của Như Lai.

Vả chăng, việc tu hành đạo đức trước tiên phải trừ hết nghiệp: sát sanh, đạo tặc, tà dâm, vọng ngữ rồi
mới thi hành những việc lợi tha. Vì rằng, nếu không trừ xong các nghiệp ấy thì chưa độ được mình đâu có thể độ ai và cũng không lấy đâu để phân biệt được người có tu va không tu, nhứt la chẳng định gia được sự hơn kém của người trong sạch với kẻ nhơ bẩn.

Hỡi anh em đồng đạo nam nữ,
Hãy mạnh tin ở nghiệp thiện bao giờ cũng hái được quả lành mà gia tâm tu hành tinh tấn. xét ra các ngôi
Phật, Thánh không xa chúng sanh, lúc nào cũng ở xung quanh mọi người để tùy phương ủng hộ giáo
hóa, song anh Từ Quang để dành cho những kẻ nhiệt tâm niệm tưởng, thành ý thiết tha mong cầu mới được cac Ngai đưa tay kim cang tiêp dẫn. Trai lại, nhưng người cũng biết Trời Phật nhưng mà chỉ biết suông, chỉ niệm Trời Phật mà niệm lấy có, nhứt la niệm lấy con số nhiều thì không bao giờ được lợi ích viên mãn trong sự phù trì cứu độ của Tiên Phật. Vì rằng những người ấy buộc phải niệm Phật để lợi dụng huyền linh của cac Ngai ủng hộ cho họ khỏi tai nạn, được giàu sang theo ý muốn. Như vậy chỉ là kẻ mưu mô giả dối lừa gạt, chơ nào phải thật tâm tưởng niệm Thần Thánh, thì bao giờ có hiệu quả.

Lại nữa, có kẻ đã lầm lỗi đến trước bàn Cửu Huyền và Tam Bảo niệm kinh khấn tội, thệ nguyện từ đây cải hối ăn năn, làm lành lánh dữ không tái phạm nữa, nhưng sau khi đó họ quên đi rồi vẫn phạm lại những điều tội lỗi như thường. Rồi đến bữa khác cũng thế, họ tiến đến trước Bàn Phật, Cửu Huyền cũng đọc bài quy y cầu nguyện đầy những lời ăn năn, sám hối mà cũng vẫn tiếp tục làm lỗi mãi không chịu bỏ.

Đây có lẽ vì Tiên Phật không hình không tướng họ không tìm thấy được nên lòng mới khinh thường, lờn
la va tương rằng cac Ngai không có sức trừng trị như luật pháp của thế gian, lại càng dễ ngươi hơn nữa.
Nhưng điều này này trong giới tu hành kém đức tin phần đông đều có phạm đến cả.

Vậy từ đây mỗi người hãy tự nhớ câu: “Nhơn tâm sanh nhất niệm. Thiên địa tất giai tri”, để giữ đúng lời
nguyện hứa của mình, đừng lảng quên sai chạy mà thành ra tội nói láo với Trời Phật thánh thần sẽ có lỗi
lớn. Và cũng khó mong thoát cuộc trầm luân, siêu sanh cõi Phật được.

Tóm lại mục giảng hôm nay, tôi có định ý khuyên nhủ đồng đạo tránh bỏ nghiệp sát sanh vô cớ, ngăn
lòng đạo tặc quá ích kỷ, nhàm chán thói dâm loạn xấu xa, đoạn trừ nghiệp vọng ngữ xảo trá, nếu mỗi người thiệt hành trọn vẹn những điều ấy, bước tương lai sẽ được kiến diện Đức Phật không khó.

Đã nghi tuồng đời quá éo le,
Xót thương gọi kẻ hãy cần nghe.
Với câu đạo lý mầu thêm chánh,
Tự tin trong tâm được chói lòe.
Từ đây tu tỉnh hay cần,
Bởi đời càng lúc càng gần chẳng xa.,
Tu hành việc quấy chừa ra.
Điều chơn nên kiếm để mà làm xong
Hãy mau lóng sạch nơi lòng,,
Chớ nên đeo đăm khỏi hồng nữa chi !
Dẫu rằng nghèo túng khốn nguy,
Cũng gìn cho vẹn đạo nghì sạch trong.
Của người dẫu chất đầy đồng,
Lòng đừng sanh căp mới mong chứng thành.
Lời khuyên tuổi trẻ đầu xanh,
Chớ nên phóng ý đắm danh lợi tình.
Hạ nguơn đầy dẫy yêu tinh,
Sa vào ắt phải lụy mình chẳng không.
Lời khuyên mở bác ái lòng,
Hãy nên tập tánh khoan dung cho người.
Ơ đời đâu vẹn hết mười,
Trước tha người được, sao rồi người tha.
Tỉnh hồn mới gặp Thích Ca,
Chanh chơn sau được thấy tòa thiên thai.
Cuộc đời biến chuyển không hay,
Chứ đừng vội tưởng ngày nay yên nhàn.
Lòng dân như ngọn đèn tàn,
Thói đời khac thể tro giàn gió đưa.
Phảng bay không sớm thì trưa,
Rã rời khắp mặt thớt thưa đạo người.
Chạnh buồn những kẻ biếng lười,
Nói mà chẳng chịu giữ rồi thân tâm.
No nao thẳng đến rừng lâm,
Để xem cho biết huyền thâm rất mầu.
Ngày nay trên dưới gắng cầu,
Sau này mới được vào chầu Phật Tiên.
Xưa kia đã có lanh duyên,
Khiến nay sớm được cửa thiền chen chân.
Nếu không trì vẹn đức ân,
Sau rồi phải chịu đọa thân muôn đời.
Giảng cơ người đã hiểu rồi,
Lẽ nào không biết cuộc đời Hạ nguơn.
Dẫu rằng giàu tột muôn dân,
Gặp khi biến cải cũng thân trơ người.
Bền chi đeo đắm ở đời,
Miễn lòng được biết tỉnh hồi qui cao.
Sự tu cần phải chùi lau,
Vẹn gìn cho kỹ ngày sau mới còn.
Bổn tâm phải được sắc son,
Dầu cho lao lý chẳng mòn không phai.
Cuộc đời càng lắm chuyển lay,
Lòng người càng phải miệt mài thêm hơn.
Khuyên nhau đạo lý chơ sờn,
Gọi người trong mộng mau cơn tỉnh hồn.
Tuy rằng rộng khắp kiền khôn,
Đổi thay phút chốc gia môn mịt mờ.
Chừng ni không cửa mà rờ,
Biết đâu để chạy đến bờ giác linh.
Khuyên ai hãy rán tự tin,
Tin rồi tâm quyết vẹn gìn chánh chơn.
Làm sao nhứt khiếu sáng trưng,
Tâm hồn chói tỏ mới mừng thành công.
Nếu còn lầm lẫn si ngông,
Thì là đạo sự chưa xong việc nào.
Bốn phương khói lửa ồ ào,
Giữa mình cũng phải giành gau chờ khi.
Nhược bằng để phú cho nguy,
Thương thân kia ăt xiết chi tai nan.
Phật cho niệm Phật hơn vàng,
Người cho vàng lại hơn trang kệ mầu.
Nên lòng người chẳng cần âu,
Để sa sụp mãi trong câu lụa là.
Lời kêu đồng đạo trẻ già,
Từ đây hãy niệm Di Đà chớ rơi.
Phật xưa nói đến tận đời,
Chỉ còn niệm Phật tuyệt vời hơn trên.
Nếu người một mực giữ bền,
Mạng chung ắt được rước lên Sen vàng.
Cuộc đời càng thấy chưa an,
Lòng người lại phải sửa sang cho thường.
Nghèo thì đạm bạc rau tương,
Để bòn hai chữ hiền lương cho nhiều.
Giàu sang muốn được hồn siêu,
Hãy đem của ấy độ điều lân hương.
Ngày kia mới đến tòa chương,
Được xem thấy Phật khỏi đường chông gai.
Những người có đức có tài,
Đem lời chơn chanh chỉ bay kẻ ngu.
Gặp ai hung bạo chưa tu,
Tùy phương dẫn dắt những câu hiền lành.
Một khi người được tu hành,
Thời mình công đức đã sanh rất nhiều.
Phật xưa chủ việc độ điều,
Thí tiền thí pháp hoặc liều thí thân.
Miễn sao rộng bủa việc nhân,
Làm điều đạo đức cho dân hưởng nhờ.
Giúp người lòng chẳng lảng lơ,
Phước kia trả lại không ngờ với ai !
Phật Trời bủa khăp Đông Tây,
Nơi đâu cũng sẵn chực tay cứu người.
Chỉ phiền cho khăp kẻ đời,
Say mê vật dục quên lời Phật Tiên.
Tưởng nồng mặn của trần duyên,
Là điều sung sướng hơn tiên lắm rồi !
Đâu de danh lợi ấy mồi,
Để câu kẻ dại sau rồi giết đi.
Bể trần nhiều việc khổ nguy,.
Ai người tỉnh xét còn chi mến trần
Làm sao cho lợi muôn dân,
Làm sao cứu được quyến thân của mình.
Làm sao thoát nạn yêu tinh,
Để gần được Phật đáng mình chơn tu.
Làm sao khỏi ngút mây mù,
Để tâm hôm sớm ngao du khăp cùng.
Nhứt la người phải trọn trung,
Để đền ơn nước mới không hổ mày.
Với nên tưởng Phật công dày,
Để tu đền đáp ơn Ngài một phen.
Khi lâm trong cảnh tối đen,
Nhờ thầy được có ngọn đèn lưu ly.
Mỗi người nhắm đó mà đi,
Mới hòng trọn vẹn đạo nghì hôm mai.
Cũng là đáng kẻ theo Thầy,
Biết lo đáp nghĩa ơn Ngài dường non.
Người tu ai cũng muốn còn,
Mà lòng kia chẳng sắc son một bề.
Hôm mai phu sám trễ bê,
Mong gì Tiên Phật dựa kề bớ ai !
Người tu trau sưa mỗi ngày,
Mà còn e chẳng Liên đài được lên.
Huống chi tâm nọ không bền,
Việc làm khi nhớ khi quên chẳng thường.
Thì đâu thấy cảnh Tây Phương,
Chỉ mang theo cái oan ương phần nhiều.
Nói tu chẳng giữ qui điều,
Bao giờ nghiệp chướng được tiêu bớ người.
Thấy rằng dân chúng khắp nơi,
Ham bài ca hát hơn lời sám kinh.
Lại thêm chè rượu linh đình,
Mỗi khi đám tiệc sát sanh dẫy đầy.
Luât răn đâu dạy làm vầy?
Không chừa sao hối việc đây muộn rồi.
Sự tu thì cốt tỉnh hồi,
Chơ đâu nhắm việc ngon mồi hỏi ai?
Dấu rằng đạm bạc bắp khoai,
Miễn lam chơn chanh vang lai Non Bồng.
Hơn mồi béo bở thơm nồng,
Sanh tâm quỉ quai hêt mong được tồn.
Lúc đầu sao lại bôn chôn,
Nay đành ngó lảng xác hồn khó trông.
Mỗi khi giảng, người đến đông,
Nhưng xem lại kẻ thật lòng ít oi.
Sau khi về những việc tồi,
It ai chịu bỏ cho rồi sạch tâm.
Cũng tin Phật Pháp huyền thâm,
Nhưng còn ngờ việc u âm chưa gần.
Bởi người không thấy Thánh thần,
Tưởng như làm quấy riêng thân mình tường.
Nào de khăp chốn cùng phương,
Phật hay Trời biết lưới trương công bình.
Ai người ăn ở hiền lành,
Kiết thần ủng hộ đăc thành tốt tươi.
Những người giả dối lộng đời,
Ac thần khuấy nhiễu lắm hồi truân chuyên.
Dẫu người giàu lắm bạc tiền,
Ôm hoài khó mở xích xiềng tội căn.
Khuyên người tu phải cần năng,
Đừng cho quên việc Phật Tăng bớ người !
Việc tu hành chỗ tốt tươi,
Xưa nay ai cũng lắm lời ngợi khen.
Người tu như kẻ cầm đèn,
Đi trong khoảng tối nha nhen không lầm.
Không tu như rắn ôm nằm,
Sự nguy hiểm ấy đã sâm bên mình.
Con đường Phật Pháp rộng thinh,
Phải suy nghĩ kỹ mới tinh mới tường.
Cuộc đời lao nạn phi thường,
Để chờ biến cuộc tang thương một ngày.
Moi mong trên dưới gái trai,
Đường tu hãy giữ chớ sai phút nào.
Ngay kia mơi được qui cao,
Khỏi xa địa ngục không vào thiết lung.
Một sự hiếu, hai sự trung,
Lòng kia nên giữ cho xong với lòng.
Dẫu rằng gặp cảnh long đong,
Nghĩ do quả trước chưa xong mới vầy.
Nên tâm kiên quyết theo Thầy,
Đợi chờ hội hiệp trong ngày hoàn ca.
Đạo đồng sau phút về nhà,
Nhớ lời khuyên ky để mà trau tâm.
Tiếng đờn di hưởng Lôi Âm,
Đem ra phổ biến khắp trần tỉnh tu.
Lòng được tỉnh, dường trăng thu,
Sắc kia xanh biếc, khác đâu non tòng.
Dạ như núi, tâm như đồng,
Dầu ai lay chuyển cũng không nghiêng nhào.
Trước một sắc, nay một màu,
Dẫu cho rìu búa đưa vào chẳng phai.
Tâm như một, trí không hai,
Bườn đi tơi chốn dễ lay chuyển nào.
Thương dân chúng mến đồng bào,
Đem câu huyền bí cùng trau mai chiều.
Muốn kẻ phước, mong người siêu,
Đường tu đây mới lắm điều nhắn nhe.
Tới biển rộng, lanh hang khe,
Mở câu huyền bí nhắc nhe mỗi người.
Còn thấy khóc, chưa được cười,
Nên lời giảng giải đôi nơi chẳng cùng.
It người thiện, nhiều kẻ hung,
Cho nên khuyên nhủ với lòng chưa nguôi.
Lăm kẻ bạc, nhiều người vôi,
Nên đành phải chịu lắm hồi đảo điên.
Trên đường khổ hải buồn duyên,
Mấy ai chịu kiếm Thần tiên dắt dìu.
Chỉ lo ích kỷ phần nhiều,
Hoặc bày xoi móc thêm điều rẽ chia.
Tình đời càng lúc càng lìa,
Ruột rà cốt nhục đâu kìa cò Rồng Tiên.
Đây chẳng xo, cũng không xiên,
Quá thương nên gọi, bởi duyên mới bày.
Đường tuy thẳm, chí cũng dài,
Đôi đang so lấy đâu nài khốn ngụy
Có lao lý, niệm A Di,
Trừ qua cân lại nạn chi không còn.
Tuy mưa xối, tâm không mòn,
Ngày sau ăt được sống còn viễn miên.
Sống trong tục được gặp Tiên,
Ăt mình có thuơ xich xiềng khỏi thân.
Hỡi này chúng, kìa bớ dân,
Từ đây khuyên hãy tự thân giữ gìn.
Dẫu rằng lụy hại đến mình,
Với lòng cũng vẫn khăn tình Phật Tiên.
Đây vì thương đó mới khuyên,
Chớ đâu dối gạt mà phiền chẳng trau.
Lời khuyên tâm não khổ lao,
Người nghe cũng phải chê vào ít phân.
Nỡ nào đứng dậy quầy trân,
Ngơ tai ngac mặt không cần nhớ nghe.
Thấy cuộc thế mong tợ the,
Đên đây khuyên nhủ không nghe tại người.
Chỉ vì có dạ yêu đời,
Quyết đem thân xác cho người đỡ chơn.
Thuyền từ buồm cánh bơn tơn,
Hẳn lo làm một huệ duơn cùng đời.
Chưa thuận nước, thuyền không dời,
Khi dời dân chúng huốt đời khó trông.
Nay còn yên, chẳng tỉnh lòng,
Đợi khi rối loạn chợt mong khó gần.
Muốn gặp chúa, phải yêu dân,
Dân là của chúa hãy cần đỡ nâng.
Muốn gần Phật, phải thi ân,
Thi ân sanh chúng là phần Phật ngôn.
Lời khuyên khắp cả hương thôn,
Từ đây xin hãy tâm hồn sửa trau.
Nghi mà buồn tủi cho nhau,
Vắng thầy ai cũng rạt rào trong tâm.
Lắm khi khó đứng khôn nằm,
Lệ dòng ngăn lại khóc thầm ai hay.
Ước chi không cuộc nàn tai,
Thì đâu có chuyện Đông Tây đôi đàng.
Ước chi yên vưng con thoàn,
Thì nào đâu có lỡ làng sự tu.
Nghĩ mà náo nức đêm thu,
Vọng cầu trên trước trút bầu phúc linh.
Khiến cho trên dưới đồng tình,
Một câu đạo đức trau mình sớm hôm.
Rach chia ao, đói chia cơm,
Làm gì đến đỗi họa đơm bên mình.
Khôn chỉ bảo,dại nghe lành,
Làm gì đến đỗi tan tanh rẽ chia.
Thương nhau phân biện mọi bề,
Nghe không tự ý chẳng hề tiếc chi.
Sự đời càng mãi khốn nguy,
Thì điều đạo đức càng đi phô bày.
Lòng chưa tỉnh, dạ còn say,
Lấy cô huyền diệu hôm mai tỏ lòng.
Ai ôi ! gìn phận cho xong,
Từ đây sự thế hẳn không được bình.
Chừng nào nghe tiếng tam thinh,
Có đài châu báu mới ninh mới hòa.
Bây giờ khắp cả muôn nhà,
Sống trong giấc mộng dễ mà tự lo.
Chỉ e gặp lúc gay go.
Thuyền kia không lai khó cho trở mình.
Như khuyên ai hãy sửa tình,
Cho rồi mới được công thành danh nêu.
Đây không dệt cũng không thêu,
Những lời chân thật là điều Phật Tiên.
Muốn sao kết chặt một giềng,
Để ngừa khỏi cuộc đảo điên sau này.
Đồng đạo ơi ! nghĩ Đức Thầy !
Rồi mình dẫu lắm đắng cay chẳng rời.
Mình có khổ cũng yên nơi,
Còn Thầy kia phải chơn trời xa xăm !
Thân không vững chẳng yên tâm,
Mãi lòng lo liệu âm thầm cho dân.
Xuống dương thế cốt ban ân,
Ân kia chưa mãn mà thân xa mù.
Trước đem đạo khuyến người tu,
Sau đền việc nước rửa thù tổ tiên.
Ân ấy trọn mới lành duyên,
Rồi sau nhà Phật cửa Tiên được về.
Nhưng sầu nhiều cuộc ủ ê,
Lòng người còn mãi say mê cảnh đời.
Chỉ ích kỷ quên Phật Trời,
Lo bề vật dục bỏ lời Thầy xưa.
Từ đây khuyên hãy rán chừa,
Những điều dối trá sớm trưa chứ gần.
Làm sao năm cửa của thân,
Mở ra được một chào mừng Phật Tiên.
Nếu còn đeo đăm nợ duyên,
Chẳng làm sao khỏi xích xiềng trói thân.
Phật bác ái, Thánh yêu dân,
Người luôn noi lấy mà cân trong lòng.
Lời khuyên người phải gìn xong,
Khi xong mới được Non Bồng tới nơi.
Thoan lắc lẻo giữa biển khơi,
Sao Không chèn nhét muốn xoi cho chìm.
Ưc chi nữa, mãi thù hềm,
Hãy nên suy nghiệm cổ kim thì tường.
Xưa mạt Trụ lúc đời Thương,
Biết bao rối loạn nhiễu nhương thế trần.
Trên bất chánh, dưới loạn thần,
Để gây khổ ach muôn dân não nề.
Nay đang mê chóa tục quê,
Đợi sau lâm lụy muốn về có thay.
Từ đây khuyên giữ lòng ngay,
Kềm cho khỏi phạm những bài câm răn.
Tu mà khuya sớm cần năng,
Mới đoan có thuơ phi đằng cõi không.
Đôi lời khuyên nhủ đạo đồng,
Hãy nên ghi chạm mới không hổ mình.
Tu thời lánh giữ làm lành,
Đó lời Thầy dạy phận mình phải trau.
Lời khuyên tóm lược trước sau,
Một câu chơn chanh người mau sưa mình.
Đến đây đã dứt lời lành,
Đạo đồng lớn nhỏ chí thành lui chơn.
Giảng đã xong rồi hỡi nữ nam,
Ra về đạo nghĩa hãy gìn kham,
Nhớ Thầy, lo đạo đừng sai chạy,
Mới được trông coi kẻ thoát phàm.

Ngày 1 tháng 11 Quý Tỵ – tức 6-12-1953.
26- Ngày rằm tại ngôi Tây An Cổ Tự (Tám điều quan niệm -Cõi Thiên Đường và Cực Lạc”)

Ngày rằm tại ngôi Tây An Cổ Tự (Tám điều quan niệm -Cõi Thiên Đường và Cực Lạc”)

Xin chào tất cả đồng đạo,

Đức lão tử có nói lời rằng:
“Mảnh gương sáng bụi không lau,
Tâm lòng trong, có ai đem việc tà”.


Cứ như thế, đối với người đã rèn luyện đức tin cứng cỏi, tâm trí trong sạch lúc nào cũng quyết định thật
hành đúng sở nguyện thì dẫu gặp hoàn cảnh trái ngược, tình đời thử thách cũng không làm cho tâm hồn
bị lay chuyển thối khuất được.

Xưa nay đã có biết bao người được liễu sanh thoát tử, quả đắc công thành, chói chang mảnh gương siêu
phàm nhập thánh, có thể nói toàn là nhờ ở lòng dõng mãnh tinh tấn, trước sau cũng một chí nguyện cao
khiết mà hành đạo mới nên. Tâm tánh vững như thành đồng vách sắt, xô không ngã, lay không động, đối với mọi thị dục ở đời xem lại như nước miếng, còn việc đạo đức từ bi lòng vẫn khao khát như đường sữa, cho nên không giờ phút nào để ngơt lòng trau trỉa công đức.

Xét theo đây, chúng ta hãy tự gìn giữ bổn phận theo đúng một nhà có đạo đức và phải chuyên tâm trì ý làm các việc chơn chánh từ thiện. Việc làm này chúng ta hãy nối liền như sợi xích và tưởng như ơn trên chư Phật Thần đã hiểu thấu mà gia hộ cho mình chóng mau thành tựu công đức viên mãn.

Vả lại, mỗi việc làm của ta đều tưởng ơn trên hiểu thấu, thì không hề dám để cho mình lỗi lầm dối mị. Vì nó là một nhân nghiệp đau khổ của ngày kia.

Thưa đồng đạo,
Theo tôi chỉ khuyên mỗi người: Muốn cho đến diệu quả thì phải cần có tín nguyện sâu thiết. Dù muốn kiến diện Phật Vương, gặp gỡ Đức Thầy hoặc đến Hội Long Hoa mà thiếu tín nguyện, thì ắt mười phần không thể gặp được một.

Tín là lòng tin chắc chắn, nguyện là ý muốn thiết tha, như tin ở hướng Tây có thế Giới Cực Lạc mà lòng
nguyện vãng sanh về đó hầu thoát vòng sinh tử, rảnh kiếp trầm luân. Sau đó phương tiện tu chứng đến mức viên dung phước huệ, rồi ứng thân trong các loài để cứu độ cho chúng đồng được giải thoát.

Đã có nhiều người vì không thiết đến chữ tín mới sanh lòng bội phản lời cầu nguyện quy y và các giáo
điều Thầy Tổ mà chẳng vui bồi bổ công đức, tu dưỡng trí huệ, vì không có sở nguyện mới vui say ngũ dục, lục trần, chẳng mang kiếp sống phù du, giống chùm gởi, tưởng cho mọi việc công danh phú qúi, tình ái, lợi quyền của đời được bền bỉ chắc chắn mà nhắm mắt theo đuổi cạnh tranh, gây ra tội lỗi. Thậm chí có nhiều người còn mặt hóc mình gầy, đầu bạc da nhăn, sự chết không còn bao lâu nữa mà cũng chưa chịu quay đầu thức tỉnh cầu đạo huyền thâm cao diệu để tu hành cho được giải thoát. Nghĩ ra cũng lấy làm thương hại.

Thưa đồng đạo,
Thời kỳ này, các vị Tiên Phật lâm phàm về phương diện cứu độ khác hơn thời kỳ trước, vì chúng sanh căn khí hẹp hòi, nghiệp dày huệ ít, nên các Ngài phải tùy nghi giảng giáo những pháp môn trung đạo cho vừa với trình độ của chúng sanh, hầu khiến cho họ dễ nhận thức và thực hành. Ngoài ra các Ngài còn có sứ mạng hộ trì, tiếp dẫn số người lương thiện chơn chánh, đức hạnh trung trinh, nhứt la những người có lòng vị tha bác ái được đưa về thinh pháp nơi Hội Long Hoa, hoặc tồn tại đến ngày Thượng nguơn. Đến đó chúng sanh được an vui không còn đau khổ và tuyệt nhiên không việc thù hằn giết hại lẫn nhau, gây mối thảm kịch trong xã hội.

Các vị ấy, Đức Ngọc đế sắp đặt xong, hiện giờ nơi nào cũng có, để chờ đợi thời cơ thuận tiện trổ mặt giúp đời. Nhưng trong lúc chờ đợi, các vị không hề xưng hô danh hiệu cho ai biết phải với mỹ ý muốn tránh sự nghi ngờ hoặc ỷ lại của hạng kém cơ duyên.

Như vậy buổi Hạ nguơn này là thời kỳ chót, sự dạy dỗ của chư vị Phật Tiên rất dễ nghe, dễ hiểu có thể
làm được, nếu người có chút suy nghĩ kỹ lưỡng, thì lòng rất vui mừng mà làm theo không mảy nào nghi
ngờ sợ sệt. Và tưởng cho sự tu cũng như người muốn có lúa vào bồ thì phải lựa giống, mở đất mà cày sạ, rồi thường ngày bón phân nhổ cỏ, đến mùa màng bông trái sum mậu, gặt hái đem về chứa đầy kho lẫm, thì năm tới khỏi lo thiếu hụt đói khát.

Đối với đạo đức lòng mình cũng chăm nom săn sóc thường bữa như thế thì sớm muộn gì đạo quả cũng
kiên thành. Trái lạy người học đạo mà chẳng kiên chí làm theo lẽ chơn chánh thì chẳng khác nào người
trọng bịnh mà không chịu uống thuốc.

Vả chăng sự tu, ngoài việc tự cứu lấy mình còn có bổn phận lo cứu người khác như: Tổ tiên cha mẹ,
dòng dõi quyến thuộc và cả quần sanh. Nhược bằng đạo hạnh của ta bị thối chuyển sa đọa thì không làm
cho tổ tiên cha mẹ ta được siêu thăng, đó là ta đã làm việc bất hiếu.

Bởi vây cho nên giờ phút nào ta cũng cố gắng giồi mài trí huệ, rèn luyện công phu, tô điểm đức hạnh và
thi thiết mọi việc lành cho kẻ khác nhờ nhõi mà lòng không chán ngán. Đồng thời những công đức ấy đem hồi hướng cho tổ tiên cha mẹ được nương đó mà vãng sanh Cực Lạc, thoát nghiệp mê si. Như thế là ta làm xong chữ hiếu một cách viên mãn.

Hỡi đồng đạo,
Đức Thầy chúng ta đã vững mạng Đức Ngọc Đế và Như Lai xuống trần mở đạo cứu dân, trong sự vắng
mặt của Ngài cũng do thiên định. Chừng khi vận hạn đã qua, chắc chắn Đức Thầy trở lại dìu dắt chúng ta đến bờ bến giải thoát, như thế mới làm xong bổn phận của ơn trên đã giao phó kỳ chót. Nghĩ thế, chúng ta không nên mơ hồ dãi đãi sự tu, hay mạnh mẽ tiến tới mức trọn lành để gặp Đức Thầy trong ngày trở gót.

Chúng ta không nên lầm tưởng rằng việc của ta làm kín đáo Đức Thầy không biết, mà không nể sợ để chừa bỏ, Đức Thầy đã quán thông vạn vật, tiên đoán thời cơ, Ngài có thể hiểu hết ý niệm của mọi người thì có điều nào chúng ta làm mà Ngài không thấu đáo.

Đức Thầy cỏ cho ta biết chỗ Đức Thầy đã hiểu rằng:
“Cặp mắt Thánh dòm xem tứ hải
Thương hồng trần mượn xác tái sanh”,

Và cổ nhân có câu:
“Nhân gian tư ngữ, thiên văn như lôi.
Ám thất khuy tâm, thần mục như điễn”.

Có nghĩa: Lời nói riêng của nhơn gian, trời nghe như sấm nổ. Lòng tính quây trong nhà kín, mắt thần xem như điện chớp.

Cứ như thế, việc làm của chúng ta, ngoài sự thấu đáo của Đức Thầy còn có chỗ khám xét của Thần
Thánh nữa, nên ta phải hết lòng cung kính, nể sợ không dám để sơ suất quây phạm một điều nào của
Ngài đã dạy bảo.

Thêm nữa, muốn chống lại lằng sóng vật dục hiện kim, cũng như đủ sức đến mức thành đạo, chúng ta
hãy âm thầm đào luyện thân mình được nhẹ nhàng, tâm trí sáng suốt, lời lẽ dịu ngọt, không để lầm lẫn mảy may, hầu có làm gương cho nhau, dìu dẫn nhau được hăng hái trên bước tu hành cho đến ngày tái ngộ Chơn sư, bái yết Kim thượng và dự Hội Long Hoa.

Thưa đồng đạo,
Hôm nay tôi xin giảng về “Tám điều quan niệm để tăng gia đức tin và so sánh chỗ thắng liệt của cõi
thiên đường và Cực Lạc”
cho chúng ta cương quyết chọn lấy một nẻo mà đi tới.

Tám điều quan niệm ấy là:
1. Quan niệm(*) Đức Phật : thân tướng đoan nghiêm, công đức viên mãn, trí huệ quảng đại, lòng
từ bi bác ái rộng sâu to lớn trùm khắp các loài, sự cứu vớt chúng sanh vô lượng vô biên không lường
tinh được. Phật Ngài lúc nào cũng để mắt tìm kiếm con lành, đưa tay kim cang rước về cõi tịnh, cho
nên trong lòng ta đặt hết đức tin vào sự cứu độ của Ngài không một khắc lảng quên.

2. Quán niệm(**) Giáo pháp của Phật: nghĩa lý uyên thâm, ngôn từ mầu nhiệm, trên thì độ được các bực thượng trí. dưới thì cứu được những hạng hạ ngu, pháp ấy ví như thuyền bè, đèn đuốc, thuốc hay, suốt khắp cổ kim có vô lượng chúng sanh nhờ nương nơi đó mà được khỏi bến mê tân, lánh rồi hắc ám, khỏi bịnh mê si chứng đến Viên giác Bồ đề, cho nên ta phải mượn đó mà tiến lên đạo phẩm cao siêu.

Chú Thích :

(*) Quan Niệm: Quan là khả năng nhận biết qua ngữ quan hay qua ý tưởng vả sự học hỏi. Niệm là ghi nhớ. Quan Niệm: Sự thấy biết đã ghi nhơ vả nhận biết phát sinh tử 6 thức do 6 căn tiếp xức 6 trần. Quán Niệm: Quán là tập quán là thới quen.
(**) Quán Niệm là sự thấy biết đã ghi nhơ do sự lập đi lập lại (tụng) và huần tập vào tầm thực, sẽ mang theo qua đời kiếp sau. Phật dạy: “Sau khi chết ngữ quan khóng còn hiện hảnh chỉ thấy biết hành đồng theo giác quán mà tái sanh hoặc vãng sanh (xem Kinh Quán Vô Lương Thọ)” Đức Thầy day: “... Chỉ có tới phược hơi còn, Đến nơi thẩm phán cửa son Diềm Đài”. Thế nền 8 điều quán niệm này giúp ta ngộ nhập Phát lý không xa lìa Tầm mà hành Đạo, giúp ta thầm nhập vào tầm thực chuyển vồ minh thành giác ngồ, chuyển Thưc thành Trí và giúp ta luồn tinh tấn trước và sau khi chết cho đến thành tưu giải thoát. Nhất là giúp ta khóng còn ham muốn dục lạc thế gian, cho dủ dục lạc ở cối Trời, mả “Nhựt tầm tín nguyện phụng hành”, cầu sanh Phật Quốc, vãng sanh Cực Lạc (Hết phần CHÚ THÍCH).


3. Quan niệm các vị Thánh Tăng trước kia cũng chúng sanh, nhờ nương giáo pháp của Phật và nhiệt tâm hành đạo, dõng mãnh tấn tu, không nhiễm hồng trần, lánh xa vật dục mà được chứng đến bực đẳng giác, thoát cuộc trầm luân, cho nên ta hết lòng soi lấy mảnh gương thoát tục của các Ngài và thờ các Ngài là bực hướng đạo của ta, để ta nương theo tu hành cho đến ngày thành công đắc quả. Đức Thầy của chúng ta là một trong số các vị ấy.

4. Quan niệm Luật giới: Thấy rằng Luật giới là mực thước của tất cả đạo giáo. Và nhân Giới mà sanh Định, nhân Định mới phát Huệ. Các vị tu hành phải nương theo đó mà hạnh nguyện được tinh nghiêm, thân, khẩu, ý không hoặc loạn, cho nên ta phải hết lòng trì nghi giới luật để tránh những lỗi lầm.

5. Quán niệm việc xả thí: Thấy rằng, nếu muốn giải thoát mà không rứt được lòng ái dục, tanh ích kỷ thì không sao đắc kỳ sở nguyện được. Hơn nữa, ngàn xưa đã biết bao vị nhờ lòng xả thi rốt ráo mà được chứng quả viên mãn, như trường hợp của Đức Thích Ca chẳng hạn. Cho nên ta vừa phải nghiêm thủ luật giới vừa xả thí rốt ráo, cho đến không còn thấy một lỗi mọn nào ở sáu căn, thì chắc chắn ngày kia ta sẽ được vui thấy ơn trên Đức Phật hiện thân tiếp rước ta về cõi vô sanh.

6. Quán niệm cõi Thiên đường: Tuy cõi này được thọ trường và khoái lạc hơn cõi nhơn gian, song đến khi phước hết cũng phải trở lại luân hồi sanh tử. Cho nên ta nguyện cầu sanh về cõi Cực Lạc của Đức Phật Di Đà được hưởng Liên Hoa hóa thân không còn mắc vòng sanh diệt thống khổ. Và nhờ có sự trợ duyên của Đức Di Đà, khiến ta tinh tấn tu học đến chỗ toàn giác toàn minh, để phương tiện trở lại hồng trần cứu vớt chúng sanh được giải khổ.

7. Quan niệm Hơi thở ra vào: Thấy rằng nó mỏng mảnh như tơ hào rất dễ đứt mất, khi hơi thở đứt đi thì thân này đâu còn cử động, miệng đâu còn nói năng, mắt tai đâu còn nghe biết và đầu óc hết mưu tính nọ kia. Cho nên trong lúc bình nhựt ta phải gắng sức bồi bổ phước duyên, tô điểm đạo hạnh, tạo tác công đức, trong thì chẳng dấy điều tà, ngoài chẳng gây việc ác, khiến cho thân tâm thanh tịnh hầu chứng quả Niết Bàn.

8. Quan niệm Cái Chết: Thấy rằng chơn thân của ta không chết, nhưng chỉ phải bỏ xác, vì xác này do bốn chất: đất, nước, gió, lửa hợp thành và rất thui hôi dơ bẩn, khi thần thức ra khỏi xác thân lần lượt sình lên cho đến tan rã ra bùn đất. Cho nên ta không quyến luyến nó, nhưng không hủy hoại, hay mượn nó làm cầu kỳ, xe cộ dẫn ta đến cõi bờ bến bên kia. Vả lại chơn thân của ta không chết, nên đứng trước nguy hiểm, khổ nạn đâu làm cho ta rủn chí ngã lòng mà thối chuyển việc làm lợi lạc công ích cho cả quần sanh.

Tóm tắt, Tám điều quán niệm này kẻ muốn tu hành mà không dùng đến nó hoặc làm ngược lại, thì chẳng khác nào nấu giống mà đem gieo thì không bao giờ được lên cây trái. Trái lại, người dụng nó một cách thiết tha, thì như lúa dãi mà gặp mưa dào đến, khiến cho nảy nở sum sê. Nghĩa là mỗi người cứ tuần tự quán niệm theo Tám điều này thì đạo hạnh viên dung, ngộ nhập Phật lý, siêu thoát mê cuồng mà thẳng đến ngôi chánh giác, nhứt là hiện thế được làm xong bổn phận một tín đồ của Đức Thầy đã dày công hóa độ.

Thưa đồng đạo,
Kể từ đây, mặc dầu phải gặp nhiều thử thách chua cay, nhưng lòng của chúng ta nguyện không khờn mẻ, chỉ lấy mắt quan sát cõi đời Hạ Nguơn đầy việc nhớp nhơ và không bền bỉ, mà lòng chẳng để ngoại cảnh cuốn lôi. Lại nữa mỗi người của chúng ta luôn luôn tự thấy nơi mình nghiệp trước còn dày, duyên lành rất mỏng mà lấy làm hổ thẹn khủng khiếp, lo bồi dưỡng thiện căn hầu có mai sau nên nhà Phật tử.

Vả lại, thà rằng chúng ta không được đọc trang thiên cơ đạo lý, dầu ta có làm điều tội lỗi sai phạm ơn trên cũng còn dung thứ, vì kể cho ta là một người mù. Trái lại, chúng ta được các đấng bề trên chỉ bày tiêm tất mà lòng ta không chịu gắng sức làm theo, trở lại nghi hoặc lẽ huyền cơ mà đem lòng ngạo dối thì ngày kia tránh sao cho khỏi cực hình của các nghiệp oan đưa lại.

Hơn nữa, nếu chúng ta sa đọa thì sẽ gây nỗi khổ lụy cho Tổ tiên cha mẹ, đó là tội đại bất hiếu. Bởi thế cho nên ta phải nỗ lực làm hết mọi việc lành để đáp tạ trọng ân của người mà ta đã thọ.

Khi sống nên toan kẻo trễ tràng,
Phật đường thăm thẳm dạ đừng than.
Đạo mầu miễn được gìn xong phận,
Phút chót đưa thân đến hội hàng.
Hội hàng chờ chực kẻ hiền lương,
Hãy dẹp xong đi những thói thường.
Hôm sớm noi đàng Tiên lẫn Phật,
Trau giồi hạnh nết chói như gương.


Đồng đạo phải tự mình tu sửa, tự mình tỏ ngộ, không nên ỷ lại vào đâu mà bỏ tánh mình. Trong lúc sơ
cơ phải theo dõi gót của Phật Tiên được tầm qua bến giác.

Trong khoảng lâp đời lắm khổ lao,
Chọn rành hai giá của vàng thau.
Non thần chực rươc người trung nghĩa,
Trên dưới nên toan một sắc màu.


Đời đã mòn, cuộc dâu bể chẳng còn xa, xét lại kiếp sống của nhơn sanh như chỉ manh treo gỗ súc, phải
gắng chừa tội lỗi, nên làm hết phước nhân mới cứu được thân mình và đền ơn Cửu Huyền Thất Tổ.

Giờ chót ơn trên bủa khăp cùng,
Giọng vàng chư Phật giữa không trung.
Réo kêu sanh chúng về ngôi vị,
Khỏi dân gông xiềng chốn thiết lung.


Lòng của chư Phật thương xót mọi loài như tình mẹ thương con khi sa hố thẳm, lo tìm đủ cách để cứu khỏi nguy nghèo, mọi loài hãy tưởng Phật như kẻ đói thèm cơm không giờ khắc nào quên kiếm tìm nhắc nhở. Có thế luân hồi không bận kiếp, sanh tử chẳng đeo thân, ngày thiện chung hưởng cảnh nhàn quang nơi miền Phật cảnh.

Chư Phật hà sa nói chẳng cùng,
Nỗi phiền sanh chúng cứ làm hung.
Mắt kia như quáng nào trông thấy,
Đợi phút tan hồn mới sợ lung.


Ngày biến chuyển tới đây quả đất biến hình, hoàn cầu chuyển động. Sự giết chóc giữa người lẫn ác thú,
yêu tinh, khiến máu thành sông, thây chồng tợ núi, lòng từ bi của chư Phật trông vào cảnh ấy hột lụy chứa chan, mới đồng nhau ra sức cứu độ con hiền thoát cơn bão táp. Đến đó:

Mới thấy diệu huyền của Phật Tiên,
Biết bao đuốc sáng biết bao thuyền.
Dập dìu rước khách về an lạc,
Khỏi nẻo bão bùng hết đảo điên.


Vậy mỗi người rán luyện tâm tánh mình trong sạch, ngày chung qui mới được hưởng quả Bồ đề, trái lại cứ tạo việc bợn nhơ, ô mị đến khi lâm hoạn khổ thì không lời trách móc được ai.

Nào ó nào diều mổ xac thây,
Lại thêm ác thú cả muôn bầy.
Xé xâu nhơn loại vô phương kể,
Đến đó cho ta reo Đức Thấy.

Đợi nước đến trôn mới nhảy thì khó thoát nạn tai, chờ gặp việc hãi hùng mới van lơn Trời Phật hẳn không được sự cứu hộ mảy may. Thêm nữa, đó cũng như kẻ chờ đói rũ rượi mới đi cày sạ, thì việc làm chưa kết quả thì số kiếp đã tận rồi. Cho nên ta phải thành tâm học đạo, thật ý tu thân mới thoát khỏi kiếp trầm luân đọa lạc vào loài cây, đá, côn trùng chịu ngàn đời muôn kiếp khó trở lại cõi nhơn thiên.

Như thế bao giờ biết tỉnh tu,
Hãm giam hồn xác chốn lao tù.
Làm bùng làm đất làm cây đá,
Trơ trọi giữa trời vạn kiếp thu.


Thưa đồng đạo,
Mục giảng hôm nay ngoài Tam điều quan niệm còn thêm những lời luận xét sự thăng trầm, vui khổ, giữa
đạo với đời, khiến cho mọi người tự tiện chọn lấy con đường sáng sủa thơm tho, để làm rạng danh đẹp ý Tổ Thầy và cha mẹ.

Đồng đạo từ đây hãy gắng công,
Vừa tu vừa cứu, cứu non sông.
Mới là công đức toàn hai việc,
Sau rốt sáng gương giống Lạc Hồng.
Đường đạo pháp Sĩ Thanh nhắc nhở,
Nẻo diệu huyền Tiên Phật hộ trì.
Hỡi bá gia nhớ đức từ bi,
Này sanh chúng tưởng nghì Quan Cựu.
Được phúc hạnh khiến nhau đoàn tụ,
Nhờ thiện duyên kết cấu mỗi người.
Phải thật tâm rèn việc tốt tươi,
Nên gắng chí làm điều trong sạch.
Sự trừng phạt ơn trên thử thách,
Chỗ tai nguy thế giới lắm điều.
Xét kỹ càng gan ruột chín chiều,
Suy cặn kẽ phổi tim tan nát.
Đã trông thấy triệu muôn thi xác,
Còn tưởng chừng vạn ức khổ nàn.
Biến cõi trần dường thể rừng hoang,
Khiến nhiều kẻ sanh lòng ác thú.
Biết bao thuở quay về cảnh cũ,
Hầu mừng khi gặp được Phật Trời.
Khỏi trầm luân lánh cuộc bể đời,
Xa biển khổ ly rồi tai ách.
Sự tu tấn chỉ bày đủ cách,
Lẽ thiệt hơn phân biện mọi điều.
Hãy tự mình phu sám mai chiều,
Nên xử phận chanh chơn hôm sớm.
Cõi trần thế như đèn gió chốm,
Đứa hung hăng tợ đám sương mờ.
Cảnh hồng gian chi xiết ngẩn ngơ,
Cơ tận diệt muôn điều sầu khổ.
Mặc thế tục đem lòng ái ố,
Việc Phật Tiên một mực cứu trần.
Đã thấy nhiều, thêm chí đại nhân,
Đâu chứa chấp những lời cay đắng.
Trì lục tự mọi bề siêu thắng,
Đeo tam banh lắm cuộc lao lung.
Hẹn Phật Tiên đi đến ngày cùng,
Cầu sống sót coi đời xem hội.
Mỗi người quyết lánh chừa tội lỗi,
Thì Phật Tiên đâu chẳng dắt dìu.
Bằng sớm hôm làm ngược luật điều,
Dầu van vái cũng không hiệu quả.
Tuy Thần Phật lắm điều tao nhã,
Nhưng luật hình đâu chút vị tư.
Nếu hành sai hai chữ thiện từ,
Chừng phút chót gặp điều hung thảm.
Nhơn sanh lọt trong vòng hắc ám,
Gẫm lại buồn, đâu dám vui say.
Biết tỉnh tâm cầu Đạo Như Lai,
Được giải thoát mới là thanh nhã.
Nên nhớ kỹ kiếp đời mạt hạ,
Không bao lâu đến lúc tiêu điều.
Tâm tanh kia chẳng sửa mai chiều,
Đợi tai khổ đến rồi khó hối.
Mong ai rán bền lòng đi tới,
Gặp chông gai chớ có não nồng.
Miễn cho mình đạo hạnh gìn xong,
Dầu bỏ xác cũng là thoa chí.
Miễn ngày kia Liên Đài tọa vị,
Được ơn trên thao diễn phép mầu.
Ây nhàn vui hơn cõi mộng sầu,
Thêm Tông Tổ hưởng nhiều vinh hiển.
Hỡi đồng đạo lòng nên trau luyện,
Từ nói năng cho đến hành vi.
Phải nhiều lần xem xét nghĩ suy,
Nếu chơn chánh thì nên thi thố.
Bằng việc có ẩn điều hoen ố,
Hoặc lỗi lầm phải tránh cho rồi.
Nêu lỡ làm những việc bại tồi,
Mau sám hối nguyện chừa không phạm.
Phật Tiên đã đầy lòng bi cảm,
Thường dung tha kẻ lỗi biết chừa.
Vậy mỗi người hoặc sớm hay trưa,
Hãy tự xét mỗi ngày ít bận.
Chừa tội mới rồi xong phận,
Làm thêm lành quả vị sẽ cao.
Còn sự tu cứ miệng nói rào,
Lòng chẳng sưa ngày sau đại khổ.
Kẻ giả dối sa tay hùm hổ,
Người thật thà gặp đấng Phật Tiên.
Đời mỏng rồi hỡi bớ trần duyên !
Đạo siêu thẩm ơ người thân mến.
Nên suy nghiệm rồi hành cho đến,
Gặp nhơn ông mới rõ thâm huyền.
Đừng tưởng rằng làm Phật làm Tiên,
Niệm vài tiếng Nam Mô là đủ.
It phước đức thân kia phải rũ,
Dường cỏ hoa không nước thiếu phân.
Trau nhiều lần gặp được Phật Thần,
Như xuôi nước lại buồm thuận gió.
Lời khuyên nhủ khắp trong lớn nhỏ,
Kể từ nay trau gấp phận mình.
Nhớ Đức Thầy đã lắm hy sinh,
Quyết cứu thế không nài lao khổ.
Ta muốn được Đức Thầy cứu độ,
Thời ở nhà bổn phận cho tròn.
Phải gìn xong nghĩa vụ tôi con,
Thêm cư xử cho rồi nhơn nghĩa.
Trong tâm trí vẫn thường trau trỉa,
Lướt gai chông sành sỏi trên đời.
Để tìm về cõi Phật cõi Trời,
Đặng an dưỡng không ngày sanh tử.
Nay cuộc thế dẫy đầy hung dữ,
Ngày tận đời chết chóc phải nhiều.
Người thiện lương chắc được hồn siêu,
Hoặc sống sót hưởng điều báu lạ.
Lời khuyên nhắc mỗi người để dạ,
Tiếng kêu gào ai phải gìn lòng.
Cố rèn cho trí tưởng được trong,
Đến khi nói hay làm cũng thế.
Nếu kiếp chót để cho bê trễ,
Muôn đời sau khó nổi tu hành.
E thân còn lộn kiếp súc sanh,
Hoặc cây đá vô hồi trầm trệ.
Xưa chưởng phước nay sanh nhân thể,
Ây là cơ chứng quả Phật Thần.
Vậy mỗi người rán đúc Bốn ân,
Thêm gắn bó gìn xong Thập thiện.
Tuy Trời Phật minh mông cao viễn,
Việc thế gian một mảy cũng tường.
Cả chúng sanh tự xét cho thường,
Đừng dối trá Thần Tiên mà tội.
Phải gắng sức đừng cho phạm tội,
Nên tấn tu để được giải sầu.
Chừng khai thông tâm trí mới mầu,
Còn mê tối ấy là nghiệp khổ.
Gặp gió lớn chim muôn khó đổ,
Khi mưa già hoa nhụy rã rời.
Thấy trong trần dối mị hỡi ôi !
Nhìn cửa đạo vắng người buồn bã.
Tiên Phật cũng vì thương tất cả,
Mới ra vào nơi cõi Ta bà.
Quyết cứu người khỏi nạn tinh ma,
Mong độ thế dứt đường sanh tử.
Khi gặp phải lợi quyền đem nhử,
Lòng mỗi người tự nhớ Phật Trời.
Để quên đi chơ dạ đua bơi,
Và chừa hẳn không lòng đeo đăm.
Việc đời chẳng khác người thợ nhuộm,
Nếu nhuộm thường tay nọ phải thâm.
Niệm Nam Mô cứ mãi trì tâm,
Thời Đà Phật tức nhiên hiện tới.
Tu giả dối quỉ ma chờ đợi,
Chớ Phật Tiên không thể gần mình.
Vậy mỗi người hãy khá giữ gìn,
Đừng bê trễ thân sau phải đọa.
Sự tu tỉnh khuyên nên chặt dạ,
Điều bất lương hãy khá tránh mau.
Coi việc lành hơn sự sang giàu,
Tưởng Đức Phật hơn người phàm tục.
Có thế mới không tâm hì hụt,
Nhờ đó mà chẳng vướng bụi đời.
Để cho lòng sung sướng theo người,
Tưởng nhớ mãi hẳn vong Thần Thánh.
Khuyên hãy rán miệt mài tâm tanh,
Gọi nên cần tu sửa đức ân.
Hội Rồng Mây thế giới hầu gần,
Xin lớn nhỏ chớ nên lần lựa.
Trau luyện phải mỗi giờ mỗi bữa,
Sửa sang cho từ phút từ ngày.
Dầu cho thân gặp lắm chông gai,
Kha tương đó Phât Ngài xả quả.
Bởi nghiệp trước của mình gây họa,
Nên ngày nay mới chịu khổ sầu.
Vui trả rồi sao dựa Long Lâu,
Còn bận mãi bao giờ thoát kiếp.
Lại vui tưởng cho mình gặp dịp,
Có Phật Trời khai sáng đạo mầu.
Nếu thiệt tâm hành đạo từ câu,
Giờ phút chót ơn trên cứu hộ.
Sau sẽ hưởng an vui khỏi khổ,
Còn bây giờ phải chịu liu điu
Hỡi đạo đồng tâm nhẫn mai chiều,
Cần trước phải giữ đường chơn chánh.
Hễ mỗi người vọng sanh ta tánh,
Chữ A Di niệm trấn mau liền.
Và nghĩ rằng Trời Phật Thánh Tiên -
Đã trông thấy khiến mình hổ thẹn -
Thêm khiếp hoảng không quên sửa phận,
Làm thân tâm tinh tấn hằng ngày.
Cũng như người bước khúc đường dài,
Không nệ mỏi mới là tới chỗ.
Nhược bằng gặp những điều tai khổ,
Lòng vội nao ắt sự không thành.
Từ nay đây cô bác chị anh,
Nên nhớ lấy cuộc trần mỏng mẻo.
Nếu chẳng gấp sưa mình trong trẻo,
Chừng lâm nguy khó nổi tu hành.
Lại tưởng ngày đại họa đao binh,
Thiếu phước đức thân mình khó giữ.
Đừng để tội thế gian luật xử,
Đừng tạo nhơ dân chúng khinh cười.
Phải rèn xong những việc tốt tươi,
Nên giồi lây mọi câu chơn chanh.
Xung quanh mình có luôn Phật Thánh,
Thường hộ trì những kẻ lương hiền.
Dẫu rằng thân gặp lúc truân chuyên,
Thành tâm niệm Phật Ngài cứu rảnh.
Khuyên nhau kể từ nay đạo chánh,
Nên giồi mài chớ có nản lòng.
Phải lặng tâm thoát khỏi bể hồng,
Được về đến nhà Tiên cửa Phật.
Lời khuyên nhủ đây là sự thật,
Mong chư hiền hãy rán sửa mình.

**

Sửa mình cho được sáng trong thêm,
Khỏi nỗi lao lung khỏi ác điềm.
Kịp đến kỳ thi, thi của Phật,
Chiếm xong bảng thượng đặng đề tên.

**
Từ đây cuộc thế não nề,
Sạch trong tâm trí mới về cõi Tiên.
Hồng trần là chốn đảo điên,
Mê si tâm ấy là xiềng xích thân.
Hễ xong được Bốn điều ân,
Thì người được sống hầu gần Phật Tiên.
Còn lo đeo đẳng trần duyên,
Sa vào đường ác triền miên khổ sầu.
Khuyên người hay găng đạo mầu,
Tưởng ơn trên mãi chẳng âu việc đời.
Ngày kia ắt được thảnh thơi,
Có Hoa Liên đến chực mời đăng Tiên.
Không còn chịu nỗi lao phiền,
Ngàn muôn kiếp hưởng vô biên lạc nhàn.
Bây giờ tạo nghiệp thế gian,
Phải đền khổ não chớ than chớ phiền.
Chi bằng trau sưa cho hiền,
Ngày kia ắt được toại miền Thiên Thai.
Khỏi còn chịu khổ trần ai,
Được xem cho biết điện đài người xưa.
Bây giờ việc quấy răn chừa,
Thì ơn trên giúp cho vừa ý mong.
Việc đời tâm nọ quyết không,
Còn điều đạo đức chờ trông kiếm tìm.

Lời khuyên đây cũng dứt xong lời,
Gởi nhắn lẽ hiền khắp mọi nơi.
Nam nữ trau lòng không để ngớt,
Mai chiều gặp hội được vui chơi.
Hãy tìm cho được khiếu Linh Quang,
Chói ánh Kim Liên một sắc vàng.
Đó mới đăng Tiên và chứng quả,
Không còn hệ lụy cõi trần gian.


15 tháng 11 Quý Tỵ – tức ngày 20 tháng 12-1953.

27- Ngày 30 tại ngôi Tây An Cổ Tự: Ba Điều Khổ

Ngày 30 tại ngôi Tây An Cổ Tự: Ba Điều Khổ

Kính chào tất cả đồng đạo nam nữ,
Hễ mỗi lần vọng tưởng là mỗi lần như bôi vết lọ trên tấm gương trí huệ, càng nhiều vọng tưởng thì càng
nhiều vết lọ, làm cho trí huệ của người thêm tối đen mờ ám. Nhân đó mới nhận thức sai lầm khiến cho các việc làm tội ác tuần tự sanh ra. Điều này đối với kẻ tu hành rất đại kỵ mà luôn luôn cứ đem tư tưởng chánh đáng để trấn định, làm cho tâm hồn trong sạch, thần trí sáng suốt lần lượt đến chỗ toàn giác toàn minh.

Vả chăng, người muốn đạt đến trí huệ mà tim óc cứ nghĩ suy điên đảo, lo tính dối mị, ngàn điều muôn việc trần tục giao chập mãi thì có chút thanh tịnh nào đâu mà mong mở trí huệ cho được.

Bởi thế cho nên, hễ người đàn áp được vọng tưởng của mình tức là đến chỗ sáng suốt an vui. Trái lại bị
vọng tưởng nó đàn áp thì đó là nguyên nhân dắt mình đến chỗ mờ ám và đau khổ.

Thưa đồng đạo,
Hôm nay tôi xin giảng về “Ba Điều Khổ” của kiếp chúng sanh, để mỗi người được thêm tự Tín, tự
Nguyện và tự Lực theo đường đạo lý, diệt sạch tà tâm hầu đạt đến quả hạnh cao cả.

Ba điều khổ ấy là:
I. Khổ Phùng Khổ.
II. Luân Hành Khổ.
III. Biến Hoại Khổ,

I. Khổ Phùng Khổ là:
Chúng sanh mang thân ngũ uẩn đã chịu nỗi già yếu, bịnh hoạn, chết chóc, lại còn phải cảnh thù oan gặp
nhau, thương yêu xa cách, ham muốn không được và các phiền não hừng hẫy mỗi ngày. không lúc nào lòng được hoàn toàn rảnh rang vui vẻ.

II. Luân Hành Khổ là:
Chúng sanh đã chịu khổ của thân ngũ uẩn hành hạ, lại còn thêm gặp phải khổ cảnh thiên lưu di chuyển của thời tiết: Nào khi nóng quá, lạnh quá, mưa quá, gió quá và lụt bão, khô hạn, bao việc trái ngược dồn dập cho thân, chẳng khác nào tội nhân đương chịu cuộc điều tra khốc liệt, sắp xô đẩy con người đến cái chết thương tâm.

III. Biến Hoại Khổ là:
Chúng sanh đã chịu hai nỗi khổ của xác thân lẫn ngoại cảnh, thêm còn chịu nỗi khổ của quả đất trong lúc biến hoại, vì rằng quả đất cũng có hạn lượng không thể trường tồn vĩnh viễn được, một khi hạn lượng của nó đã hết, các nhân duyên câu hợp đến lúc lìa ra, thì nó sẽ tiêu diệt ngay. Chừng đó những lầu son gác tía, chức trọng quyền cao của chúng sanh đa công đào tạo đều bị ảnh hưởng theo đó mà chung chịu sự tang thương như nhau cả.

Vậy thử nghĩ trong lúc đó những điều sang trọng còn có giá trị gì nữa mà ngày nay cả muôn người đều đeo đuổi nó, lại nỡ tay tàn sát lẫn nhau để mưu chiếm lợi lộc về mình cho ra điều bất nhân, vô nghĩa.

Chi bằng hiện giờ mỗi người hãy yêu thương lẫn nhau, dìu dắt đỡ nâng nhau trên đường tu hành đạo đức chơn chánh, để giúp nhau chung hưởng cõi đời phúc lạc.

Dẫu ngày kia quả đất có biến hình đi nữa cũng còn có thể nhờ lấy duyên lành ấy mà khiến nhau được tồn tại, hay đã mạng chung cũng còn hy vọng vãng sanh về cõi Cực Lạc Tây Phương. Chừng ni sẽ hoàn toàn toại hưởng sự lợi lạc thiên nhiên không còn biến diệt nữa.

Hỡi đồng đạo,
Dù không nói ra, toàn thể chúng ta cũng nhận hiểu ngay sự thay đổi nhân sanh trong một ngày mai là
ngần nào, vì chúng ta thảy đều nhuần gội giáo lý của Đức Thầy, được Đức Thầy cho biết rõ việc đạo lý huyền cơ thì phiên giảng hôm nay tôi chỉ nhắc lại cho đồng đạo nhớ rõ và hăng hái theo dõi con đường lành, hầu ngày kia khỏi cuộc nguy nàn, tớ thầy gặp gỡ mới mong toại lòng nguyện ước của chúng ta đã mấy thu qua.

Tóm tắt đại ý của bài giảng này là kể rõ Ba điều khổ của chúng sanh như: đã khổ còn gặp khổ, khổ vì sự ngoại cảnh ngang trái bức ngặc và khổ lúc quả đất biến hình. Cái khổ ấy chẳng ai tránh khỏi và không thể không có được, mỗi người hãy tự tu chơn chánh, tự tạo phước điền hầu nhờ ân đức từ bi của chư Phật gia hộ cho mình khỏi kiếp phù sanh về nơi cảnh an nhiên bất diệt.

LIÊN HUỜN THI
Trong nẻo tu hành lấy đức tin,
Mua vàng cõi Phật phải hy sinh.
Lao lung dẫu có là thường sự,
Miễn khiến cho lòng được chánh minh.
Chánh minh từ nói đến khi làm,
Luân đổi hành vi khác kẻ phàm.
Tuần tự ngày này qua tháng nọ,
Một lòng đạo đức cố gìn kham.
Gìn kham sẽ được đáo Liên Hoa,
Tươi sáng đài châu biết mấy tòa.
Vinh diệu ở đây không biến hoại,
Hỡi người tín nguyện, hỡi đàn na !
Đan na thâm thiết việc tu thân,
Khuya sớm luôn lòng giữ chanh chơn.
Hai buổi dưng hương không trễ sót,
Lo chi cách Phật với xa Thần.
Xa Thần ấy cũng tại nơi ta,
Tu tỉnh lòng không được thiết tha.
Chỉ tưởng đầu hôm khuya lại bỏ,
Nên không gần Phật cứ gần ma.
Gần ma khổ thảm lắm nhân sanh,
Lôi kéo con người biết mấy manh.
Nhân đó muôn ngàn lao lý khởi,
Khiến người chịu khổ tử cùng sanh.
Sanh tử ngày nay quyết dứt xong,
Nếu ta không tập ác nơi lòng.
Sớm chiều quay thẳng về nhơn thiện,
Sẽ được ngôi vàng ấn sắc phong.
Phong sắc ơn trên Phật Vị danh,
Còn đây chỉ tạm khúc loanh quanh.
Nếu ai mê luyến tan hồn xác,
Chọn lọc nơi lòng hỡi chị anh !
Anh chị đời này có phước duyên,
Chẳng qua đã lắm nghiệp nhơn hiền.
Bây giờ hội ngộ vì Tiên Phật,
Không khéo sau này phải đảo điên.
Điên đảo lòng không thoát quỉ yêu,
Cuốn lôi đưa đẩy mấy mươi chiều.
Tỉnh ra nước đã kề bên họng,
Chừng ấy khó gần cảnh Thuấn Nghiêu.
Nghiêu Thuân ngay kia rõ mặt rồng,
Khỏi vương lao lý bưởi chan bòng.
Hiện giờ đen trắng còn chung chạ,
Sau chọn một màu rạng núi sông.
Núi sông hùng vĩ một ngày gần,
Nhờ ơ oai linh các Cựu Thần.
Vừa khiến vừa ra tay chấn chỉnh,
Để làm rõ mặt của tiền nhân.
Tiền nhân khí phách trỗi lân bang,
Chỉ tiếc con cháu con quá rộn ràng.
Hấp thụ Âu Tây công kích cựu,
Đành sa phải miệng của hùm lang.
Hùm lang chụp nuốt giống Rồng Tiên,
Khéo khiến cho thân khỏi xích xiềng.
Kẻo phải muôn đời ôm khối hận,
Đâu rồi bổn phận của thiêng liêng.
Thiêng liêng cao khiết trỗi vàn dân,
Hãy gắn vào tâm một chữ cần.
Sớm tối đeo lòng trung lẫn hiếu,
Mặc dầu phải chịu lắm lần khân.
Lần khân có thuở được trừ tiêu,
Chưng mới cùng nhau toại sớm chiều.
Trên dưới đồng tình lo vận nước,
Không còn kẻ ngã lẫn người xiêu.
Ngã xiêu cũng bởi thế thời đưa,
Có lắm điều đem quá thích ưa.
Nên khiến những người tâm dị cảm,
Dễ suông lưới rập khó xa chừa.
Xa chừa chỉ định ở người tu,
Nhận thức trần gian vốn ngục tù.
Khi đến làm xong, xong bổn phận,
Thiện chung cõi Phật trở ngao du.
Ngao du thung thú khăp cùng phương,
Chẳng bận chi đời việc ghét thương.
Tùy nghiệp tùy duyên ra giáo hóa,
Xong rồi trở lại chỗ an khương.
An khương vừa cảnh lẫn người Tiên,
Khỏi hẳn bao nhiêu cái tội khiên.
Mắt thấy, tai nghe thông sáu cõi,
Từ bi phương tiện độ nhơn hiền.

***

Đồng đạo từ đây hãy giữ lòng,
Dẫu rằng lao lý gắng gìn xong.
Ngày kia Thầy tớ cùng nhau hợp,
Đến đó dưới trên mới thỏa lòng.
Thỏa lòng xa cách mấy thu qua,
Nay được cùng chung hiệp một nhà.
Kể lại chuyện xưa muôn khắc khổ,
Rồi reo cười lẫn với muôn hoa.
Hỡi đồng đạo ! từ nay trau trỉa,
Ngần ngại chi mai mỉa thói đời,
Âu rằng sắc mặt vui tươi,
Để toan bổn phận giúp người được thôi.
Học chi kẻ ngoai môi thông thạo,
Mà trong lòng chánh đạo chẳng cần,
Đời đừng sợ kẻ bất nhân,
Chỉ nơi người thiện cho cần la xong.
Sợ phải gặp trời long đất lở,
Lo chi riêng chỗ ở miếng ăn,
Tin rằng có cuộc sơn băng,
Để xoay máy tạo cho bằng Thuấn Nghiêu.
Còn gặp cảnh đìu hiu điền địa,
Bởi lòng người bốn phía gian ngoan,
Phải mau đổi cuộc trần hoàn,
Mới là định rõ bức màn Thần Tiên.
Hỡi đồng đạo chữ hiền đeo đẳng,
Dầu lao lung cũng chẳng đổi thay,
Lẽ rồi sẽ gặp ngày mai,
Là ngày vinh hạnh mặt mày trung lương.
Nay mắc phải nhà Thương thử thách,
Hầu nhận ra ai được chơn tu,
Nếu không phá ngút mây mù,
Ăt thân phải chịu muôn thu thảm sầu.
Đợi chờ khi trống lầu thúc giục,
Rồi tu hành đâu chút nào xong,
Bây giờ trước phải ra công,
Sau rồi được hương thỏa lòng khát khao.
Hỡi đồng đạo ! cùng nhau toan liệu,
Này chư hiền rán hiểu chánh chơn,
Trước sau giữ vẹn tâm thần,
Không giờ phút để xa lần Phật Tiên.
Gặp cửa đạo tiền duyên đã có,
Trễ qua rồi e khó trông thay,
Bây giờ vừa miệng vừa tay,
Làm điều lợi chúng, ích ray cho dân.
Chớ ngồi mãi riêng thân niệm Phật,
Khinh việc nhân chẳng giúp chút công,
Phật, nhân liệu lấy cho xong,
Đức kia đã đủ mà công cũng tròn.
Nay cuộc thế hao mòn đã lắm,
Xem rồi ta hãy gẫm mà toan,
Bốn phương chừng tiếng nổ vang,
Độ mình cho khỏi mơ màng chiêm bao.
Liệu thân được không vào bể khổ,
Bằng chẳng xong lá đổ nhánh rơi,
Kẻo bông heo rụng người ơi !
Phật Tiên ân xá cho đời lắm phen.
Nay chẳng sớm đua chen nền đạo,
Để muộn rồi xốc xáo không xong,
Hãy nên tinh sạch nơi lòng,
Hãy nên tìm việc nghĩa công giúp đời.
Tu từ chỗ dùng lời chơn chánh,
Lẫn việc làm có tanh vị tha,
Noi gương Đức Phật Thích Ca,
Quên lo riêng việc nơi nhà mình đi.
Để cùng giúp muôn loài hạnh phúc,
Ây mới làm được chút từ bi,
Cuộc đời còn lắm khuynh nguy,
Việc làm hao nghĩa không gì quý hơn.
Nay gặp phải lắm cơn loạn trị,
Rõ chợ đời vị kỷ quá ư,
Mình toan lấy việc thiện từ,
Lòng luôn treo thẳng gương mầu khắp nơi.
Phải nghĩ việc muôn người là trọng,
Riêng một mình ấy giống tục lưu.
Ai ơi ! noi Thích Ca Mâu,
Tâm kia trong sạch không cầu vị danh.
Muốn cho được lòng thanh như tuyết,
Làm lợi dân chẳng thiết sang giàu,
Mới làm gương sáng đồng bào,
Cũng tin hồn chắc ngay sau nhẹ nhàng.
Khuyến đồng đạo đôi đàng hãy tỉnh,
Từ nay đây chấn chỉnh thân tâm,
Đừng cho ngoại trược nhiễm xâm,
Đừng cho kẻ bạo rủ cầm được ta.
Phải tự chủ để mà tiến tới,
Sau này mình gặp hội Thần Tiên,
Sầu chung lăc lẻo con thuyền,
Miễn rằng vững lai chí nguyền cũng xong.
Lời khuyên đồng đạo giữ lòng,
Tuy nay giảng ngắn dạ mong dồi dào.
Đến đây đã dứt tiếng gào,
Sĩ Thanh kính để lời chào đồng môn.
Đồng đạo sau khi lắng những lời,
Ra về khuyên chớ, chớ buông rơi.
Hồn kia lẫn xác cùng tinh tấn,
Mới khiến sau này được thảnh thơi.

30 tháng 11 Quý Tỵ – tức ngày 4 tháng Giêng 1954.
28- Ngày rằm tại ngôi Tây An Cổ Tự: Bốn Điều Quấy

Ngày rằm tại ngôi Tây An Cổ Tự: Bốn Điều Quấy

Hai bên nam nữ giữ yên lòng
Nghe rõ diệu huyền khỏi luống cong
Mọi lẽ siêu nhiên đây mới nhắc
Mong người tự tỉnh sớm thì xong.

Chào tất cả đồng đạo nam nữ,
Lần giảng này kể như lần giảng chót năm Quý Tỵ - Để ôn lại bao lần giảng qua, hôm nay tôi xin đề cập
ngay vấn đề khắc kỷ đúng theo đạo đức bằng cách là nhắc cho đồng đạo nam nữ “Tự tránh bốn điều quấy” để có thể làm cho mình, mặc dù sống trong thời loạn ly, chẳng những mình không làm việc lỗi lầm, mà cũng khỏi bị ảnh hưởng của ngoại lực lôi cuốn đến mất bản thiện, trở lại tác động theo việc hung ác như mọi người.

Bốn điều quấy ấy là:
1. Thấy quấy
2. Nói quấy
3. Ý nghĩ quấy
4. Kết bạn quấy

I.. Thấy quấy là theo cái thấy của phường sở khanh, cái thấy của anh đạo chích, cái thấy của bọn Bàng Hồng. Những cái thấy này toàn là nhớ nhớp tội lỗi hèn hạ nhứt trong xã hội như:

- Cái thấy của phường sở khanh thì không có một sắc đẹp nào mà bọn chúng không tìm cách chọc rửa.
Mặc dù việc làm ấy thương tổn đến luân lý và thường bị xã hội nhờm gớm, miễn là được thỏa thích nhục dục.

- Cái thấy của anh đạo chích thì không có một đồ vật của ai mà chàng không tâm định rình rập để lấy về làm của mình. Mặc dầu những hành động này không những làm khổ cho kẻ khác mà họ cũng phải sợ sệt trốn tránh luật pháp luôn, song anh vẫn làm mãi.

- Cái thấy của bọn Bang Hồng thì không có một ngay vị vua chúa nào mà lũ chúng không muốn mon men tiêm đoạt. Mặc dù những hành động ấy lịch sử chê đè, thiên hạ khinh miệt, song vì tham vọng quá cao khiến họ phải làm liều.

Il.. Nói quấy là theo lời nói của bọn Vu Hồn, Bí Trọng, lời nói của cha con Trương Sĩ Quý, lời nói của nàng Phi Lang. Những lời nói này toàn là những lời đâm thọc, dối gian, bội phản thường bị mọi người nguyền rủa nhiếc mắng.

- Lời nói của Vu Hồn, Bí Trọng thì không có một đấng trung thần nào mà họ không mưu sát để được tự do tác phúc tác oai. Mặc dầu họ vẫn biết việc ấy vô nhân đạo, nhưng lòng quá ham hố bạc vàng mà không bỏ được.

- Lời nói của cha con Trương Sĩ Quý thì không có một nhân tài nào mà bọn chúng không muốn yêm ẩn
đoạt công. Mặc dầu chúng vẫn biết việc làm ấy tàn nhẫn và đáng hổ thẹn, nhưng lòng bất nghĩa của họ
vẫn ngang nhiên thi thố mãi.

- Lời nói của nàng Phi Lang thì không một tình nhân nào mà không bội phản, nghĩa là: Hẹn trước quên sau, thay đen đổi trắng mãi. Mặc dầu những hành vi bạc bẽo này không được người kính chuộng mến yêu, song vì tham tài mà vẫn thản nhiên phụ nghĩa.

III. Ý nghĩ quấy là ý nghĩ của một anh ghiền, ý nghĩ của cô điếm, ý nghĩ của người cờ bạc. Nhưng ý nghi này toàn là nhưng ý nghĩ phá sản, tự sát làm chết mất tất cả thân danh thể thống của đời sống con người mà xưa nay đã có lắm lời châm ngôn cảnh tỉnh, nhưng đó vẫn truyền nhiễm mạnh vào xã hội chẳng khác bịnh dịch.

- Ý nghĩ của anh ghiền thì miễn được uống cho cay đã mồm, hút cho khoái tạng óc, mặc dầu phải ăn trước trả sau, mắt thục môi chì, danh dự chìm sâu trong hắc ám. Nhưng vì sự ghiền gâp thâm nhập trong cốt tủy, mà anh không thể trừ bỏ được.

- Ý nghĩ của cô điếm thì miễn được thoã mãn nhục dục, có tiền bạc thật nhiều đặng ăn chơi, xài phí, tha
hồ cho bướm ghé ông lui, chai đi rớ (rớ: lưới nhỏ dùng bắt cá) đậu, coi chữ tiết trinh như rơm rác và bất cần sự cười chê rẻ rúng của người đời.

- Ý nghĩ của người cờ bạc thì thua chén này còn gầy chén khác, nợ nần vay hỏi tứ tung, sớm có kẻ đến đòi lôi lưng, chiều có người hâm sẽ níu áo, bán sạch quần áo mình còn lột đến chuỗi kiềng của con vợ.

Thậm chí cầm luôn đất cúng, cố cả nhà thờ (tổ) mà lòng không biết tủi nhục với tổ tiên, hạng người này sẽ là nguyên nhân của bao nhiêu tội lỗi cướp giựt, trộm cắp, đánh lừa kẻ dại, soan đoạt của người mà chẳng chịu ăn năn hối cải.

IV. Kết bạn quấy là theo lối kết bạn của Trịnh Hâm, Bùi Kiệm, kết bạn như Triệu Khuông Dẫn, kết bạn như Tào Tháo, những người bạn này toàn là hậu hoạn cho ta cả, mà vẫn còn thấy nhiều vết đen trong truyện sử.

- Bạn như Trịnh Hâm, Bùi Kiệm thì không lúc nào trung thành với người bằng hữu, mà chỉ vì lòng tự ái nhỏ nhen đành xuống tay hạ bạn.

- Bạn như Triệu Khuông Dẫn thì háo sắc, đắm men mà vô tình giết bạn, nhứt là người bạn đáng qúi có kỳ công trong đất nước.

- Bạn như Tào Tháo thì không lúc nào chẳng nghi ngờ bằng hữu, dù người bằng hữu có nhiệt tâm tiếp đãi, song khi lòng đã nghi ngờ nơi bạn thì bị vẫn giết không cần tìm rõ thực hư.

Những điều đã kể trên đây toàn là những việc quấy đáng tránh, nhứt là giữa lúc loạn ly các trường hợp bất thường xảy ra thì ta cần nên tránh xa hơn nữa.

Tóm lại bốn điều quấy này hoàn toàn trái ngược tinh thần trung trinh, tiết nghĩa và cũng không hợp lẽ từ bi bác ái của nhà Phật. Kẻ học đạo như chúng ta, nam cũng như nữ, đều phải quyết tâm cự tuyệt không để phạm một khoản nào. Song muốn trừ được bốn điều ấy ta cần phải lấy cái đạo làm gốc thì an mọi việc, vì cái đạo tỷ như yếng sáng to lớn bằng muôn ngàn mặt Nhựt, có thể soi phủng, phá tan được tất cả u tối.

Ngoài ra nếu ta dùng cái đạo mà cư xử việc thiên hạ thì chắc chắn dẹp tan các mối vô nghĩa bất công, tảo trừ mọi điều thương luân bại lý và chính con đường tu niệm của ta cũng tiến đến mức cuối cùng.

Hỡi đồng đạo,
Thuở xưa Đức Phật Thích Ca có thệ rằng: “Nếu ngày nào còn một chúng sanh chịu khổ ở cõi Ta bà thì Ngài không vui nhập Niết bàn. Song tâm trạng chúng sanh hiện giờ quá hung hăng xảo trá, do nghiệp tội ấy mà phải chịu luân hồi thống khổ mãi. Như thế thì bao giờ Đức Phật được thong thả nhập Niết bàn.

Với điều ấy không riêng gì Đức Phật Thích Ca mà ngay Đức Thầy chúng ta hiện nay cũng thế.

Ngài thệ đến chừng nào:
“Bể trầm luân khô cạn sáu đường,
Tăng Sĩ mới trở về nơi thanh tịnh”.

Những than ôi! Sau đường luân chuyển còn đang chồng chất uê nhơ, ba nẻo thăng trầm hiện thấy dẫy đầy tội ác. Cứ như thế mãi thì biết chừng nào Đức Thầy trở về nơi cõi thanh tịnh được.

Bởi thế cho nên chúng ta cảm động đến nguyện lực cao sâu, từ tâm rộng lớn của Đức Phật, Đức Thầy mà tự mình rán tu tỉnh, đoạn trừ các việc tà mị xấu xa cho cõi đời của chúng ta không còn tội lỗi. Được như thế thì Đức Phật, Đức Thầy mới có ngày an lòng mà hồi vị.

Chúng ta thấy chăng? vì lòng bác ái chứa chan, thệ nguyện sâu dày mà hiện giờ Đức Thầy của chúng ta
vẫn còn xa cách phương nào? Sự sống có được yên không? Có được ăn mặc đầy đủ hay phải thiếu thốn?

Và trong lúc sớm chiều có được người thành tâm hậu đãi hay phải chịu cảnh hiu quạnh ngồi đợi sự hoạch định của thiên công?

Nếu chúng ta thường tưởng đến đời sống cam go của Đức Thầy thì phận mình đâu dám sung sướng quá lẽ, chè rượu xình xoang, áo quần lòe loẹt hoặc vì sự ích kỷ mà tạo tội nhứt thất thái quá. Nghĩ rằng Đức Thầy đã có đức rộng phước dư, quả cao công cả mà còn chưa vui hưởng sự sung sướng thay !

Huống chi chúng ta thuộc kẻ môn nhơn của Ngai, hơn nữa là hạng phàm tục hạ căn, phước mỏng nghiệp dày, có công hạnh bao nhiêu mà tận hưởng lắm điều sang trọng thái quá, làm cho tội lỗi trước chưa đền xong mà các nghiệp xấu hiện nay thêm gieo rắc, như thế sao tránh xa khỏi ác quả trả lại cho thân chịu nỗi thiên lao vạn khổ.

Vả chăng, sự đầu thai của chúng ta không phải mới kiếp này, mà là đã ngàn muôn ức kiếp có thừa, trong thời gian trường đại ấy, đã có vô lượng chúng sanh phát bồ đề tâm tu hành chứng đến bực bất thối, không còn mắc trong nẻo khổ tử sanh. Trái lại, chúng ta cứ mê đắm lục trần, say sưa ngũ dục, cho đến ngày giờ này mà vẫn còn đứng trơ trẽn ở cõi thế gian. Như thế nghi không đang hổ thẹn lắm sao? Thật ra chúng ta sanh hiện cõi Ta bà chẳng khác nào người đã sân giữa buội tre gai, bốn phía chằng níu, trên dưới phủ bao không phương cựa quậy. Muốn ra khỏi chốn ấy chỉ còn có cách phải lột bỏ áo lục trần, ném xong bầu ái dục, tức nhiên được thong thả mà thẳng về đến đài thất bảo của Như Lai.

Cao nhã đạo mầu lắm bớ ai !
Trau giồi kẻo phải nó mòn phai,
Trên đường diệu vợi dầu gai ngạnh,
Cũng vẫn đinh ninh có một ngày.
Một ngày Thầy tớ được hòa nhau,
Trên dưới cùng chung thỏa dạ nào !
Không bận nỗi sầu như thế nữa,
Mới là giá hạnh được tăng cao.
Tăng cao gấp bội Hạ nguơn này,
Bước đến đời sau được thảnh thay !
Lúc đó phong nghi đều chấn chỉnh,
Không còn loạn tác thể như nay.

Để tóm kết bài giảng hôm nay, tôi khuyên đồng đạo trước nhứt rán trừ được Bốn điều quấy đã kể qua.

Kế đó phải thiết tha niệm tưởng lòng từ bi bác ái vô biên, lời thệ nguyện độ tha vô tận của Đức Phật, Đức Thầy và chót hết là nghĩ đến sự cứu mình, cứu cha mẹ tổ tiên mà hăng hái tu hành cho được thiện mỹ. Lòng không nghi ngờ sự làm lành không được phước, làm dữ chẳng mang tai, mà là trong tâm hồn vẫn tin rằng trồng giống chi ăn trái nấy không thể sai chạy.

Giữ được như thế, dù ta không lau mình trong rừng buội để tìm kiếm Đức Thầy mà Đức Thầy cũng vẫn cho chúng ta gặp gỡ và tiếp độ chúng ta đồng sang qua bỉ ngạn.

Cuộc đời lao khổ không lường,
Hồng trần khuyên chớ vấn vương bụi đời.
Khá nên nghe rõ mọi lời,
Của người đạo đức đôi nơi tỏ bày.
Nghĩ thương Đức Phật công dày,
Ngàn xưa cứu độ muôn loài hàm linh.
Nguyện rằng còn một chúng sinh,
Chịu điều thống khổ chưa đành an vui.
Đức Thầy thề cũng một lời,
Sáu đường khô cạn mới hồi cõi thanh.
Thương Thầy không thể yên mình,
Cõi trần cứ mãi đem tình độ tha.
Với thêm ta nghĩ thân ta,
Rán tu để cứu ông bà từ thân.
Khỏi vòng lao lý trong trần,
Để mà có dịp dựa gần Phật Tiên.
Hồng gian là chốn điên liên,
Sang hèn đều cũng não phiền như nhau.
Chỉ còn có việc qúi cao,
Là điều đạo đức trỉa trau mai chiều
Nếu như kẻ được công nhiều,
Thì là kết quả mai chiều vinh vang.
Còn người hạnh đức bủa tràn,
Thì là ắt được Niết Bàn đáo lai.
Với thêm một mực thẳng ngay,
Trên đường chánh đáng miệt mài sớm khuya.
Nhắc câu ăn giấy bỏ bìa,
Được thân sung sướng vội lìa Tổ tông.
Của Thầy đã ấn vào lòng,
Mà ai chẳng nhớ để hòng sửa trau.
Hung hăng như đá mài dao,
Tuy không thấy hại càng hao mòn lần.
Hiền lành như thể vườn xuân,
Tuy không thấy lớn mỗi tuần mỗi tươi.
Thơm tho cả đẹp mọi người,
Dầu ai cũng phải có lời ngợi khen.
Sự tu cần phải sách đèn,
Giồi trau cho kỹ kẻo hoen đạo mầu.
Hiểu rành Đạo Pháp từ câu,
Rồi sau chọn lọc ngõ âu chuyện lành.
Sự tu dầu phải nhọc nhanh,
Ấy là xả được quả mình xưa kia.
Cũng do khổ nhọc sớm khuya,
Mà công quả được ngày kia thêm nhiều.
Đạo đồng hãy thuận một chiều,
Cùng thương nhau để dắt dìu đường ngay.
Không nên vì chữ tiền tài,
Nỡ đành phụ nghĩa luống hoài công tu.
Ngắm coi ít kẻ công phu,
Trí căn cạn cợt đường tu lỡ làng.
Mặc dù kệ sấm đọc vang,
Nhưng lòng chưa quyết khó toan đắc thành.
Đức Thầy dạy phải làm lành,
Mà ta làm dữ bảo thành là sao?
Những điều tươi đẹp qúi cao,
Lại là nỡ bỏ chẳng trau vẹn mình.
Cứ đeo theo việc hôi tanh,
Bị người nhờm nhụa mà mình chưa ê !
Phật là giác, chúng sanh mê,
Trừ mê nếu được thì về Tây Phương.
Không còn oan nghiệt vấn vươn,
Lại thêm thần biến mọi đường lảu thông.
Chừng ni thì rất thỏa lòng,
Tiện bề độ chúng cứ xong giúp đời.
Đâu còn lao lực trần vơi,
Chỉ còn tự tại cả đời Thần Tiên.
Đạo đồng ơi ! gắng chí nguyền,
Biết tu ấy cũng thiện duyên có nhiều.
Nhưng người không khéo phải tiêu,
Thì muôn kiếp nữa cũng liều như không.
Nay khuyên hãy rán sửa lòng,
Mỗi lần nghe giảng mỗi hòng gắng ghi.
Một là khỏi luống cuống đi,
Bỏ làm lợi ích việc chi của mình.
Hai là thêm được đức lành,
Trong giờ nghe giảng lỗi mình tạm ngưng.
Chú tai, chăm mắt, tâm ngừng,
Không còn vọng tưởng ngoại trần nữa đâu.
Thứ ba nghe được nhiều câu,
Gẫm suy cho thấu ngõ hầu phá mê.
Được xong ắt lúc Thầy về,
Chúng ta sẽ được một bề ngưỡng cung.
Hết còn giận cảnh lao lung,
Cũng không bận việc khuây bung như vầy.
Đạo đồng ơi ! gắng từ đây,
Giảng cơ lần chót năm này đã xong.
Bước qua Giáp Ngọ chuyển công,
Mở trường huấn luyện kẻ lòng thiệt tu.
Hiểu rành những việc công phu,
Với thêm chân lý phá mù lòng ta.
Cầu cho tỏ rạng Đạo Hòa,
Cũng là một dịp cội nhà tốt xinh.
Làm cho kẻ khác hiểu mình,
Thích Ca đồng một hết tình nệ câu.
Lại thêm hiểu lẽ nhiệm mầu,
Của ông Hòa Hảo Tân Châu cứu trần.
Mới là mạng miệng, mạng chân,
Vừa lời tán tụng, vừa thân với mình.
Để mà dò xét chân tình,
Ngõ hầu quay lại với mình đồng tu.
Chừng ni Đạo pháp hết lu,
Cửa thiền rộng mở chắc cù hóa long.
Nay còn lắm việc lòng vòng,
Bởi Thầy xa cách thêm vòng lửa binh.
Nên chi lắm kẻ nữa tin,
Nửa còn ngờ hoặc việc mình chưa xong.
Từ nay khuyên hãy chí công,
Lại thêm chí sức làm xong mọi bề.
Đạo đồng trông Đức Thầy về,
Về để thưởng phúc mọi bề xuê xang.
Hay về phạt tội dở dang,
Nếu mình tâm chưa sửa an một bề.
Khuyên nhau hãy rán quay về,
Con đường chánh tín mới kề Phật Tiên.
Huyền linh các vị rõ duyên,
Của người phàm tục trong miền trần ai.
Nhứt là thâu triệt kỳ nay,
Bao nhiêu tà giáo đua tài tranh phân.
Đạo đồng không khéo sửa thân,
Nhứt là không được tinh thần mạnh lên.
Thì là không thể vững bền,
Phải đành sa ngã theo nền quỉ ma.
Lời đây rất đỗi thiết tha,
Kệ cơ điệu giọng hiền hòa nhủ khuyên.
Những mong nữ tín nam thiền,
Lòng kia như thể thanh tuyền chảy xuôi.
Ta lành Thầy mới được vui,
Nếu ta hung mãi đâu nguôi lòng Thầy.
Trong đời vẫn biết nhiều loài,
Có trung, có nịnh chua cay trộn trà.
Nhưng mình đã gặp Phật gia,
Nếu còn để lọt cửa ma uổng mình.
Phải cần một chí mà gìn,
Theo Thầy cho đến bỏ mình cũng cam.
Được may có Phật giáng phàm,
Hữu duyên dân chúng miền Nam được gần.
Ấy là có dịp thoát trần,
Nếu không trì chí e phần tủi thêm.
Đạo đồng gặp khổ như nêm,
Mấy năm đã lắm chưa tìm nhơn ông.
Nhưng ôi ! nhiều dạ nhiều lòng,
Thì càng tai ách lắm trong đạo trường.
Kẻ thì muốn việc rau tương,
Người thì chè rượu cùng đường nhả nhơi.
Kẻ thì ham thú vui chơi,
Còn người lại muốn tị đời để tu.
Ngắm ra thì quá lu bu,
Trong nền đạo thấy còn lu quá nhiều.
Nhờ Đông Phong thổi thuận chiều,
Thẳng đường đạo pháp thoàn chèo tới nơi.
Không còn lá úa hoa rơi,
Hết còn chịu nắng mưa đời khắt khe.
Đạo đồng hay lắng mà nghe,
Cùng chung một nhịp để khoe gương mầu.
Kìa kìa tiếng trống Nam Lầu,
Giục lòng sanh chúng tỉnh bầu rượu say.
Không còn bận cuộc trần ai,
Trực nhìn mới thấy điện đài từ bi.
Chuyển xoay khắp cả Ba Kỳ,
Địa hình tuy nhỏ sau thì lớn ra.
Tuy nhiên phải chịu phong ba,
Phong ba mãn cuộc mới ra thanh bình.
Đạo đồng ơi ! cứ giữ mình,
Năm này ôn lại việc lành bao nhiêu?
Nếu như lẽ thiện chưa nhiều,
Rán làm năm tới thêm điều tốt hơn.
Đôi lời biện bạch nguồn cơn,
Đến đây xin dứt lui chơn đạo đồng.
Giảng đã dứt rồi hãy cứ lui,
Đi ra mà vẫn phảng phơ mùi.
Lẽ huyền lý diệu càng thêm đượm,
Năm tới chúc cầu lắm chuyện vui.

15 tháng 12 Quý Tỵ - tức ngày 19 tháng Giêng 1954.

 HẾT QUYỂN 1


Những Bài Thuyết Pháp Năm Giáp Ngọ 1954

  THÁNG GIÊNG:
29- Tây An Cổ Tự, Buổi Thuyết Pháp Ứng Khẩu ngày: Rằm tháng Giêng

Rằm Tháng Giêng Giáp Ngọ: Tại Sao Ta Phải Tu?

Pháp môn của Đức Thầy gồm có hai pháp: Học Phật và Tu Nhân.
Sở dĩ học Phật mà tu nhân vì đạo chúng ta thuộc hạng tại gia cư sĩ, nghĩa là tu tại nhà còn lo sanh hoạt cho sự sống trong gia đình và trong xã hội. Chúng ta chưa ly gia cắt ái như các nhà sư hay ni cô, nên về mặt đạo nhân cần phải giữ cho tròn vẹn. Trong chỗ tu hành, dĩ nhiên chúng ta phải biết vì đâu chúng ta phải tu?

Tu đây để làm gì và đến nơi đâu? Nghĩa là phải hiểu rõ lý do của sự tu và sự ấy phải nhứt định theo ý nguyện của mình, cũng như mình muốn đi đâu thì trước hết biết đường đi nước bước, từ đâu đến đâu, khi đi có mục đích và lúc trở về, về tới chỗ cũ được, như thế mới khỏi làm lỡ dở công trình.
Bữa nay chúng ta suy luận coi tại sao chúng ta cần phải tu:

“Nhìn Phật giáo mà tìm cái lý,
Coi tại sao ta phải tu hành”

Đức Thầy bảo mỗi người phải nhìn ngay giáo pháp của Phật để tìm rõ lý do: Vì đâu Ngài dạy chúng ta tu hành? Trong sự tu hành ấy, vì sự thống khổ xác chất giả hợp mà tu, vì danh lợi mà tu hay muốn được người đời tôn làm ông Tiên ông Phật mà tu.

Để trả lời câu hỏi tại sao chúng ta cần phải tu, tổng quát có ba nguyên nhân:
1-Nhờ gặp giáo lý chơn chánh mầu nhiệm của Đức Thầy;
2-Nhờ tin ở luật nhân quả rất nghiêm minh;
3-Nhờ nghĩ đến sự khổ của thân và ngày tận diệt của nhơn loại:


Nguyên nhân thứ nhứt: Sự tu của chúng ta là nhờ gặp giáo lý chơn chánh mầu nhiệm của Đức Thầy, vì trước kia chúng ta còn đang quay cuồng, giật bắt trong trường đời, năm này tháng nọ giam hồn xác trong chỗ mưu đồ tư lợi, tình ái lợi danh miễn sao tiền nhiều, nhà rộng, vợ đẹp hầu non, thêm nỗ lực vận động cho được chức trọng quyền cao, được kẻ thưa người dạ.

Ngoài ra, chúng ta chưa hiểu việc tội phước, chưa tin có địa ngục, Thiên đường, vì vậy việc làm nào của chúng ta cũng nhắm ngay hiện hữu thế gian mà thi thố. Rất may thay trong khoảng mê lầm ấy, Đức Thầy ra đời đem lời vàng ngọc viết trên giấy mực, cho bay liệng khắp vùng này đến vùng khác, chúng ta được đọc đến những ý nghĩa cao thâm, hiểu rõ kiếp người là giả tạm, trong thời gian sống rất ngắn ngủi, mà tạo bao nhiêu tội trạng chồng chất như núi Thái sơn, hốt nhiên, chúng ta sực tỉnh lại việc quấy phạm của mình đã làm vừa qua, bắt đầu ăn năn hối cải tu hành theo Phật đạo.

Nguyên nhân thứ hai: Sự tu của chúng ta là nhờ tin ở luật nhân quả rất nghiêm minh, sau khi đọc đến lời dạy bảo của Đức Thầy chúng ta nhận thấy: Đức Thầy dạy cho rất kỹ càng từ tạo nghiệp của người cho đến khi thọ báo, mỗi mỗi điều đúng đắn không sai chạy mảy nào, nghĩa là mọi việc gì ở trong đời, giàu sang nghèo hèn, mạnh khỏe tật bịnh, nhứt nhứt đều do tạo nghiệp kiếp trước hay kiếp này mà hưởng lấy, chẳng khác nào gieo ớt thì lên cây ớt, gieo đậu thì lên cây đậu, với việc phản ứng của nghiệp tạo như thế rất rõ ràng không sai chạy.

Chúng ta xét mình hãy còn làm tội thì ngày kia không khỏi sanh vào vào gia đình cùng quẩn, câm ngọng đui điếc mà còn có thể sanh vào loài vật là khác nữa và có điều chúng ta sợ nhứt là luân hồi lên coi trần nhiều lần, cứ chịu sanh, già, bệnh, tử hết đời này đến đời khác, cứ luôn luân luân chuyển chuyển mãi thì không khi nào hưởng cõi tiêu diêu khoái lạc và gần Tiên Phật được. Nghĩ như thế, chúng ta mới gấp rút tu hành, vừa trau giồí đức hạnh đầy đủ, thi thiết việc bác ái nhân từ, giúp nước thì thanh liêm, hành đạo thì lo tu bồi công đức rộng lớn. Và điều chúng ta cần trau sửa hơn hết là thân mình, miệng mình, ý mình giữ được thanh tịnh chơn chánh, không làm điều tà vạy, nói lời sai ngoa và không vọng khởi ác ý.
Nếu chúng ta làm được những điều tốt như thế, chắc không quả khổ nào trả lại.

Nguyên nhân thứ ba: Sự tu của chúng ta là nhờ nghĩ đến sự khổ của thân và ngày tận diệt của nhơn loại. Xét ra con người chịu lấy các sự khổ đều do có xác thân, có xác thân mới chịu lãnh các quả khổ đưa lại, nó là kho chứa các nhơ xấu.

Cũng vì xác thân con người quơ quào tạo tác các món để tô đấp cho nó, từ miếng ăn thức mặc, các vật gì của người ta chưng dọn tập tành thì nó muốn, so sánh cho được như vậy, nó đèo nài cái ý lo thêm như thế này, lo bớt như thế khác, nào là phải may cho mặc, sớm cho ăn. Bởi đó, mà bao nhiêu tội lỗi con người đều có thể làm hết mà chẳng chán ngán, chẳng sợ sệt cái quả khổ ở hậu lai.

Tuy dung dưỡng tưng tiu xác thân đến thế mà chỉ sống tạm thời, từ trẻ đến già, kế bệnh rồi chết, khi chết xác thân trơ như gỗ, ruồi lằn đục rỉa, rồi tiêu tan ra bùn ra đất là xong đời. Xét như thế, thấy xác thân con người là mộng huyễn, tuy có hình ảnh nói cười, nhưng khi thức giấc rồi chẳng còn thấy gì nữa cả. Và chúng ta còn nhận thấy xác thân không khác nào cầu xí, chứa đủ vật ô uế. Vì thế mà chán bỏ lòng trần gấp rút tu niệm.

Còn một điều khiến ta tu hành hơn nữa là quả địa cầu của chúng ta đang ở sắp sụp đổ, để quét sạch các tệ đoan từ lâu đời, để lập lại kỷ nguyên mới,. Nếu biết trước cuộc trần sắp tang điền biến vi thương hải, mọi vật không tồn tại, mà chúng ta còn cạnh tranh theo vật chất thì uổng lắm, công phu chẳng ích gì. Chi bằng chúng ta gấp rút tu hành, hướng về cửa Phật trau tâm trỉa tánh, cho không còn tội phạm và những điều phước đức, dù nhỏ lớn gì chúng ta cũng không bỏ qua, com kỉnh việc làm từ ngày này đến ngày khác, dầu cuộc thế có thay đổi cách nào, hay diêm vương có nghiêm khắc thế mấy cũng, chẳng hành khổ chúng ta được. Chẳng những thế, cảnh Tây Phương hay cõi niết bàn còn dành sẵn cho chúng ta an trụ.

Vẫn biết không quí xác thân tạm giả, nhưng để mất thì ngày kia chưa chắc kiếm lại được. Nếu bây giờ mình làm ác sau bị đọa vào súc sanh, địa ngục thì không dễ gì gặp Thầy, gặp Phật để tu hành được.
Do chỗ xét nghĩ ba khoản vừa qua, chúng ta không ngần ngại đến thọ giáo Đức Thầy hay tự đến trước bàn Tam Bảo quy y. Trong việc tu hành này, trước độ được chúng ta, kế đó cứu vớt được tổ tiên cha mẹ, chót hết tiếp cứu quần sanh thoát chốn mê đồ.

Nói tóm lại, sở dĩ chúng ta cần phải tu là:
-Trước hết nhờ gặp giáo lý của Đức Thầy, lời lẽ diệu dàng và ẩn ý thâm thúy, nhiệm mầu Phật Pháp khiến chúng ta cảm kích.

-Lẽ thứ hai là chúng ta nghĩ đến sự nhân quả không sai chạy một mảy nào, khiến chúng ta ngán cho việc làm tội của mình ngày kia không khỏi việc đau khổ.

-Lẽ thứ ba là điều của chúng ta lo nghĩ hơn nữa là đời sống của chúng ta tại mang cái giả thân này, trẻ rồi già, già rồi cổi, ngày tháng trôi qua không chờ ai. Nếu chúng ta lảng lơ chểnh mảng thì hoặc tử thần đến gấp không thể dời đổi ngày giờ lại để tu hành được.

Đồng thời, còn có việc đáng lo nữa là cõi hạ nguơn này sắp biến đổi, nhơn vật tiêu điều lập lại Thượng nguơn. Kẻ ngang tàn không còn, chỉ còn người hiền đức, nên chúng ta cần tu hành để nhờ ơn trên chúng ta đến cõi an lạc, và cứu được cha mẹ chúng ta và cứu được kẻ khác.

Cuộc đời chưa phải yên đâu,
Trên đường tu tỉnh khá âu cho thường.
Mỗi người khi đến giảng đường,
Ngồi nghe đạo lý thế dường ngủ say.
Say vì đạo lý thì hay,
Say vì mê ngủ thì nay quá tồi.
Hãy nên nghiêm chỉnh đứng ngồi,
Chăm tai, chú mắt *xét lời giả chơn.
Khi mình hiểu rõ nguồn cơn,
Thì đường đạo lý có phần sáng trong.
Ước sao người hãy chăm lòng,
Kẻo mà Tiên Phật luống công kêu gào.
Giảng đà lắm kệ *kíp bao,
Nhiều người để bụi ít lau không chùi.
Lại còn lắm kẻ không coi.
Nói quanh nói quẩn úm mòi lợi danh.
Vào trong nhà của chị anh,
Phần đông bàn Phật vắng tanh bụi mờ.
Chiều quên cúng lạy bao giờ,
Sớm thời ngủ tuốt thiên cơ chỗ nào.
Trông cho xuất lộ Nam trào,
Để mà chịu cảnh máu đào phải chăng.
Tu không kỉnh Phật kỉnh tăng,
Không lòng trọng pháp ăn năn chỗ nào.
Ai ôi ! Non nước dạt dào,
Giới điều đạo đức cần trau cho thường.
Mảnh gương lòng bụi chẳng vương,
Thì là trí huệ tỏ tường cho xem,
Trên cô bác dưới chị em,
Cùng chung một đạo đã xem một nhà
Nhớ ghi chữ hai Hảo Hòa,
Cho toàn cho đẹp mới là thật tu.
Đừng bôi lấm chớ lo lu,
Mới là chẳng uổng công phu mai chiều.
Tu mà muốn bạc cho nhiều.
Muốn nhà cho lớn là điều phàm gian.
Tu thì chẳng thể tham sang,
Chỉ mê say chữ Phật đà đấy thôi.
Có tiền của chẳng bạc vôi,
Hãy đem vùa chúng cho người túng cơm.
Nay đường đạo hạnh còn thơm,
Người trau được chánh sẽ phần thanh cao.
Bây giờ không chịu chùi lau,
Để ngày lâm nạn khó âu tín thành.
Người tu chớ nệ nhọc nhành,
Có lao lý mới đắc thành siêu cao.
Nghĩ suy tường tận trước sau.
Cuộc đời càng lúc qua mau mỗi ngày.
Mới năm cuối sang măm này,
Khổ sầu trong nước dẫy đầy chưa yên.
Nếu toàn dân chúng làm hiền,
Cùng thương nhau ắt khỏi phiền khỏi lao.
Đành rằng lo việc đồng bào,
Phải dùng nghĩa cử nở nào dã man.
Lấy đạo lý để sửa sang,
Làm cho dân chúng nhàn an mỗi ngày.
Được người mến lo chuyện dài,
Hẵn là không bị những ngày chán chê.
Thế nên thành thị thôn quê,
Đạo đồng ai cũng phải về đường chân.
Lấy đạo lý để kết thân.
Rồi ra phụng việc Tứ Ân mới tròn.
Vì nay lắm kẻ lòng mòn,
Ngoài hơi gượng gạo trong dồn chề ê.
Chẳng còn hôm sớm trau tria,
Để đem lẽ chánh ngày kia thật hành.
Nhưng mà hãy tự xét mình,
Nếu không toàn thiện thì rinh ra ngoài.
Giữ cho từ phút từ ngày,
Tránh sao khỏi việc chẳng ngây nơi mình.
Mỗi khi lòng được bạch trinh,
Việc làm chơn chánh thần linh hộ trì.
Đường dài lòng cố gắng đi,
Kiếp chầy ắt cũng có khi đến nhà,
Chừng ni mới toại lòng ta,
Kẻo mà lạc lối Ta Bà bấy lâu.
Trên Ngọc Khuyết chốn Kim Lâu,
Mẹ cha trông ngóng con chầu trước ngai.
Nhưng buồn lại việc xưa nay,
Thời gian đăng đẳng mấy ai trở về.
Nghĩ cùng dạ ủ lòng ê,
Gọi kêu nhau phải quay về sự tu.
Tu là sửa kẻo mờ lu,
Sớm công lạy Phật chiều phu sám thường.
Trau tria vẹn chữ hiền lương,
Ngày sau ắt được mùi hương ngạt ngào.
Chưa xem thấy ánh Nam trào.
Lòng người còn mãi rạt rào chưa tin.
Có nhiều kẻ thích chuyện linh,
Sa lầm tà quỉ yêu tinh quá nhiều.
Đức Thầy dạy rõ mọi điều,
Vô Vi chánh đạo sớm chiều rán trau.
Tuy không sắc cũng không màu,.
Ngày kia sẽ được quý cao trên đời.
Ai xưng Phật hoặc xưng Trời,
Tài hay phép lạ người đời chớ tin.
Rán nên gìn vẹn phận mình,
Xong rồi ắt có tịnh bình rưới cho.
Không trồng trọt muốn được no.
Là điều ắt khó được cho bớ người.
Làm hung mãi được sống đời.
Thì người lương thiện ai thời chịu tu.
Người không rèn việc công phu,
Lại mong thành Phật ngao du cõi ngoài.
Khác nào những kẻ dại ngây,
Đói mà ăn cát, khát nay uống dầu.
Hãy nên khuya sớm tu cầu,
Lòng rèn chơn chánh việc hầu thẳng ngay.
Lời Tiên Phật chẳng nói sai,
Chỉ hềm dân chúng ngơ tai quá nhiều.
Người quên gìn giữ qui điều,
Trời kia bóng đã xế chiều khá ư.
Sợ gì gặp cảnh âm u,
Lo gì Phật chẳng chứng tu cho mình.
Đã trôi qua hết Tị Thìn,
Bước sang Ngọ thấy ình ình chưa ngưng.
Càng sóng bủa càng dửng dưng,
Khác nào giật đảo lưng chưng giữa dời.
Sợ nguy hại cả con trời,
Chớ lo tranh cướp của người để khoe.
Đời xem mỏng tợ màn the,
Mà người sao chẳng lóng nghe được rành.
Tu thì cần phải thiệt hành,
Ngày kia sẽ được đắc thành chẳng không.
Muốn cho được dự Hoa Long,
Nay đây hãy khá lánh xong tệ đời.
Bao vật chất lắm đua bơi,
Trơ tai lánh mặt khỏi nơi hoạn sầu.
Tục trần đeo đuổi lo âu,
Ngày ắt phải biển sâu thân trầm.
Đời Nguơn Hạ có Quan Âm,
Vãng lai cứu kẻ hữu tâm tu hành.
Gặp nguy nạn được yên mình,
Ấy là nhờ nước tịnh bình biết chưa.
Tuy trời đất rộng lưới thưa,
Mắt thần soi khắp cùng trưa lẫn chiều.
Ai công ít ai phước nhiều,
Đã xem cạn kỹ mọi điều phân minh.
Người chánh tánh được huệ linh,
Kẻ tà tông phải âm binh vây chừng.
Khi rốt việc khổ muôn phần,
Không mang tên đạn cũng lần ốm đau.
Nhiều bệnh ngặt, chữa làm sao,
Thuốc dầu đầy đống dễ nào trị cho.
Tu là việc quá thơm tho,
Nếu không rèn chí gay go cho người.
Tuy yên tịnh chưa nên cười,
Bởi quanh vùng khắp mọi người chưa yên.
Định Hòa dân được hữu duyên,
Ở yên lại có lời khuyên mỗi kỳ.
Nhưng lòng không vẹn đạo nghì,
Sau này lao khổ còn chi sánh bằng.

(Liên Hoàn Thi)
Đồng đạo giữ lòng lẳng lặng yên,
Nghe cho rõ việc Sĩ Thanh khuyên.
Một là chánh kiến hay tâm chánh,
Trong khắc giờ luôn sửa tánh hiền.

Tánh hiền quý giá có gì đương,
Lúc sống được người thảy mến thương.
Khi thác linh hồn đăng Bỉ Ngạn.
Thế là khổ ách chẳng còn vương.

Chẳng còn vương vấn nỗi tai ba,
Sáu nẻo trần ai cũng thoát ra.
Thế mới đáng tôn danh Phật tử,
Hỡi người ! Hãy rán vẹn tinh ba.

Lời khuyên đây gẫm đã nhiều,
Nghe rồi người hãy lựa điều chánh chơn,
Chánh chơn khi được xong rồi,
Hẳn là có vị có ngôi sẳn dành.
Đến đây đã dứt lời lành,
Chào người đồng đạo tâm thành lui chơn.

Tây An Cổ Tự, Ngày Rằm tháng Giêng Giáp Ngọ (Tức 17-2-1954).
30- Tây An Cổ Tự, Buổi Thuyết Pháp Ứng Khẩu ngày : Rằm tháng Giêng (tiếp)

Rằm Tháng Giêng Giáp Ngọ (tiếp theo): Bốn Tướng


PHẬT lực gia trì khắp chúng sanh,
GIÁO truyền chánh pháp cứu con lành.
HÒA môn thiền tịnh tu nhân Phật,
HẢO hạnh tam Nguơn đạo đắc thành.

Chào tất cả đồng đạo nam nữ,
Kỳ rồi tôi giảng về tâm vọng sanh của chúng sanh. Hôm nay tôi xin giảng về “Bốn Tướng”: Nhơn tướng, Ngã tướng, Chúng sanh tướng, Thọ giả tưởng.

1- Nhơn tướng: Là lòng phân biệt người và của người, không phải mình và của mình. Do lòng phân biệt ấy mới có lắm kẻ sanh lòng tham lam của người khác và đan tay giết hại người khác vì quyền lợi, vì cá nhân, nhứt là vì điền sản, ái tình. Nghĩa là họ muốn cướp đoạt cái gì của người khác đã có, mà họ không có, để cho họ được ăn sang, mặc đẹp, tử ấm thê vinh, phó mặc cho nạn nhân của họ chịu khóc đứng than ngồi, miễn là họ được thỏa lòng tham muốn.

2- Ngã tướng: Là lòng tự tôn lấy mình, lúc nào cũng muốn cho mình được cao quyền, lớn thế hơn kẻ khác. Nên có đủ cách hiếp chế bóc lột kẻ khác một cách bất công, nghĩa là họ làm tất cả những việc gì có lợi riêng cho họ, mặc dù việc làm ấy đầy dẫy tội ác xấu xa, gieo rắc tai họa đau thương cho mọi người, nhưng họ không lấy đó làm hối hận.

Đó là hai tướng của hạng người đã phấn đấu giữa trường đời.
Còn hai tướng dưới đây là của hạng người đang ở trong cửa Đạo.

3- Chúng sanh tướng: Là khi thức tỉnh tu hành, lại chấp rằng cõi Ta Bà là thống khổ, mọi việc là dối ma, cứ ngồi lim dim cầu được giải thoát cho riêng mình, chẳng chịu tìm cách cứu vật độ nhân, không hề thiết tưởng đến điều lợi dân ích nước.

Hạng người này bị lòng câu chấp, tiêu cực quá hẹp hòi, nông nổi nó ám ảnh họ, trói buộc họ mất hết đức tính giác tha không tương phù lòng Đại Bi của chư Phật.

4- Thọ giả tướng: Là trong lúc hành đạo, khởi lòng vọng chấp kiếp sống của chúng sanh rất ngắn ngủi, mong cầu được về cõi niết bàn hay sanh lên các cõi trời, để hưởng kiếp sống lâu dài khoái lạc hơn. Ngoài ra, không nghĩ đến sự thống khổ của chúng sanh, đang bị sự trừng phạt của thần chết, để lập nguyện rộng lớn đặng cứu vớt họ.

Bốn tướng trên đây, chẳng một điều xứng hợp với chủ nghĩa từ bi, nó chỉ làm cho hột giống tự tha bình đẳng bị hư ngòi úng mộng, trở lại tính cách “Độc Thiện kỳ Thân”. Vả chăng, nếu còn lòng nhơn ngã thì còn tánh tham sân, nếu tánh tham sân còn thì tội ác còn, mà bao cảnh huống luân hồi sanh tử cũng đều cho đấy sanh ra, cũng như lòng coi thường chúng sanh ắt dễ phạm tội sát sanh, lòng xem nhẹ thọ mạng dễ phạm tội ngạo mạn.

Nếu muốn giải thoát mà còn một ý nghĩ cao thấp, sanh lòng ghét thương, chỉ thêm sự trói trăn cho mình, chớ có bao giờ giải thoát được. Không phải nói thế, mà người tu hành không biết việc khổ vui, thương ghét, thấp cao. Nhưng họ không để cho cái biết ấy có ranh giới phân biệt, nhứt là họ rất biết rõ cái khổ của chúng sanh và cái mạng sống ngắn ngủi của mọi loài ở cõi Ta Bà, không bì được cõi thánh chúng ở các cõi Phật mười phương.

Nhưng họ chỉ tinh tấn tu hành cho được tỏ ngộ chỗ mầu nhiệm của Phật Pháp. Nói rõ hơn, họ làm cho họ được giải thoát, rồi họ đem cả thân mạng tâm đức của họ sống bên cạnh chúng sanh, để tìm phương cứu vớt. Tuyệt nhiên họ không yên ngồi nơi cõi niết bàn tịch tịnh trong lúc chúng sanh còn sanh tử luân hồi.

Thưa quý đồng đạo,
Đành rằng giữa buổi Hạ nguơn này, trong nhân sanh ít ai không tham, không giận. Nhưng khéo biết sử dụng cái tham cái giận ấy thì khỏi phải tội, nghĩa là nên tham những việc lành, để cố gắng thật hành cho được rộng lớn, nên giận những điều ác độc nơi mình, để cương quyết tiêu trừ cho sạch cả. Nếu được tham ấy, cái giận ấy thì đạo quả sẽ cao, đức hạnh sẽ lớn, trí huệ thêm sâu và chẳng trái chơn lý. Nhược bằng, đi ngược lại cái tham cái giận này, thì càng lúc càng chất chồng thêm tội lỗi, vì nó chỉ tham tài, tham sắc, tham quí, tham quyền cho riêng mình mà gây lắm nghiệp ác.

Bởi thế cùng thời cầm dao, mà kẻ thì chít cỏ làm ruộng nuôi sống nhơn dân, còn người lại sát sanh hại mạng, gây khổ cho người đời.

Đức Phật thấy chúng sanh không biết dụng tâm vào đường thiện, nên Ngài nhũ lòng từ bi, phương tiện giảng giải đủ cách, cho kẻ thượng căn hạ trí đều có thể tu tập được cả. Việc tu tập ấy, mỗi người tự hiểu tánh mình, tự hành tâm bình, tự sửa thân mình bằng cách nào cũng được, miễn là không trái đức độ từ bi.
 
Từ như thế nào? Bi như thế nào? Từ có nghĩa đem lại sự an vui cho tất cả chúng sanh, Bi có nghĩa là cứu vớt mọi thống khổ của chúng sanh. Cái tình Từ Bi ấy được đặt trên sự bình đẳng, nghĩa là nó không bị tình cảm của gia đình quyến thuộc; của bạn bè cá nhân làm giới hạn.

Giả sử nếu mỗi người đều có cái tình ấy, thì cả chúng sanh nơi cõi Ta Bà này không còn nạn binh lửa, không còn cảnh bóc lột, không còn sự lấn hiếp giữa người với người, thì dầu không cầu về cõi Cực Lạc, cõi Cực Lạc cũng hiện đến tức khắc.
 
Trái lại, nếu người ta cứ mãi chất chứa lòng nhơn ngã ái ố, nghĩa là không có tánh từ bi, thì cõi đời này không khác cảnh lao tù nơi hình phạt, không tìm thấy một mảy chân hạnh phúc. Vì rằng thử trông qua gương mặt của mỗi người sẽ thấy rõ, không một ai chẳng lộ vẻ tư lự của sự thương ghét và không một ai không có kẻ thù. Như vậy thì kiếp sống của con người chỉ thấy đầy hãi hùng, đầy nhỏ mọn, mà bày lắm trò chen lấn dại khôn, đâu đáng cho kẻ trí đắm mê lưu luyến.

Thưa quý đồng đạo,
Cũng vì cảnh hãi hùng ấy. Nên Tiên Phật muốn gần gũi chúng sanh, đem lời lẽ chơn chánh cao diệu dạy cho mỗi ai, đều cũng biết yêu lòng nhân từ, biết đến đức vị tha, để cứu độ lẫn nhau đi đến cõi toàn thiện.
Trong số Tiên Phật ấy, Đức Thầy của chúng ta là một, Đức Thầy của chúng ta vì quá thương yêu chúng ta từ lâu rấm mình trong cõi trược và sắp phải tận diệt, nên Ngài ra đời với mục đích dạy dỗ chúng ta cải ác tùng thiện, biết thương yêu lẫn nhau như con một cha, biết chan sớt cùng nhau như hoa lẫn lá, hầu giúp cho cảnh sống trở nên an vui, sau khi thác linh hồn khỏi phải đọa vào ác đạo.

Do ý niệm này, Đức Thầy của chúng ta không quản vào sanh ra tử, để làm mọi việc có ích lợi cho sự cứu độ chúng ta.
 
Hôm nay, Đức Thầy vắng mặt trong thời gian chưa bao lâu, mà trong đoàn thể của chúng ta đã xảy ra biết bao cảnh xẻ chia tàn hại, chỉ vì quyền lợi cá nhân hoặc bất đồng chánh kiến, mà quên đi cái đức độ nhiêu dung và đồng đạo. Do việc làm này, làm mất rất nhiều tinh thần thiêng liêng và tâm hồn tinh túy của người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo.
 
Để chuộc lại những điều lỗi lầm ấy, từ đây trở lại sau, trong đạo chúng ta, mỗi người hãy trở về quyền lợi công cộng toàn khối và lòng tha thứ được tăng gia, để quên đi những sự thù hằn trước kia, hầu nối lại tình tương thân tương ái như buổi đầu, và một điều tới đây rất cần, là khi chúng ta nói lành thì phải biết làm lành, không nên cao rao sự lành ở đầu môi chót lưỡi, mà kỳ thật bên trong không thiết đến sự ích lợi cho ai.

Nếu sự nói làm của chúng ta được hiệp nhứt như thế, thì chúng ta không mất phần thưởng đáng quý của Đức Thầy trong lúc trở lại và ngày kia dù chúng ta không tìm Đức Thầy thì Đức Thầy cũng tìm chúng ta, vì chúng ta là một tín đồ trung thành, một đứa con hiếu thảo.

Trái lại, trong việc lầm lỗi chúng ta không biết chừa bỏ, cứ nhắm mắt làm càn, thì không những chúng ta bị sự trừng trị của luật hình thế gian, mà còn phải trải qua cuộc răn phạt của chư vị thánh thần, còn việc gặp Đức Thầy thì hẵn không bao giờ gặp được:

Phật Pháp siêu mầu lắm thế gian,
Từ đây theo đuổi một con đàng.
Dẫu rằng cách trở sơn xuyên mấy,
Cũng nguyện thành công rỡ bốn phang.


Thưa quý đồng đạo,
Trong chỗ tu hành, dĩ nhiên phải gặp lắm chướng ngại, có chướng ngại mới thiệt hiện được lòng cương quyết, đức hy sinh theo mục đích cao cả. Nhược bằng trên con đường tu hành vẫn được suông sẻ, thì lấy chi gọi là công phu và lấy chỗ nào để chứng minh lòng nhẫn nại của mình. Bởi vậy, hễ càng gặp chướng ngại nhiều chừng nào, thì càng phải tinh tấn nhiều chừng nấy, có thế mới thành công đắc quả được.
Tóm tắt, bài giảng hôm nay khuyên tất cả chúng ta dứt sạch lòng nhơn ngã, để tránh sự tham sân, diệt bỏ lòng yếm thế, để phổ cập đức từ bi rộng lớn và không lòng ích kỷ trong sự cầu đạo giải thoát, để thật hiện lòng tự giác giác tha. Trong việc làm này, cố nhiên phải gặp lắm khó khăn, nhưng chẳng vì đó mà thối chí. Đến như gặp ngoại cảnh thử thách, hãy đem nghị lực mạnh mẽ lướt qua, lướt qua cái nầy, lướt qua cái khác, tức nhiên đến được cõi niết bàn và con quỉ vô thường không dám bén mãn đến nữa.
 
Ai Người Thật Chí (Tứ tuyệt Liên huờn thi)

Lẽ phải luôn luôn được giữ còn,
Hẹn ngày hiệp mặt nước cùng non.
Ai người thật chí theo đường chánh,
Kiếm huệ hôm nay chớ để mòn.

Để mòn lao khổ lắm người ơi,
Tiên Phật cho hay đã tận đời,
Non nước chứa chan bầu huyết lệ,
Sao mà dân chúng cứ ăn chơi.

Ăn chơi trong lúc nước can qua.
Chưa được vui vầy ớ bá gia,
Rán đợi thần tiên oai lực trổ,
Sẽ tường pháp diệu của Tiên Gia.

Tiên Gia từ ái chẳng rời lòng.
Nhưng mãi chờ nghe lịnh Hóa công.
Khi được tiếng bon giờ khắc đến,
Cũng vung tay kiệt cứu Con Rồng.

Con Rồng lâm phải biển sông khô,
Chỉ cậy thần tiên dựng nghiệp đồ,
Hòa hiệp vạn dân gây phúc lợi,
Để bày thiện nghĩa đạo Hư Vô.

Hư Vô không ảnh với không hình,
Nhưng chứa đầy đà phép *nhiệm linh,
Ỷ xuất ở nơi cơ cảm đến,
Ôi người cẩn trọng chớ tâm khinh.

Tâm khinh ắt phải họa sầu lâm,
Chừng ấy mong gì cải hóa tâm,
Ớ hỡi thiện nam cùng tín nữ,
Hãy bền theo đuổi lẽ huyền thâm.

Huyền thầm tiềm ẩn ở tâm phàm,
Bất luận từ già chí nữ nam.
Khi giữ tâm bình cùng trí tịnh,
Tức thì kiến huệ cảnh Già lam.

Già lam tự tánh chẳng đâu xa,
Chỉ bị vô minh án bóng lòa,
Khi lặng sóng trần tan nghiệp chướng,
Rõ ràng Phật nó tức tâm ta.

Tâm ta là Phật Phật là ta,
Hãy trở lại tìm kẻo lạc xa.
Bổn thiện chặc gìn như ấp trứng,
Lo chi chẳng được gặp Di Đà.

Tây An Cổ Tự, Ngày Rằm Tháng Giêng Giáp Ngọ (17-2-1954).
  THÁNG BA:
31- Rằm Tháng 3 Giáp Ngọ: Ba Hạng Người

Rằm Tháng 3 Giáp Ngọ: Ba Hạng Người

PHẬT ứng thân phàm tại Bảo Giang,
GIÁO trần nức giọng của Kim San.
HÒA bình xây dựng trong chơn lý,
HẢO hiệp muôn dân lại một đàng.

Chào tất cả đồng đạo nam nữ,
Cả thảy chúng sanh từ trước đến nay, có thể phân ra làm 3 hạng:
-Một hạng người thiện;
-Một hạng người ác;
-Một hạng người không thiện không ác.


Hạng người thiện thì lúc nào cũng lo làm những việc phúc lợi cho nhơn sanh, nào là đem tài vật của họ cung cấp cho những người lỡ cơ hoặc những kẻ khốn nạn, những tài vật của họ đem giúp đỡ cho kẻ khác, là do lòng thương xót người kia cũng như họ, chứ không ẩn tâm mưu việc hậu lợi và không khi nào họ nhớ đến số lượng của đồ vật đã giúp.
 
Nhứt là họ không muốn cho người kia biết ân và trả ân.

Trên đó là phần của cải, còn phần lời nói thì họ luôn luôn đem đạo lý nhiệm mầu của chư Phật truyền lại, mà giải bài cho người khác hiểu rõ chơn lý, tin ở luật nhân quả để tránh điều lỗi lầm sai phạm, hầu cứu họ khỏi bị trả báo đau khổ, lại tránh cho kẻ khác khỏi bị sự gây hại của họ. Trong lúc dùng lời nói để đánh thức kẻ khác, họ tùy trường hợp hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, nghĩa là hoặc họ nói ngay với người ấy hoặc là kẻ khác nói lại. khiến cho người kia hồi đầu hướng thiện.
 
Ngoài lời nói, họ còn có những việc làm cao cả hơn nữa, là đem thân phụng sự thiên hạ trong việc làm lợi ích, họ lấy cái chết để làm được việc nhân, họ quên lợi riêng để thi thố được việc nghĩa, họ thành thật và chịu lao nhọc trong việc làm lợi lạc cho người khác, mà chính họ không có thu lợi gì cả.
Với đức hy sinh ấy, nếu chưa được hài lòng, nghĩa là họ chưa làm được rộng lớn hơn, đầy đủ hơn thì họ càng cố gắng thêm, cố gắng để làm tròn nhiệm vụ của chơn tâm họ giao phó, họ không vì cực nhọc, không vì nhạo báng, làm mòn mõi ý nguyện giúp đỡ kẻ khác.

Nói tóm lại, con người có tánh thiện thì việc làm lời nói của họ có tánh cách kiến tạo phúc lợi, cho kẻ khác được no cơm ấm áo, sống vững ở yên, kèm theo một tinh thần đạo nghĩa chơn chánh.

Hạng người ác thì luôn luôn chủ trương điều ác, về mặt của cải thì họ lúc nào cũng mong chiếm đoạt của thiên hạ, đối với kẻ khác họ bao giờ cũng muốn sống đầy đủ hơn, sang trọng hơn, no ấm hơn, quí quyền hơn, dù rằng kẻ khác đã phải vì họ mà chịu khổ, họ cũng xem bằng thường.
 
Đó là về lòng tham của cải.
Còn về lời nói thì vì sự ích kỷ, vì lòng ác độc mà nói ra những điều gắt gây, cay đắng, nghĩa là lời nào cũng ẩn sự độc ác xấu xa trong ấy. Đến như việc làm của họ, thì luôn luôn hành động tổn hại mọi người bằng cách này hay cách khác, mặc dù nó rất trái lẽ công bằng, miễn là đem lại cho họ những món lợi nhiều ít gì cũng được.
 
Ngoài ra, do tâm ác của họ biểu lộ ra cử chỉ, từ việc đi đứng đến tiếng nói giọng cười, đều dàn dạn những cái gì tàn nhẫn.

Hạng người không thiện không ác thì có tâm hồn rong bóng, gặp người thiện không học theo, gặp kẻ ác không ngăn tránh xem việc lành việc dữ như nhau, chẳng quí trọng điều lành để làm, không chán ghét việc dữ để tránh, chỉ sống một cách ngơ ngơ đầy dẫy như kẻ không hồn.

Những kẻ này chẳng giúp ích cho ai cả mà chỉ có hại cho người khác, vì thêm một miếng ăn, nhứt là họ chẳng làm vinh hiển cho tổ tiên họ trong những việc làm công nghĩa hoặc cứu vớt.

Trong ba hạng người kể trên, chỉ có hạng người thiện là đáng được tôn kính, đáng được học đòi và đáng sống theo, họ sống có ích cho nhơn quần xã hội, họ đáng làm gương mẫu cho bao nhiêu người khác, họ là một con trội cho bao linh hồn thoái hóa, họ là một chiếc thuyền của khách sang sông, họ sống tức là thiên hạ sống, họ có thể là ân nhân là bản thân của mọi người, họ lại cơm là sữa giúp vào sự sống cho thiên hạ, họ là một ngọn đèn, họ là một mảnh gương, họ là một đóa hoa, giúp cho thiên hạ được hạnh phúc.

Vả lại, trong thời loạn lạc chiến chinh muôn dân đồ thán, trăm họ đảo điên, kẻ xa cha người mất mẹ, muôn nỗi túng rối dồn dập, ngàn việc khúc chiết đổ xô, thì hạng người thiện lại càng đáng được sống còn hơn nữa, vì họ chẳng phút nào quên sự giúp đỡ người nguy biến.
 
Như chúng ta đã biết, đức độ của hạng người thiện như thế nào rồi, thì bây giờ chúng ta nên học theo, làm theo. Nhưng muốn làm theo gương hạnh ấy, chúng ta cần nhắm ngay gương của Đức Phật Thích Ca, xả thân cầu đạo, xả phú cầu bần, chịu khổ để độ chúng sanh. Vì Đức Phật trước khi cứu đời, Ngài đã quên lợi riêng, Ngài xem các cuộc vinh hoa phú quý của các bậc vua chúa như là tro bụi, xem vàng bạc châu báu vô giá như sạn sõi, xem hàng lụa tố sô như vẻ rách. Ngài chỉ xem tấm lòng thanh tịnh một mực không ham muốn tục lụy ấy là chân lý.

Do chỗ quan sát đó, chánh kiến đó mà Phật lìa đền vàng điện ngọc, lìa vợ đẹp con cưng, chẳng màn kẻ hầu người hạ, băng rừng vượt núi tu hành chứng quả. Nhờ thế mà Sĩ Đạt Ta được húy hiệu là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Trái lại, đã có lắm người không nhận thấy chỗ hy sinh cao cả của Đức Phật để học đòi. Trong lúc chưa có địa vị, muốn làm sao cho có địa vị, khi có địa vị rồi thì tôn trọng nó mãi, không có của cải muốn cho có của cải, khi có của cải rồi thì ôm ấp gìn giữ, lúc mặc vải bô thì muốn có hàng lụa, khi có hàng lụa thì lại muốn thêm vòng vàng và những món đắt tiền, nghĩa là họ chỉ xem vật trên thế gian là trường tồn vĩnh cửu, không hề biết chán.

Do đó, tâm ác càng lúc càng lừng lẫy, từ lỗi nhỏ mọn kết thành tội lớn, chất chồng thành non. Thế nên cứ chìm lĩm mãi trong biển khổ. Bây giờ chúng ta hãy dẹp bỏ lòng ham muốn như thế đi, thì chúng ta sẽ được gần Đức Phật và có thể thành đạo như Ngài.

Thưa quý đồng đạo,
Vì Đức Thầy muốn đem chúng ta trở lại con đường lành, nên Ngài đã dạy chánh lời, chúng ta cần phải tin tưởng mạnh mẽ và thực hành từ việc một.
 
Tuy Đức Thầy vắng mặt, nhưng còn có Sám giảng của Ngài sờ sờ trước mắt, qui điều cấm giới, cách thức tu hành có đủ trong đó, chúng ta cứ tự làm lấy sẽ đạt được đến mục đích.

Vì kệ cơ Sám giảng đó chính là bản đồ cho chúng ta tìm phương hướng đến địa điểm niết bàn. Nếu chúng ta không do đó tu hành chính chắn, thì dù có ở trong đạo suốt cả muôn ngàn kiếp, cũng luống công vô ích.

Tóm tắt bài giảng hôm nay, trưng dẫn ba hạng người: Thiện; ác; không thiện không ác. Chúng ta hãy luôn luôn đứng hẵn bên hạng người thiện, chúng ta có thể vui làm việc thiện dù chết, vui làm việc thiện dù nát cửa tan nhà, làm một cách chơn thành và quả cảm, kỳ vọng ở sự giải thoát và gặp Hội Long Hoa.

Rán Mà Đi (Tứ tuyệt Liên huờn)

Đạo vốn nơi hành rán nhớ ghi,
Tu thời phải được thật hành y.
Thệ cùng Đức Phật và Quan Cựu.
Bội phản thân không sống đến kỳ.

Đến kỳ Đức Phật mở Long Hoa,
Sen báo hư không hiện mấy tòa.
Thảnh thót lời mừng vì Thánh Chúa,
Hết hồi đau khổ đến nhàn ca.

Nhàn ca sánh kịp thuở Nghiêu Vương,
Khỏi phải gặp vua Kiệt đón đường.
Nỗi khổ đổi vui trăm báu lạ,
Phen này ngựa ý khéo cầm cương.

Cầm cương kẻo nó lạc sa đàng,
Luống uổng công tu luống vái van,
Một phút sa đà muôn kiếp khổ,
Gìn lòng chớ bỏ bớ nhơn gian.

Nhơn gian nào khác chốn lao tù,
Sống chết chen vào quá rối bu,
Vua chúa tướng quan rồi cũng bỏ,
Chỉ thành được đạo mới ngao du.

Ngao du bốn hướng toại lòng thay,
Tùy nghiệp tùy duyên cứu vạn loài.
Khỏi phải nghiệp mê vây chặc xác,
Được nhàn lại tịnh quá vui say.

Vui say thiên tử khác phàm nhi,
Nhưng kẻ trần tâm có hiểu gì.
Chỉ tưởng khoảng không không một giấc,
Nào dè Tiên Phật ẩn huyền vi.

Huyền vi buổi chót Đức Thầy cầm,
Ấy bởi sắc phong tại Lôi Âm.
Kẻ phản gươm linh ba thước trị,
Đâu còn hồn xác mãi lơi tâm.

Lơi tâm khốn nạn lắm quần linh,
Kỳ chót nghiệp oan mặc chống kình.
Nợ trả đừng vay thời mới rảnh,
Còn đeo thêm nữa khổ muôn nghìn.

Muôn nghìn lao lý vẫn còn lung,
Giặc giã bây giờ đã tứ tung,
Sống tợ như rều trôi giữa bể,
Sao còn cứ mãi tánh hành hung;

Hành hung kẻ khác mặc đua làm,
Ta đã nương mình ở cửa Lam.
Hôm sớm lấy ngay trừ kẻ vạy,
Muốn là sống vững gốc trời Nam.

Trời Nam Phật lực chuyển xây cho,
Mức ấy thần tiên đã hẹn hò.
Chỉ tiếc tâm trần sao nóng vội,
Lại đành thêm lảng bắt luôn lo.

Lo cho đồng đạo trước thì đông,
Sau thả trôi theo nước mấy dòng.
Tới chỗ ngoái xem rơi lớt thớt,
Khiến buồn cả thảy Phật Tiên ông.

Phật Tiên buổi chót rán lâm trần,
Để lập hội thi định bảng thần.
Tùy đức tùy công phong tước vị,
Mới thành hoa hội hội Long Vân.

Long Vân Hội ấy ấy trường thi,
Tôi chúa gặp nhau có một kỳ.
Vinh diệu chi bằng non nước cũ,
Hỡi người dương thế rán mà đi.

Rán đi thỏa chí mấy muôn thu,
Những hạng phò bang đến kẻ tu.
Thảy gặp chúa hiền và gặp Phật,
Thật là chẳng uổng cái công tu.

Lời lành khá rót vào tai,
Tiếng khuyên đồng đạo ai ai rán gìn.
Sợ lo thì phải sửa mình,
Giữ gìn cho được cội lành chớ buông.
Ngày nay lòng rối gỡ suông,
Sau này ắt được nước nguồn ma ha.
Một khi Thầy trở lại nhà,
Thì trong bá tánh trẻ già hết lo.
Bây giờ gặp lúc gay go,
Cũng như đến bến không đò ngại thêm.
Nếu êm thì thảy đồng êm.
Còn như gặp loạn hợp tìm lối ra.
Đành rằng phải dụng sức ta,
Nhưng lòng cần đến Phật Đà cứu nguy.
Con lành nương cửa Từ bi,
Sớm hôm lòng vẫn A Di niệm thường.
Mỗi ngày đốt mấy tầng hương.
Bàn thờ, bàn Phật với bàn thông thiên
Ấy là sanh chúng giao duyên,
Cốt nương oai Phật khỏi phiền khỏi đau.
Gặp khi Nam Bắc máu đào,
Rèn lòng tu niệm trước sau một đường.
Người lành ắt Phật phải thương,
Thương thì hộ giúp khỏi đường chông gai.
Kẻ hung ắt gặp họa tai,
Bởi loài quỉ mị chực ngay trong lòng.
Thương nhau gặp chữ cay nồng,
Đức Thầy vắng mặt đạo đồng ngẩn ngơ.
Giảng kinh lật đọc nhiều tờ.
Có người tâm trí mù mờ chưa thông.
Nên chi lắm việc bất công,
Thường hay xảy đến khắp trong xóm làng.
Làm sao trí hóa mở mang,
Để tìm hiểu lý Phật đàng ra sao.
Đạo Phật thẩm lại thật cao,
Rộng sâu khó lượng hãy mau kiếm tìm.
Phải suy cổ rán nghiệm kim,
Xưa sao nay vậy nên tìm mà coi.
Làm sao cho hiểu rạch ròi,
Để theo dấu được cốt nòi Rồng Tiên.
Xưa kia tuy cũng làm hiền,
Mà hay giữ được ổn yên cõi bờ.
Bởi xưa đạo lý không mờ,
Còn nay nhân nghĩa mỗi giờ mỗi lu.
Ngay như những việc công phu,
Là điều dễ gặp người đâu mấy cần.
Lo trang nó điểm xác thân,
Cho sang cho đẹp quả phần dục thôi.
Ngoài ra đức hạnh không bồi.
Đạo mầu chẳng kiếm cho rồi bớ dân.
Thương nhau muốn được trước phần.
Đồng ngôi đồng thứ đồng lần khỏi mê.
Nên khuyên liệu sớm quay về,
Con đường chánh đạo mọi bề tốt xinh.
Phải cần thêm mạnh đức tin.
Tin Thầy chẳng bỏ Phật gìn không quên.
Tin người làm phước làm duyên,
Ắt là được phước trả đền sung vinh.
Phải tin những kẻ nghịch hành.
Có ngày trả quả tan tành thây thi.
Nên tin tiếng nói từ bi;
Không hề dối gạt ai thì mảy mai,
Nhớ rằng đau khổ kiếp này,
Bởi thân kiếp trước đã gây quá nhiều.
Nay ta giữ chính luật điều,
Còn chưa đủ sức trừ tiêu thay là.
Cần làm phước đức thêm ra,
Lập nhiều công nghiệp thời qua khỏi nàn.
Từ đây mọi xóm cùng làng,
Đua nhau làm phải bạc vàng chớ đua.
Ngay như địa vị nhà vua,
Đến ngày chết mất tay *tua không còn.
Huống chi dân thứ tôi con,
Giàu sang bạc chất bằng non chẳng rồi.
Hãy nên cội phước vun bồi,
Để chờ nảy lộc đâm chồi hưởng an.
Nhắc qua cái kiếp trần gian,
Thật là kiếp khổ muôn vàn bớ ai.
Tựa trong nhà lửa khổ thay,
Ba bên bốn phía dồn nay cho mình.
Từ đây sợ cuộc âm binh,
Gây ra tai khổ dân sinh não nề.
Giặc trần thấy cũng đã ghê,
Còn thêm giặc bệnh ê chề thây thi.
Hẵn chưa có đủ lương y,
Để mà điều trị bệnh khi quá nhiều.
Năm xưa dịch ấy dập dìu,
Đầu làng cuối xóm tiu hiu lạnh lùng.
Ấy là bệnh dịch hành hung,
Ngoài ra ban trái vô cùng đau thương.
Lại còn thêm nạn quỉ vương.
Rập rình khắp cả lối đường réo kêu.
Nếu ai lên tiếng mạng tiêu,
Hoặc theo bọn chúng cũng liều đi thôi.
Nhưng đâu qua khỏi được trời.
Người lành có Phật giữ rồi khỏi lo,
Chỉ thương lòng kẻ cay co,
Hung tin chực sẵn khó cho thoát nàn.
Bởi không ghi ở sổ vàng,
Lại nằm trong bộ Diêm đàng biết sao.
Đành nhân với quả tuyệt cao,
Nhưng người phước chánh Phật trao đổi giùm.
Thập phương dân chúng khắp cùng,
Sợ cho bệnh hại, sợ hùm xé thây.
Sợ nội loạn sợ tà tây,
Sợ luôn các nước vào đây tranh cường.
Sợ sao quá sợ trăm đường,
Sợ người một bổn lại lường gạt nhau.
Nay chưa mấy sợ ngày sau,
Trong nhà chia rẻ nhiều màu khổ hung.
Kẻ thì nịnh người thì trung,
Người ham theo Phật kẻ xông theo tà.
Chừng ni nổi giặc trong nhà,
Gây thêm khốc hại trẻ già nhớ ghi.
Tuy rằng Đức Phật Từ Bi.
Độ sanh độ tử độ thì hiền lương.
Chớ đâu độ kẻ bạo cường,
Quên câu đạo đức theo đường gió mưa.
Tuy rằng lồng lộng dưới thưa,
Mảy lông không lọt rán chừa việc hung.
Hung đồ trời đất bất dung,
Hãy nên nhớ kỹ kẻo không sống đời.
Xác kia mất đã đành rồi,
Hồn kia còn phải tiêu thời làm sao.
Kiếp người như thể bông lau,
Gió đưa bay mất rán trau chữ hiền.
Nam thiền nữ tín phải chuyên,
Ăn năn chừa tội tội liền hết ngay.
Nhược bằng đạo chánh vội quay,
Nẻo tà đi tới khổ thay trăm bề.
Khổ mình cũng tại mình mê,
Khổ còn lây đến gia quê thôi nào.
Nên đây khuyên nhủ cùng nhau,
Kệ kinh mấy quyển trước sau khá tường.
Nhớ rằng ngựa ý kềm cương,
Lòng ngay lại sạch khỏi đường chông gai.
Chớ đừng miệng nọ dùng chay,
Mà lòng hung ác Phật nay xa mình.
Đến đây chỉ yếu việc lành,
Khuyên người ghi nhớ rồi hành chớ quên.
Tuồng đời qua lẹ như tên,
Đổi thay vui khổ liền bên thân mình.
Ngoài biên súng bổ ình ình,
Nam phần đất Việt khéo gìn mới thôi.
Tóm rằng cuộc thế chưa vui,
Còn trong binh lửa ngậm ngùi xót đau.
Vậy nên già trẻ đồng nhau,
Chắp tay niệm Phật giồi trau việc lành.
Giúp cho nước dứt chiến tranh,
Làm yên dân chúng cũng thành thần linh.
Chớ không ngồi mãi trì kinh,
Phó đời còn mất lòng mình chẳng lay.
Vừa niệm Phật vừa làm ngay,
Cả luôn mắt miệng chân tay đều lành.
Thế ni mới thật là rành,
Rõ người sự lý gồm hành được xong.
Thôi thôi chẳng nói dài dòng,
Chỉ khuyên tất cả đạo đồng gắng tu.
Sớm chiều hãy nhớ công phu.
Rồi làm việc phải mới hầu khỏi ngây.
Chờ ngày Phật hé huyền vi.
Có Thầy dắt dẫn cùng đi một đàng.
Đến đây giảng đã đôi trang,
Xin chào đồng đạo nhịp nhàng lui chơn.

Giảng đã ngưng rồi hãy dợm chân.
Về xa tâm nọ cũng như gần.
Tai còn văng vẳng lời khuyên nhủ,
Ấy mới gọi người mộ lý chân.

Rằm tháng 3 Giáp Ngọ (Tức 17-4-1954).
32- Ngày 30 Tháng 3 Giáp Ngọ: Tâm Ngã Ái

Ngày 30 Tháng 3 Giáp Ngọ: Tâm Ngã Ái

PHẬT chẳng ngoài thân hãy rán tìm,
GIÁO điều khác thể chỉ Nam Kim.
HÒA dung sự lý hành chơn chánh,
HẢO ý diệu chân khỏi nổi chìm.

Kính chào tất cả đồng đạo nam nữ,
Mặc dầu mấy hôm rày trời mưa tầm tã, ngỡ đâu cuộc giảng hôm nay kém phần đông đảo.
Trái lại, lần này đông đảo không thua gì mấy lần trước, lòng quá ư hâm mộ đạo đức, khiến anh chị em quên hết sự khó nhọc bùn lầy, quyết đặt chân lý lên trên hết.

Dù gặp phải sự nguy hiểm hơn nữa cũng không sá quản. Huống hồ là mưa gió thông thường. Để tán thưởng tinh thần cao cả ấy, tôi có đôi lời khuyên tấn đồng đạo, càng lúc càng từ thiện hơn, mình mẫn hơn, làm rỡ ràng Phật tử, thơm đẹp muôn dường trong ngày chót của buổi hạ nguơn.

Thưa quý đồng đạo,
Tôi cùng đồng đạo đã từng gặp nhau tại đây, nơi Tây An Cổ Tự này nhiều lần và lần nào chúng ta cũng không quên đàm kinh luận giáo, trao đổi sự học hiểu giữa nhau, khiến cho nhau cùng được sự hiểu biết đồng nhứt, tinh tấn như một, hầu tăng gia tìm lực tu hành, thúc đẩy mau chóng trên lẽ thiện, làm cho nền đạo, nếu chưa có cơ hội mở rộng cả thế giới, thì cũng phải được mọi người trong xứ sở tấm tắc khen ngợi hướng theo, với sự học hỏi sự tìm tòi, bằng trí nhận xét kỹ lưỡng, sẽ khiến cho không những tránh được sự ngu dốt, mà bí yếu còn được tăng cao phẩm đức.

Sự học hỏi này theo tôi được biết, chẳng khác nào con ong đi hút mật ở các thứ hoa, đem về làm thành trúc mứt, tức mật ong, trong đó chẳng còn mùi riêng của một thứ hoa nào.

Bởi thế cho nên, với chúng ta sự học hỏi lúc nào cũng cần phải có, nhưng nên nhớ chọn lựa chánh lý.
Vì Đức Phật xưa kia, trước khi nhập niết bàn có mách bảo rằng:
 
“Vào Thời Mạt Pháp Ma vương có đủ cách phá khuấy đạo Phật, một khi chúng trá hình đắp y giống Phật, thì chúng sanh khó phân biệt để tránh khỏi sự lạc lầm”.
 
Chúng ta đang sống đời Mạt Pháp, với câu ấy chúng ta đã thấy rõ ràng, gần đây hoặc trong Thiền Lâm hay ở ngoài đường phố, có lắm hạng người theo hạnh khất sĩ của thời chánh pháp, nghĩa là cũng đắp y, ôm bát, giống hệt như Đức Phật thuở xưa. Nhưng đó chỉ là duyên dáng bề ngoài, chớ nào được bao nhiêu người hành đúng Tứ Y pháp của Đức Phật, họ chỉ dụng tâm diễn lại màu sắc của Đức Phật, để lợi dụng lòng mê tín của đàn na.
 
Đôi khi họ còn mó tay vào việc trục lợi, khu danh.

Ngoài hạng này, còn có một hạng khác nữa không kém phần mị dân, họ chẳng trau chuốt cách ăn mặc, song họ trau luyện, ngòi viết, lỗ miệng, thêu thùa huyễn hoặc, vẽ rắn thêm chơn, bịa chuyện không đâu, khiến nhiều người tưởng lầm họ là ông Phật, ông Tiên giáng trần, rồi chạy theo như hội chợ, để cho họ tha hồ mà lợi dụng, cái hại này to lớn không ngần, độc ác vô kể. Vì họ chỉ dắt người vào đường tối tăm mê muội của quỉ ma, ngày đêm tin tin tưởng tưởng những cái gì bên ngoài không chơn lý, khiến cho hột giống trí huệ bị vùi sâu dưới lớp dày đặc của lòng mê tín dị đoan, hao tài tốn của, mà rốt cuộc chẳng có kết quả gì.

Với hạng người đó, mặc dù họ có phép nhiệm có lời châu, mà tâm trạng của họ hồ mị, thì chúng ta thà chịu ngu dốt chớ không nên học theo.

Tuy nhiên, chúng ta chẳng vì thế mà khinh khi họ.

Thưa quý đồng đạo,
Tôi xin nhấn mạnh một lần nữa, nếu thấy mình chưa đủ sức tự dẫn trên đường Phật Pháp, thì nên tìm người thiện tri thức, nhờ họ chỉ bảo đường đi nước bước, lẽ thẳng điều chơn. Nói rõ hơn, là nhờ họ chỉ cho phương pháp thích trung, để thực hành cho đến chỗ thành tựu viên mãn.

Nhược bằng chưa tìm được người đáng học, thì tốt hơn nên ngồi chờ, đừng tìm bâng quơ làm việc càn dở, gây tai hại cho trí não của mình. Đó là nói trường hợp tìm bạn lành, nếu chưa tìm thấy thầy khác để học, thì chúng ta khỏi phải nhọc nghĩ, vì chúng ta đã có thầy tức Đức Huỳnh Giáo Chủ. Thầy chúng ta đã dạy đủ cách tu tiến đến chỗ thành đạo, chúng ta cứ theo đó mà ôn nhuần tập luyện.

Tại sao tôi phải đem bày những câu quá dè dặt? Bởi tôi không muốn người đồng đạo còn kém cỏi bị kẻ khác đầu độc tinh thần trong lúc Đức Thầy vắng mặt.
 
Hơn nữa, vì thì giờ bách cận. Quả đất đã mùi không còn thời gian thí nghiệm, mà chỉ ở giai đoạn nhận đúng và thật hành. Vì vậy mà quả bồ đề của chúng ta cần phải gìn giữ chặt chịa, kẻo chim chuột quấy hư. Thà chịu rụng đầu chớ không để rụng quả đạo, cũng như thà chịu sống đơn độc, mang tiếng ngu dốt, chớ không chịu người lôi kéo vào việc làm tổn đức hoặc tai hại nhân sanh. Nhứt là, việc làm ấy có thể làm mòn lụn tinh thần Phật tử.

Chỉ sợ cho nhau lạc nẻo đàng,
Hôm nay Thanh Sĩ để lời than.
Mọi người thiện tín tu theo Phật,
Hãy rán kiên trinh chớ vội vàng.


Thưa quý đồng đạo,
Bây giờ tôi xin đề cập đến tâm ngã ái, hai chữ ngã ái mới nghe qua chừng như rất tầm thường, nhưng nghiệm nghĩ cho cùng cực, sẽ thấy nó đóng một vai tuồng quan trọng trong sự luân hồi, chuyển kiếp của chúng sanh.
 
Tâm ngã ái là gì? Tâm ngã ái là lòng yêu thương mình một cách như tha như thiết, con người chỉ thấy thân mình là quý trọng hơn hết, yêu nó trước hơn hết. Vì thế mà đa số nhân loài lấy thân làm hạnh phúc trong sự sống, mà họ không tiếc một vật gì để cung cấp cho thân.
 
Một khi họ quý trọng xác thân thì họ cũng luyến ái luôn những gì của chính thân họ đã sống. Do đó mà họ rất ích kỷ, họ có thể tiếc với cha mẹ họ từ miếng ăn thức mặc, với quyến thuộc từ chén cơm bát nước. Trong lúc đó, họ dám sắm cho họ những ngôi nhà thật to, những chiếc xe thật bóng, để cho họ và vợ con họ tha hồ chơi phung phí.

Đến việc giao thiệp, vì lòng ngã ái của họ quá to tát, nên họ chỉ biết đặt họ trên người khác một cách rồ dại khiếm nhã. Nếu kẻ kia đá động đến quyền lợi của họ, mặc dù chẳng ra gì, họ cũng thấy lòng cắn rứt tiếc rẽ, chống lại một cách nhỏ nhen, trái với đức độ của người quân tử. Việc làm của họ đã lỗi trăm phần trăm, nhưng họ không muốn cho ai chê trách. Nếu có chê trách thì họ coi kẻ ấy là thù. Vì thế họ trả oán một cách nhục nhã đê tiện.
 
Đó là trực tiếp ngã ái.

Còn dưới đây là gián tiếp ngã ái:

Thân bằng quyến thuộc của họ, tài vật sản nghiệp của họ, nếu kẻ nào chạm đến thì họ bất cần phải quấy, vẫn cực lực bênh vực hoặc bằng tiền bạc hoặc bằng lời nói hoặc đấm đá.
 
Do đó trong xã hội có nhiều cuộc xích mích, từ chỗ giữa hai người dẫn đến trăm ngàn người xô dập nhau, gây cuộc búa bạt, gươm khua và cũng vì vậy mà cảnh sống của loài người, có kẻ no người đói, kẻ giàu người nghèo, có kẻ vùi đầu dưới mái lá dột dạt, người lại ngất ngưởng nơi lầu các chọc trời. Thành thử có sự bất bình đẳng về sự ăn ở, về giai cấp, khiến xảy ra lắm cuộc chiến tranh giết hại, mà từ trước tới giờ chưa lúc nào ngừng.

Như đã nói trên, chúng ta thấy rõ tai hại của lòng ngã ái dường nào. Chẳng những nó xui con người lúc sống phải khổ, mọi nỗi cạnh tranh ti tiện, mất hết thánh trí chơn linh, lại còn vì đó mà thành nghiệp luân hồi sanh tử.

Tại sao vậy? Bởi tham luyến xác trần thì phải trở lại cõi trần, đó là lẽ cố nhiên. Huống chi kẻ vì ích kỷ tạo lắm trái oan, lại càng phải đầu sanh vào thế gian, để đền trả theo đúng luật nhân quả.

Vì lý do đó, chúng ta hãy sớm dứt lòng ngã ái thấp thỏi, mới mong siêu thoát khỏi giới luân trầm.
Nhược bằng lòng ngã ái còn sâu thì dầu lảu thông vạn pháp, cũng không tài chặn nổi cuộc luân hồi.
Nhưng muốn diệt lòng ngã ái, cần phải đổi ra lòng bác ái, đặt tình yêu quảng đại trong chúng sanh.
Nói hẹp hơn là đặt tình yêu đồng bào nhơn loại, gây lấy sự an lạc hạnh phúc chung, khiến ranh giới giữa người và ta được san bằng, không còn thấy lừa phỉnh bắt nạt nhau nữa:

Cuộc sống ngày nay quá lịch chinh,
Bởi trong dân chúng nghĩ yêu mình.
Không màng công lý là sao cả,
Nên mới gây ra cuộc bất bình.


Thưa quý đồng đạo,
Như trên đã nói: Muốn diệt lòng ngã ái phải đổi ra lòng bác ái, là một điều không phải dễ làm, xong chưa đến nỗi không làm được. Muốn làm được chúng ta cần phải có đức độ hy sinh như Đức Phật, dám lắt thịt mình đền cho con diều hâu để cứu con bồ câu, mà trong lúc ấy do lòng từ bi chiếm mất hết sự đau đớn. Bửa sọ lấy óc chữa bệnh cho cha mà không rụt rè, do lòng đại hiếu quên mất sự chết, tự giết mình để làm phao nổi cho 5 người thương buôn, vớ lấy khỏi cảnh chết chìm.
 
Trong lúc Đức Phật thật hành những việc này, Ngài đã hoàn toàn dứt sạch lòng ngã ái, nên có đủ quả cảm làm việc từ bi. Và do đó Ngài mới chứng thành vô lượng công đức, đến được quả phẩm Chánh đẳng Chánh giác. Bây giờ chúng ta muốn được như thế, cần phải làm như thế:

Thấy rõ nên ta cố học đòi.
Gương lành Đức Phật mắt hằng soi.
Từ tâm dẹp bỏ lòng nhen nhỏ,
Để được treo gương cả giống nòi.

Giống nòi được sống được hùng cường,
Nhờ ở tấm lòng chánh lẫn cương,
Kẻ điếc bản cơ nhân lẫn Phật,
Sớm chiều lấy đó để soi đường.

Soi đường Tổ Phụ đã từng đi,
Con cháu hôm nay lại ngại gì.
Nên bước thẳng trên tam giáo đạo,
Có ngày thoát khỏi họa Tây di.

Thưa quý đồng đạo,
Sở dĩ tôi *thật có lắm lời nói với các đồng đạo từ câu chuyện này đến câu chuyện khác, là vì lòng tôi muốn cho đồng đạo mặc dầu Đức Thầy vắng mặt, nhưng ai cũng tin chắc rằng Ngài đã am hiểu tất cả việc làm của mọi tín đồ.

Ngài không vui cho một tín đồ nào làm việc sái quấy, trái với qui luật của Ngài đã ấn định.
Khi Đức Thầy trở về, Ngài sẽ mở cuộc thưởng phạt: Thưởng những tín đồ trung thành với lý tưởng của Ngài, phạt những tín đồ hủy phạm giáo giới của Ngài, có lòng tin tưởng như thế và chế ngự được lòng bạo ác, thì đó là sự thành công trên đường đạo đức vậy.

Nếu được tin rằng một lúc sau,
Đức Thầy trở gót cứu cho nhau,
Bây giờ ai dám làm sai phạm,
Để phải lòng Thầy chịu xót đau.

Đau xót riêng Thầy phải gánh mang,
Sanh con bất hiếu chịu lời oan.
Âu chờ vận thới rồi ra hiểu,
Hiểu rõ tâm Thầy rất chói chang.

Chói chang đức tánh của từ bi,
Đâu chứa con dân có vết tỳ.
Chỉ bởi cha hiền sanh trẻ dữ,
Âu đành theo luật của huyền vi.
---
Lời lành khuyên nhủ đạo đồng,
Từ nay khuya sớm hương nồng đừng phai.
Trong thôn bất luận gái trai,
Sự tu với tỉnh hôm mai rán gìn.
Nước non còn cuộc đao binh,
Thì đường đạo lý hãy gìn chớ buông.
Càng xem thế cuộc quay cuồng,
Lòng càng tinh tấn một đường chớ xa.
Đức Thầy thường mãi khuyên ta,
Làm lành lánh dữ mới là toàn thân.
Nếu không nghe sửa cho cần,
Sau này gặp biến khó gần Phật Tiên.
Bầu trời nức tiếng cơ huyền,
Lòng người lạnh lạt như miền Bắc Băng.
Lỗi lầm chẳng chịu ăn năn,
Cứ lo thêm tội đạo căn hao mòn.
Phật thương sanh chúng như con,
Chúng sanh chẳng tưởng có còn được đâu.
Sợ đời có cuộc bể dâu,
Bất ngờ xiêu ngã đài lầu hết trơn.
Còn thương những kẻ phi ơn,
Hồn kia đã mất xác thân chẳng còn.
Nay chưa thay biển đổi hòn,
Lòng người chưa quyết cho tròn sự tu.
Làm người đạo trí mờ lu,
Quay theo tà tịt lu bù sớm hôm.
Lại còn lắm kẻ bôn chôn.
Muốn cho linh vội đem hồn cho ma.
Luyện theo những phép của tà,
Quên rồi sáu chữ Phật Đà nơi tâm.
Đức Thầy chịu sắc Lôi Âm,
Xuống trần len lỏi kiếm tầm cứu dân.
Bốn quyển giảng đủ Phật Thần,
Cùng là Tiên Thánh lâm trần dạy khuyên.
Hợp Tiên thì lại theo Tiên,
Hợp cùng chư Phật gieo duyên Phật đài.
Hợp thần theo việc thẳng ngay,
Hợp cùng đức tánh giữ ngay đạo người.
Tùy duyên mà nhủ hết lời,
Nghe không tự ý con Trời tự cho.
Ngày kia mặc sức toan lo,
Một khi họa đến nằm co kêu trời.
Chừng ni khó nổi chơn dời,
Bốn bề lửa cháy giữa người khóc than.
Ôi thôi đầy cảnh trần gian,
Khác nào hỏa trạch chưa an chỗ nào.
Mặc ai ham muốn làm giàu.
Tôi ham việc đạo để trau mai chiều.
Chê ngu tôi cũng đánh liều,
Miễn cho vẹn tám qui điều thì thôi.
Bây giờ kẻ bạc như vôi,
Ngày kia rõ việc biết tôi thế nào.
Chỉ chờ có cuộc xáo xào,
Lành còn dữ mất Thiên Tào đã phân.
Ngày nay những kẻ vô ân,
Chết không làm quỉ làm thần lại tiêu.
Gẫm xem gan ruột chín chiều,
Muốn cho được sống thêm nhiều người ôi.
Đâu đành thấy kẻ bạc vôi,
Chịu điều tai ách dập dồi bên thân.
Nhưng mà tạo hóa cầm cân,
Không kiêng không vị vô ân phải đành.
Đạo đồng ơi ! Rán tu hành,
Tu thì nhờ lấy không đành họa tai.
Làm lành gặp việc cấn gay,
Nam mô Bồ Tát niệm ngay cho thường.
Sá chi gai gốc giữa đường,
Tránh qua thì được an khương chớ gì,
Cõi trần như mộng sá chi,
Lo sao nghe phụng Tây Kỳ gáy lên.
Chừng ni mới rạng tuổi tên,
Làm thần ở lại không lên Phật đài.
Bây giờ khắp cả muôn loài,
Căn ai cũng có *chuyển day chẳng rời.
Khuyên tu phải nói hết lời,
Nhưng mà con Phật Phật thời dắt theo.
Con ma ma lại kiềng đeo,
Duyên nào nghiệp nấy có chèo lộn đâu.
Những người tỉnh biết Đạo mầu,
Thì là nghiệp giảm được đâu ít nhiều.
Lời khuyên đồng đạo mai chiều,
Đường dài cần phải giữ điều quyết tâm.
Đừng cho việc quấy nhiễm thâm,
Hãy toan việc phải trong tâm mỗi ngày.
Muốn sao đồng đạo gái trai,
Đến chừng phút chót *đồng nay gặp Thầy.
Cùng chung dự hội Rồng Mây,
Thỏa lòng khao khát bấy chầy ước ao.
Chỉ hềm những kẻ chẳng trau,
Điều lành vội bỏ cứ theo việc tà.
Tưởng đâu mọi cuộc xa hoa,
Là điều vinh diệu quên mà nghĩa nhân.
Ngày nay ma quỉ lộng trần,
Đủ phen xúi giục lắm lần ghẹo trêu.
Lòng người chập chững như rêu,
Đụng đâu tấp đó mai chiều nát thây.
Con người quyết thể trèo cây,
Một đường đó thẳng có ngày tột nơi.
Sự lành kêu réo hết hơi,
Việc hung dân chúng nghĩ thôi còn nhiều.
Xét suy gan ruột chín chiều,
Thảo nào Tiên Phật không điều trấn an.
Trước lo hủy diệt loài gian,
Sau rồi hưng phục những đoàn thiện lương.
---
Khuyên dân phải kỷ cương gìn vẹn,
Gọi mọi người kẻo thẹn hậu lai,
Chờ sen son trổ non đoài,
Đó là hạnh phúc muôn loài đến nơi.
Đừng lãng trí chiều mơi đầu rụng,
Theo đạo tà hồn cũng nát tan,
Bây giờ lẽ chánh ngâm vang,
Long thần hộ pháp muôn vàn độ cho.
Đường thăm thẳm gay go rán chịu,
Bước mịt mờ lịu địu không xong,
Cả kêu con cháu Lạc Hồng.
Nhớ rằng dòng dõi anh hùng xưa nay.
Chớ nên để kẻ ngoài giày đạp,
Tự kết liên giải thoát mới xong,
Trước làm yên vững giống dòng,
Sau rồi gieo đạo đại đồng khắp nơi,
Lời khuyên nhủ ai ơi rán liệu,
Giảng đôi điều tự hiểu hành y.
Bây giờ giặc giã phủ vi.
Mình đây như trứng nằm thì giữa chông.
Nhờ trời phủ lấy ánh hồng.
Một phen nảy nở thỏa lòng ước ao,
Đôi điều khuyên nhủ cùng nhau,
Đến đây đã dứt hãy mau lui hài.
**
Giảng tuy đã dứt dứt xong rồi,
Đồng đạo ra về chớ bỏ trôi.
Hãy nhớ nhớ luôn giờ lẫn phút,
Sau này toại nguyện buổi vui chơi.

Tây An Cổ Tự, ngày 30 tháng 3 Giáp Ngọ (2-5-1954)
  THÁNG TƯ:
33- Rằm Tháng Tư Giáp Ngọ: Lòng Tin Tưởng

Rằm Tháng Tư Giáp Ngọ: Lòng Tin Tưởng

PHẬT không phút lảng tánh yêu người,
GIÁO lý truyền ra khắp mọi nơi.
HÒA thích căn cơ trong bá tánh,
HẢO tu ắt khỏi loạn trong đời.

Kính chào tất cả đồng đạo nam nữ,
Gặp gỡ đồng đạo lần này, cũng như bao nhiêu lần trước không ngoài phạm vi đạo đức, lấy giáo lý của Đức Thầy làm căn bản trong cuộc luận bàn, càng luận bàn nhiều chừng nào càng thấy khuyết điểm của mình nhiều chừng nấy, không phải khuyết điểm về của tiền, mà khuyết điểm về đạo lý.

Vậy toàn thể chúng ta cần phải quan tâm đến lời giảng giáo và nhớ làm xong bổn phận của người tín đồ. Bổn phận ấy không ngoài Bốn Điều Ân, muốn đối xử các việc ấy được chu toàn thì việc làm trước tiên là phải biết răn trị lấy mình, bằng cách mỗi ngày kiểm điểm thân tâm, để tìm coi có làm điều gì lầm lỗi độc ác chăng? Nếu có lầm lỗi độc ác, dù rất nhỏ cũng cương quyết chừa bỏ, thản như phước duyên buổi trước quá mỏng nên nghiệp chướng ngày nay còn dày.

Nếu không trừ bỏ tập quán trong nhứt thời, thì cũng cương quyết chừa lần cho đến khi dứt, nghĩa là những gì của chúng ta đã ô nhiễm thì cố diệt, ngày nầy không được thì ngày khác cũng phải được. Khi các lầm lỗi trong thân tâm của chúng ta được diệt sạch, thì chúng ta mới có đủ điều kiện giúp kẻ khác diệt theo. Nhứt là mới đền ơn đáp nghĩa cho người được và một điều gần hết là đối đãi như đồng đạo phải coi nhau như ruột rà, giúp đỡ nhau trong lúc hữu sự.

Nếu có những anh em nào sái quấy mà mình thấy được, biết được thì liền chỉ cho phương pháp diệt trừ, đem lời khuyên can chừa bỏ để trở lại người chơn chánh tốt đẹp.
 
Nhưng muốn cho anh em ấy nể lời mình thì chính mình phải làm gương cho họ, bằng cách mình làm, rồi mới đem chỉ bảo họ. Còn những kẻ mang danh là tín đồ nhà Phật, mặc dầu gặp một vị giáo chủ siêu phàm mà họ không cương quyết thật hành giáo luật qui giới. Trái lại, còn hành tung ngược phản lý tưởng cao siêu của đạo, làm cho cửa đạo lu mờ, gây ra lắm việc ương hèn, khiến bạn đồng môn chán nản, hoặc theo đòi bắt chước, thì những tội trạng ấy không lấy gì chuộc đặng.
 
Do đó, hôm nay tôi khuyên đồng đạo đầy lòng tin tưởng: “Thầy không lúc nào quên chúng ta, vẫn đặt hy vọng ở lòng chơn thành xứng đáng của chúng ta”. Nên kiểm điểm răn trị thân tâm, để làm xong nghĩa vụ của một tín đồ đối với nước nhà lúc nguy biến. Đối với cha mẹ khi nghèo nàn, đối với đạo lý lúc suy vi, đối với nhơn sanh cơn bách nạn, những hành động này phải được quyết định và tiến tới.

Cái kết quả của việc làm đạo nghĩa ấy cố nhiên phải có, nghĩa là sẽ làm thỏa mãn nguyện ước của kẻ có tâm hồn tốt đẹp ở một ngày kia, vì lời của Đức Thầy nói ra như rựa chém đá chẳng bao giờ sai chạy. Ta có thể nói lời của Đức Thầy tức là lời của Đức Ngọc Đế, Đức Phật Tổ vì Đức Thầy đã được lệnh của hai Ngài xuống trần, nên câu chuyện chi của Đức Thầy nói ra là đã có quyết định trước, thì việc ấy sớm muộn gì cũng phải đến chớ chẳng hề không.
 
Đến chỗ nào? Đến chỗ biến diệt thế giới, đến Hội Long Hoa, đến lúc chư Phật, Thánh, Tiền lâm trần, dùng phép mầu lập lại Thượng Nguơn.
 
Sự biến chuyển khốc liệt ngày nay không thể tránh khỏi, vì mỗi dân tộc đều mỗi tiến, nhưng không phải tiến về mặt hiếu hòa, mà là tiến về mặt hiếu chiến, nên hiện giờ ai cũng lo chế tạo những khí giới tối tân, có sức giết hại hàng vạn sanh linh trong nháy mắt. Như thế, chỉ trong cái thạnh nộ của họ, cũng đủ làm tan tành quả đất. Mững đó, ai gọi không có sự tiêu diệt sinh linh được ư !
 
Huống chi còn có bao nhiêu thiên tai khác nữa, do nghiệp nhân bất thiện của chúng sanh gây ra trong nhiều kiếp qua, bây giờ nó đã mùi mẫn sắp đến chỗ rơi rụng, nghĩa là mỗi người phải trả tất những tạo nghiệp của mình.
 
Vì thế mà hiện nay, người ta đua nhau mưu sát hơn là mưu sinh. Thế là sự tận diệt càng thêm nhiều cớ mạnh. Với tinh thần từ bi bác ái, Đức Thầy đã không nài lao khổ dạy bảo chúng ta. Vậy chúng ta hãy nhận quyết sự tận diệt sẽ có và mối nợ máu đòi trả, như món tiền nợ trong ngày 29 Tết.

Ai gây nhân nào thì trả quả nấy, làm lành gặp lành, làm dữ gặp dữ, quả có xấu tốt là do tạo nhân có lành có dữ mà ra. Lại cũng có một vài trường hợp làm lành gặp dữ, là do nghiệp dữ trước kia chưa dứt, còn làm dữ gặp lành là do việc lành phước kia còn dư.
 
Xét đó chúng ta không nên ngờ “không có luật nhân quả”, chúng ta hãy mạnh tin cuộc đời sắp kết thúc, thì trên con đường đạo của chúng ta phải được mở rộng, Không chần chừ, không lượng ước, nỗ lực làm mọi sự lành, lánh mọi sự dữ. Vì rằng, trong một ngày gần đây bước sang qua đời Thượng Nguơn, do định luật nhân quả mà kẻ hiền lương nhơn đức được tồn tại cảnh ấy. Nếu chúng ta muốn được tồn tại đến thời đó, thì cần phải làm như thế.

Thưa quý đồng đạo,
Đã thấy mọi sự đau khổ chập chờn trước mắt, nhưng có cách tránh khỏi được, nếu chúng ta gìn tâm được trọn lành trọn sáng, và quán tưởng như thế này:

1- Tưởng lại con người ở mặt địa cầu, sở dĩ phải tranh đấu mọi mặt, đổ xô vào mọi trường hợp là cũng vì xác thân, nhưng xác thân vô thường, nó cứ biến đổi mãi cho đến khi chết không Khi nào dừng lại, hồi 10 tuổi sắc diện khác hơn 30 tuổi, bản sắc của con người cứ thay đổi mãi như vậy, mà ai trông qua cũng đều thấy rõ như thế.
 
Như vậy đủ biết thần già, thần bệnh, thần chết theo dõi con người để chờ dịp đập phá thân người tan ra từng mảnh bụi. Nếu người không biết chỗ ấy, cứ tưởng xác thân được tồn tại mãi, tha hồ tạo việc bất lương, làm điều tàn nhẫn. Mặc dù được tiền của nhiều, nhà cửa rộng, vợ con đông chẳng khác nào bắt bóng trong gương, không thể phòng giữ được.
2- Tưởng lại cái gì quý hơn cái sống, nhưng xét bề sâu của cái sống, chỉ là cái khổ, khổ ở bệnh hoạn, khổ ở già yếu, khổ ở sự thù ghét, khổ ở những việc ham muốn không toại lòng, mà hầu hết mọi người không ai tránh khỏi.
 
Như thế cái sống đó có lạc thú gì? Mà người ta lại vì cái sống để giết hại lẫn nhau, tạo việc thất đức mà chính mình không hưởng được như ý.

3- Tưởng lại người ta ham sống, chỉ vì người ta tham những món ngon vật lạ, tình đẹp cảnh xinh, như bao nhiêu đòi hỏi của vật dục, mà người ta đã nặng lòng vì nó không thể bỏ được.
Nhưng của ấy đâu phải của mình, mà nó chỉ do nhân duyên, do vọng chất kết thành hình hài, bóng dáng mà rốt cuộc đều phải tan rã hết cả. Ngay như thân này còn không được tồn tại, huống là sự bên ngoài đâu được vĩnh cửu.

Nói tóm lại, thân là vô thường, kiếp sống là khổ não, mọi vật đều biến đổi, nó biến đổi hết qua tay người này, rồi đến qua tay người khác, mà những người được cầm nó dù có thế lực như vua Trụ, vua Kiệt, ông Hạng, ông Hớn cũng không sao giữ còn mãi được.
 
Theo những đoạn kể trước, nếu toàn cả mọi người đều có một tưởng nghĩ như nhau hết, thì chẳng còn ai nỡ vì lợi riêng mà gây khổ cho người khác, nên đem hết cả tài đức của mình, làm việc lợi ích cho quần sanh.
 
Bởi đó, là một sản nghiệp bất di bất dịch, quí giá hơn 7 báu, mạmh hơn tướng vương, có năng lực đem lại sự an vui lâu dài và đủ diệu huyền, chặn đứng mọi nỗi thống khổ sanh tử. Được như thế, làm gì nên tội với sinh linh và cảnh sống của mọi người đâu đến đỗi biến thành võ đài tranh đấu.

Thưa quý đồng đạo.
Nếu câu chuyện ở trên, được mọi người cùng nhận xét thì không nói chi xa, ngay trong đạo chúng ta, sẽ chẳng còn thấy những cái gì xấu xa tái diễn, vì mỗi người đẫ gội sạch lòng vị ngã.
Như thế, công phu dạy bảo của Đức Thầy chẳng uống và kẻ làm môn đệ như chúng ta không thẹn.
Ngoài ra, bánh xe luân hồi làm gì lôi cuốn được chúng ta, chúng ta sẽ được tự do nhập niết bàn, tự do cứu Tổ tiên, tự do hóa độ chúng sanh và tự do đi lại Hội Long Hoa.

Mỗi lúc Ba mươi lại với Rằm,
Lời lành khuyên chúng để vào tâm.
Tìm phương tỉ dụ này rồi nọ,
Hầu khiến cho nhau khỏi lạc lầm.

Làm lạc kiếp này thật khó mong,
Mấy khi biến đổi góc trời đông.
Thuyền Từ chực sẵn người mau xuống,
Để tránh giông to tránh muỗi mồng.

Muỗi mồng châm chích giống con Tiên,
Giờ chót còn đeo những nỗi phiền.
Nợ trả xong rồi còn muốn lại,
Càng suy càng tủi nợ tiền khiến.

Tiền khiến nợ ấy tại ai gây,
Con cháu đành cam xác ốm gầy.
Cũng nguyện lần ba đền trả sạch,
Để chầu Vương Phật thỏa lòng đây.

Lòng đầy khao khát đã từ lâu,
Chờ dịp ra tay gỡ mối sầu.
Đưa giống Tiên Rồng vào hạnh phúc,
Không còn tai ách chất chồng cao.

Chồng cao tai ách được tiêu ma,
Non nước mới mong cảnh thái hòa.
Kho chật đủ đầy dân ấm áo,
Giọt hồng bá tánh chẳng còn xa.

Còn xa nước mắt khổ còn hoài,
Cũng đã đòi phen ruột xéo dày.
Thất kế hùm không ngăn đám sói,
Khu rừng độc lập phủ sương mai.

Sương mai chờ dịp ánh hồng lên,
Màn bạc lưới mây há được bền.
Kết liễu trời đông bừng sáng cả,
Khải hoàn một khúc hát vang lên.

Lời khuyên nhủ cùng nơi khắp chốn,
Tiếng biện bàn nhỏ lớn đều nghe,
Chuyển luân máy tạo không dè,
Nợ đời đã rảnh cò kè nữa chi.
Ai mắt bẫy vào khi buổi hạ,
Hãy chịu sầu chịu đọa ngàn thu,
Vui khi kẻ quáng hết mù,
Mây Rồng được hội võng dù xuê xang.
Nay ngoại cảnh còn vang tiếng nổ,
Trong nhà mình rần rộ nổi sôi.
Thật đời không thứ không ngôi,
Mặt nào nấy vẽ vô hồi đau thương.
Ai khéo khiến Cần Vương lao lý,
Nỗi sầu này xét kỹ bởi đâu.
Thôi chờ cho được ông câu,
May ra quần tụ chư hầu Mạnh Tân.
Diệt bạo Trụ toàn dân yên ổn,
Nếu Kiệt còn hỗn độn chưa an,
Mầu linh dùng lấy lời vàng,
Oai hùng mượn một gươm vàng định xong.
Miệng vừa gọi lòng trông vừa xét,
Thử cuộc đời hai việc khó phân,
Kẻ nhân thì đối việc nhân,
Những người bội phản gươm thần dứt đi.
Phật tuy cũng từ bi đại độ,
Nhưng không hề giúp hổ thêm sừng,
Muốn sao lợi lạc cho dân,
Khỏi vòng binh lửa khỏi phần đói đau.
Nếu có lúc dụng vào gươm kiếm,
Để trừ xong những đám Hung Nô.
Hoặc là kẻ hoại cơ đồ,
Để làm trên dưới như hồ nước trong.
Cả nam nữ một lòng tu tỉnh,
Đem đạo mầu chấn chỉnh khắp nơi.
Dầu cho biển cạn non dời,
Cũng không hoạn họa cho người mình đâu.
Còn cứ mãi chấp câu văn vật.
Nên sau này cách Phật rất xa,
Chừng ni tiền chẳng giúp ta,
Oai không trị được mới là ngẩn ngơ.
Nên xét rõ thời cơ biến đổi,
Âm cùng dương khó nổi lọc ra,
Tuy là hiện vật đẫy đà,
Muôn điều cám dỗ con nhà Lạc Long.
Nhưng nhìn kỹ bên trong cốt cách,
Thấy rằng toàn xương vách bằng rơm,
Ngoài bao một lớp hương thơm,
Nhưng trong bùn trịn thêm nhờm đấy thôi.
Theo đạo lý người ơi rán tấn,
Giữ sao tròn bổn phận người tu,
Sớm chiều hai buổi công phu,
Đừng quên chư Phật non lầu ngóng trông.
Nay mây phủ người trông không rõ,
Chừng gặp khi bể vỏ sẽ hay,
Bây giờ phủ đá cùng cây,
Ngày kia mới rõ điện đài nơi đâu.
Tu chờ được gặp câu huyền diệu,
Hành mong ngày đạo liễu mới xong,
Nhược bằng tâm mãi chênh chong,
Chưa phân đen trắng khó hòng đến nơi.
Lời lành khuyên nhủ mọi người,
Từ đây hãy rán giữ lời Phật Tiên.
Làm sao cho rõ mặt hiền,
Chớ gieo điều tủi việc phiền tổ tông.
Trồng hoa ắt được trổ bông,
Làm lành sao lại sợ không gặp lành.
Sự tu thì phải cố hành,
Khi lòng trong sạch thì lành trả cho.
Không nên miệng nói thơm tho,
Mà lòng hôi hám khó cho đắc thành.
Nhiều khi phải hủy thân mình,
Để làm được việc lợi sinh muôn loài.
Nhiều khi phải phí cuộc đời,
Đem tiền của giúp cho người ấm no.
Khi việc mình không lo,
Chỉ toan kẻ khác được cho phúc lành.
Lòng hằng tưởng lại quần sanh,
Ấy nơi gương Phật tánh lành trau tria.
“Có câu ăn giấy bỏ bìa,
Được thân sung sướng vội lìa tổ tông”.
Lời Thầy trong giảng cạn lòng,
Xem đi xét lại hành xong mới là.
Chúng ta cùng ở một nhà,
Hãy nên tương trợ khỏi mà lao đao.
Cháo giúp cháo rau dùng rau,
Lời lành lẽ phải khuyên nhau mỗi ngày.
Đừng phân như kẻ khác loài,
Mới là khỏi việc họa tai sau này.
Toàn dân còn lắm cấn gây,
Nước non chưa được an bày đâu ư.
Nỗi buồn vắng mặt tôn sư,
Bao nhiêu họa khổ gặp dư trăm ngàn.
Nếu như ta biết kết đoàn,
Cũng là đỡ được khổ nàn mai sau.
Nhủ khuyên đồng đạo cùng nhau,
Thấy đời càng khổ càng trau việc lành.
Làm sao đáng kẻ tu hành,
Khỏi người chê nhạo rằng mình dối gian.
Làm sao đức bủa bốn phang,
Lành bay khắp chốn người van kẻ cầu.
Làm sao gặp được Nam Lầu,
Để vui một cuộc rồng chầu thể nao.
Bây giờ phải lúc sóng xao,
Thuyền nghiêng lái chít khó âu phận mình.
Kẻ trên yêu dưới thật tình,
Trẻ già một dạ lo gìn nghĩa nhân.
Hẳn là cảm đến Phật thần,
Chở che cho được qua lần chông gai.
Lời khuyên đồng đạo hôm nay,
Tuy là vắn tắt không ngoài sự tu.
Miễn sao lòng biết lo âu,
Kiếp chầy ắt cũng hỏi sầu sau đây.
Lại còn được gặp Đức Thầy,
Cũng là xong phận trong ngày tỉnh tu.
Nhủ khuyên chỉ có đôi câu,
Đến đây đã dứt người âu ghi lòng.
Lời giảng dứt rồi hỡi nữ nam,
Vững chân để bước bước Kiều Lam.
Trau thân giữ phận sao tròn vẹn,
Có thuở đăng tiên hoặc thoát phàm.

Ngày Rằm tháng Tư năm Giáp Ngọ (17-05-1954)
  THÁNG NĂM:
34- Đêm 18 tháng 5 Giáp Ngọ: Giáo Pháp Của Đức Huỳnh Giáo Chủ

Đêm 18 tháng 5 Giáp Ngọ: Giáo Pháp Của Đức Huỳnh Giáo Chủ

PHẬT xuống cõi trần buổi Hạ,
GIÁO căn đạo lý khắp xa gần.
HÒA dân diệt bỏ lòng tư lợi,
HẢO sự trừ tiêu tánh vị thân.
THẬP thiện gìn tròn Chơn Phật Tử,
NGŨ luân vẹn đủ Thị Hiền Nhân.
CHÂU nhi phục thỉ khuyên đừng nản,
NIÊN ngoạt Trời cao đã định phần.

Kính Chào tất cả đồng đạo nam nữ,
Muốn qua biển cả khó gặp được thuyền, muốn tu hành nào dễ tìm ra Giáo Pháp, khi gặp thuyền bè mà không chịu bước xuống hẳn không qua bờ bên kia được.
 
Còn gặp giáo pháp mà không quyết tu hành thì không đến chỗ giải thoát. Vào buổi Hạ Nguơn này hầu hết nhơn sanh đang giam hãm tâm hồn trong chỗ cạnh tranh vật chất hơn là tìm cách sanh sống đạo đức thanh cao.
 
Tuy nhiên, rất may còn được gặp Đức Thầy ra đời, đem giáo pháp của Đức Phật Thích Ca từ xưa dạy bảo, với ý định làm cho chúng ta sớm được tỉnh ngộ, biết được nhân quả, rõ hiểu thời cơ, hầu có tu thân lập hạnh, để tránh cho khỏi bị khổ quả và cũng giúp đỡ kẻ khác nhờ nhõi ít nhiều về việc phước thiện.
Phương chi Đức Thầy ra đời, vì thời cơ cấp bách mà sắc chỉ của Phật Tổ cho Ngài xuống trần, dùng đủ phương pháp thích hợp hoàn cảnh trình độ của chúng sanh, để làm cho ai cũng có thể cải dữ về lành. Những người biết cải dữ về lành sẽ được ơn trên chư Phật thần ra tâm ủng hộ. Không những giúp đỡ về mặt an toàn, lại còn mở trí huệ khiến cho lãnh hội được ý nghĩa huyền bí trong mộng.
 
Một khi được ơn trên giúp cho cả hai phương diện, vừa được trí huệ thấy biết ngoài đúng sự thật, vừa lãnh được bí pháp trong giấc mộng, lòng được hoan hỷ và tuân thủ một cách chặc chẻ, thì đạo quả không sớm thì muộn cũng được đến chỗ thành tựu viên dung.

Như thế, đó là một phần thưởng vô cùng trọng đại quí ích hy hữu, chúng ta còn ngần ngại gì mà chẳng cố gắng trau tâm luyện tánh, giữ đúng lời chỉ giáo của Đức Thầy.

Thưa quý đồng đạo,
Kiếp sống của con người rất mỏng manh, một ngày qua đi là mòn đi một ngày sống, chẳng khác nào cây chuối, mỗi ngày lột một bẹ, càng lột nhiều bẹ thì nó càng héo dần cho đến tàn rũ. Đã thế mà trong kiếp chót này, nếu chúng ta cứ đắm mê tục lụy, vùi mặt phấn son, lầm lì rượu thịt, tưởng thế là sung sướng thì lầm lắm.
 
Nếu cứ lầm mãi như vậy, thì không dịp nào may hơn dịp này, để tìm đường giải thoát. Các vị tổ sư xưa kia hằng nói:

“Cây sắt dù sét đống ngàn năm, còn có thể đơm bông, thân người một khi mất rồi khó tìm lại được”. Tại sao? Nếu kiếp này làm ác dẫy đầy, thì kiếp sau đọa vào bàng sanh. Biết bao giờ trở lại thân người được.
Cho nên khi được thân người phải khéo giữ nó trên đường đạo, quí nó trong việc lành, để giúp mình khỏi khổ báo về sau. Chúng ta được sanh làm người, chưa tốn công tìm đạo mà gặp được đạo, há chẳng phải do nhân duyên nhiều kiếp ư. Nên chúng ta cần phải quí trọng chơn lý, vì con người có thể tạo nhiều gian nhà lộng lẫy, lập nên những thửa ruộng mênh mông, nhưng không dễ tìm được chân lý. Gặp được chân lý là nhờ tiền kiếp từng trau giồí trí huệ, gặp được minh sư là do đời trước từng kính mộ chư tăng thiền đức.
 
Như thế, chúng ta gặp Đức Thầy ở kiếp chót này đây, cũng do bao nhiêu kiếp qua chúng ta đã gieo duyên thành với Ngài, đã tu theo giáo pháp của Ngài, nên bây giờ mới được cùng ngày tái ngộ. Nếu chúng ta đã có nhiều kiếp tu hành chưởng phước, thì hôm nay chúng ta cần phải bồi bổ thêm, cho gốc đạo càng ngày càng nảy nở sung túc. Đó chẳng khác nào có lúa dư mà còn làm thêm ruộng. Tất nhiên khỏi cảnh suy sụp nghèo khó.

Thưa quý đồng đạo,
Đức Phật bảo rằng vào thời Mạt Pháp chánh đạo lu mờ, tà đạo hưng khởi. Những kẻ hạ căn thiểu trí, bị chúng cám dỗ làm sai lạc chơn lý. Bao nhiêu cảnh tượng cạnh tranh về vật chất càng lúc càng phô bày đầy đủ khắp mọi nơi, khiến chúng sanh tham đắm, theo đó gây lắm tội ác.
 
Do tội ác ấy, gây sự oan báo càng lúc càng đậm, nền đến nỗi dắt nhau đến bãi chiến trường, tạo thành một bầu sầu khổ trong dân gian. Lúc bây giờ có nhiều vị bồ tát do Phật chỉ cho lâm phàm hoặc ở trong hàng vương tướng, phú hào, thương gia, nông chủ hoặc làm tôi tớ, cho đến trong hàng đỉ điếm, để tùy tiện hóa độ chúng sanh, tỉnh giấc mê lầm tránh cơn ác mộng.
 
Trong số các vị cứu đời ấy có Đức Thầy, Ngài xuất thân trong một gia đình nông tang, với sự giáo hóa của Ngài một cách phi thường, tập trung tất cả những gì mầu nhiệm trong việc làm của Ngài, Để dìu dắt chúng sanh ngày nay.
 
Chúng ta gặp Đức Thầy, dạy cho giáo pháp nhiệm mầu xứng hợp cơ duyên, thì cần phải cương quyết rứt bỏ những điều luyến ái không tốt, để rỗi lòng lo việc giúp đỡ mọi người đang sống cảnh cơ cực, quẩn bách và đang lầm lũi đi trên chông gai hầm hố. Kèm theo sự giúp đỡ ấy, chúng ta nên đem theo sự hiểu biết của mình, khuyên nhủ những anh em còn nghi ngờ giáo lý của Đức Thầy, hoặc họ đang ở trong đạo mà có lý chán nản phận sự, để hăng hái lên thiệt hiện tôn chỉ cao cả chưa từng có ở thời buổi hiện tại.
Đó là một lối giúp đỡ nhau được tồn tại công nghiệp thiêng liêng và mạng sống trong lúc thế giới đổi mới. Có được những việc làm như thế, mới treo cao tấm gương Phật đạo, khiến các giới trong đạo cũng như ngoài đạo có thể trở lại yêu kính nhau, hết còn hiểu lầm nhau trong việc xấu.

Thưa quý đồng đạo,
Đức Phật Thích Ca cho biết trước rằng:
“Đến ngày giờ nào mà tất cả chúng sanh chia chẻ từ nhóm nhỏ đến nhóm lớn, coi nhau như cừu địch, gặp nhau như kẻ săn gặp con mồi, thì là phút báo tin thế giới tận diệt”.

Chiếu theo lời ấy, thì nhơn loại ngày nay, há chẳng đến tình trạng đó ư. Như chúng ta đã thấy, trên thế giới ngày nay, nước nào cũng có nhiều đảng phái, tôn giáo. Trong mỗi, đảng mỗi giáo đều chia ra nhiều nhóm nhỏ, có sự thù nghịch nhau luôn luôn. Nếu có dịp may đưa lại, thì họ chẳng từ một sự giết hại nào để thâu lợi.
 
Như vậy có phải là điềm tận diệt không? Thế thì chúng ta còn chờ dịp nào nữa mà không mau tay làm những việc lành, bỏ những việc dữ, thành tâm gội rửa tội ác vừa qua, chẳng còn một say sưa nào hơn được đạo nghĩa.
 
Nhược bằng để nước đến trôn mới nhảy thì việc đã muộn:

Tận thế không còn phải kéo xa,
Tỉnh hồn kẻo muộn bớ chư gia.
Hạ nguơn sanh chúng dùng đao kiếm,
Triệu chứng đưa nhau khổ đẫy đà.

Đẫy đà khổ ách mấy năm qua,
Đánh thức những người mãi nhiễm sa.
Sực nhớ cõi trần là huyễn ảo,
Để lòng tu tỉnh niệm Di Đà.


Thưa quý đồng đạo,
Được biết sự khổ của chúng sanh càng lúc càng thêm nhiều chừng nào, chúng ta lại càng phải gấp tìm phương giải thoát chừng nấy.
 
Nhưng tìm phương nào? Nên tìm phương niệm Phật, các kinh nói rằng: “Sanh tử hải trung Niệm Phật đệ nhất” (Trong biển xanh tử chỉ có pháp Niệm Phật là trên hết). Mặc dù trong đạo Phật có đến 8 muôn 4 ngàn pháp môn, mà chỉ có Pháp môn niệm Phật là dễ tu dễ chứng hơn hết. Nhứt là vào thời kỳ hạ nguơn này, chúng sanh tội dầy phước mỏng không thể tự độ được, vì phải nhờ sức tha độ, nghĩa là phải chí tâm niệm Phật A Di Đà, nhờ Ngài dùng thuyền từ cứu vớt về cõi Tây Phương An Dưỡng.

Vì Đức Phật có nguyện rằng:
“Nếu chúng sanh nào chí thành niệm đến danh hiệu Ngài một tiếng cho đến 10 tiếng, đến khi mạng chung, cũng được Ngài hóa hiện tiếp độ về cõi Cực Lạc, lần lượt chứng đến quả vị bất thối, không còn luân hồi sanh tử nữa”.

Tuy nhiên muốn cho sự Niệm Phật có kết quả chắc chắn, thì ngoài sự niệm Phật không rời ở nơi tâm, còn cần làm những điều kiện khác nữa, sẽ mau thành tựu hơn.
 
Đó chẳng khác trồng cây ngoài sự mưa mốc, còn gia công tưới nước, vun bón thì bông trái phải được có nhiều. Song chúng ta nên nhớ, sự niệm Phật bất chấp kẻ dốt người thông, chỉ cần sư thành tâm nhiều hơn và chính nhờ chỗ thành tâm ấy mà được siêu sanh.

Trái lại, những kẻ nói làu kinh điển, mà chỉ nhai đi nhai lại lời của Thánh Hiền và có Niệm Phật cũng chỉ niệm lấy số nhiều, chớ không thành tâm và thật hành chơn chánh, thi chẳng khác nào nấu cát mà muốn thành cơm thì không thể được, nghĩa là kẻ ấy chẳng bao giờ diện kiến Đức Di Đà hay là được Đức Di Đà cứu vớt:

Muốn cho sanh chúng dễ tu hành,
Lấy niệm Di Đà nhủ đức tin.
Nhờ đó ngày đêm không rối lãng,
Sau rồi cũng được quả siêu sanh.

Siêu sanh về cõi Phật Di Đà,
Khỏi phải sắm ăn khỏi tạo nhà.
Cũng khỏi bận lòng may với mặc
Mọi điều do Phật hóa mà ra.

Lời khuyên đồng đạo ghi lòng,
Đời cùng đã đáo đèo bồng nữa chi.
Tỉnh hồn niệm Phật A Di,
Sớm an tâm chí muộn thì khỏe thân.
Khỏi còn bận nợ lần khân,
Không còn vướng mắc trong trần mê ly.
Hạ nguơn cuộc biến đến kỳ.
Nghiệp trần còn nặng dễ gì bảo thân.
Bao nhiêu khổ ách của dân,
Bởi lòng mến tục mới chần ngần ra.
Nhược bằng toàn cả chư gia,
Một niềm hướng thiện giữ mà tâm không.
Được yên được rạng khắp đồng,
Khỏi còn nhuộm thấm màu hồng Đông Tây.
Lời khuyên đồng đạo gái trai,
Nghiêng mình ở trước Phật đài phát tâm.
Chừa bao tội ác sai lầm,
Sửa mình đoan chánh gìn tâm hiền lành.
Nhờ trên Phật dụng oai linh,
Trở tâm an chiếu không sinh rộn ràng.
Lại cầu gặp hội Kim San,
Hầu nghe pháp nhiệm khỏi đàng hôn mê.
Trần hoàn giả tạm ủ ê,
Nhà xưa con cũ quay về sớm đi.
Đắm say cõi mộng ly bì,
Khó mong tồn tại gặp khi Thầy về.
Gương lành của Phật tạc bia,
Chúng sanh noi lấy ngày kia thanh nhàn.
Ham mê chi thói bạo tàn,
Say sưa chi những bạc vàng trần ai.
Sống đây chỉ khác bị đày,
Bệnh hành, già phạt khổ thay vô thường.
Chẳng qua trong cái tình thương,
Tình thương đê tiện oan ương lâu đời.
Thương trần thương cuộc vui chơi,
Quên đi đạo nghĩa chịu đời lao lung.
Trải qua kiếp chết trùng trùng,
Mà người không chán lại không não nề.
Một khi tỉnh được cơn mê,
Cùng đem đạo nhãn trông về kiếp qua.
Lòng kia chi siết xót xa,
Chạnh thương nào mẹ nào cha muôn đời.
Nào thân nào xác bời bời,
Chất chồng tợ núi trôi thời đầy sông.
Mỗi ai đều được xét lòng,
Thấy mình sái phạm thì không chần chờ.
Cương lên quét sạch mây mờ,
Thì là ánh Nguyệt mỗi giờ sáng trưng.
Tâm hồn của cả chúng dân,
Nguyên lai minh diệu mê trần chưa thông.
Một khi biết được nhơn ông,
Hồi đầu kiến diện thời không đọa đày.
Đọa đày lao khổ muôn ngày,
Đời ơi tỉnh thức sau này nhàn ca.
Nhược bằng theo lũ quỉ ma,
Ngày kia phải chịu đẫy đà lao lung.
Ngày nay các nước tranh hùng,
Khiến cho quả khổ trả xong kiếp nầy.
Ai bền chí đạo dồi mài,
Khi qua cõi Thượng hưởng rày yên vui.
Bây giờ gặp khổ đừng lui,
Dầu ai câu nhử không lùi chơn tâm.
Hằng luôn xét việc kẻo lầm,
Đời này dối mị khó tầm Phật Tiên.
Phật Tiên khi gặp đeo liền,
Dầu cho vở núi lòng phiền chẳng buông.
Lẹ chơn qua khỏi buội truông,
Được xem rõ mặt Phật Vương giáng trần.
Lấy lòng quảng ái chăn dân,
Đem câu đạo đức bủa gần đến xa.
Chừng ni khắp cả người ta,
Không còn gây cuộc can qua rối loạn.
Xem nhau một đạo một tràng,
Thương nhau như thể gia đàng một nơi,
Không còn gốc biển chơn trời,
Chia phần Nam Bắc rã rời tình thâm.
Nam mô cầu Phật Quan Âm,
Cầm nhành dương liễu từ tâm rải vào.
Khiến xui bớt cuộc máu đào,
Đem câu thạnh thới bủa vào dân gian.
Nay còn sống cảnh tân toan,
Bao nhiêu kẻ thác hồn oan dập dờ.
Lo âm binh chúng phất cờ,
Nổi lên dấy cuộc mịt mờ bốn phương.
Chừng ni tiếng réo lạnh xương,
Đua nhau vật bắt muôn ngàn thảm thê.
Nay trần hoa lệ chớ mê,
Đợi sau vinh diệu hầu kề sẻ ham.
Ngày nay lao khổ phải cam,
Sau rồi hạnh phúc Phật đam vào.
Mùi hương tiếng kệ ngọt ngào,
Tiềm tàng lẽ nhiệm thua nào gỏi nem.
Rửa mình cho khỏi luốt lem,
Ngày kia Đức Phật sẽ đem Liên đài.
Những ai được có công dầy,
Vùa dân giúp nước Chúa Ngài thưởng ban.
Những ai phước đức bủa tràn,
Rộng lòng yêu chúng Phật đàng được siêu.
Nay còn phải cảnh đìu hiu,
Sau này đem lại Thuấn Nghiêu rõ ràng.
Sự tu chớ có mơ màng,
Hãy nên mạnh tỉnh bạc vàng khó so.
Tuy rằng trong phút gay go,
Phật Tiên Ngài vẫn theo dò cứu an.
Hiền nhân khi gặp gian nan,
Mà luôn được khỏi chẳng mang khổ nghèo.
Những người tà tịch mãi đeo,
Kiếp chày cũng bị hùm beo xéo dày.
Đường tu nhờ sự bền dai,
Chớ theo phàm tục vội quay không rồi.
Thích Ca xưa được cao ngôi,
Nhờ lòng kiên nhẫn trau giồí sáu năm.
Bao nhiêu tà quái dọa hâm.
Lòng không nao núng vững tâm thạch bàn.
Bao nhiêu Điện Ngọc thềm vàng,
Với lòng coi thể tro tàn củi khô.
Bao nhiêu son phấn điểm tô,
Coi như hình nộm không hề đắm say.
Đầy lòng thương khắp trần ai,
Luôn luôn hoài bão cứu tai cứu nàn.
Nhờ tâm của Phật hồng khoan,
Cho nên mới được chói chang đạo mầu.
Nay đây sanh chúng tu cầu,
Một lòng theo dõi có đâu đọa đày.
Nếu không thành được kiếp này,
Cũng là kiếp tới Liên đài được lên.
Lời khuyên người rán gìn nên,
Lẽ mầu phải kiếm chẳng quên trau lòng.
Ngày nay khắp cả cõi hồng,
Càng ngày càng lắm gai chông thảm sầu.
Họa tai dấy khắp Á Âu,
Dần nhau xô đẩy Năm Châu nguy nghèo.
Sự tu gìn vẹn trong veo,
Hơn là sức mạnh người theo bấy giờ.
Tuy là không trống không cờ,
Mà yêu dân chúng khỏi bờ cũng xuôi.
Cùng nhau kẻ tới người lui,
Giữ gìn nề nếp cùng vui đạo mầu.
Khiến cho họa chẳng thêm sâu,
Vị lai nhờ Phật khỏi âu máu đào.
Phép linh Ngài cứu đồng bào,
Khiến cho đại cuộc ngày nào gần đây.
Bao nhiêu thù oán đã gây,
Trở nên thân ái dựng xây thanh bình.
Điều này không dụng chiến chinh,
Lại an khắp cả sanh linh đó mà.
Nhủ khuyên đồng đạo trẻ già,
Lòng kia ghi nhớ về nhà chớ quên.
Muốn sao cho được vững bền,
Tin rằng lòng chánh làm nên Thánh Hiền.
Làm phải gặp phải tự nhiên,
Làm hung hung đến lời truyền xưa nay.
Gọi lòng tất cả gái trai,
Nhớ ghi điều thiện hôm mai giữ gìn.
Vì chưng bệnh dấn nơi mình.
Lời khuyên coi ngắn nhưng tình dài lâu.
Đến đây ngưng lẽ Đạo mầu,
Xin người đồng đạo hãy âu niệm tình.

Lời khuyên đã dứt hãy ghi tâm,
Gìn giữ ngồi, đi với đứng, nằm.
Không phút lảng quên câu lục tự,
Hẳn là họa khổ chẳng hề lâm.

Tây An Cổ Tự, Đêm 18 tháng 5 Giáp Ngọ (18-6-1954)
  THÁNG SÁU:
35- Rằm Tháng 6 Giáp Ngọ (Bản Tâm)

Rằm Tháng 6 Giáp Ngọ: BẢN TÂM


PHẬT ngôn Phật hạnh Phật lìa mê,
GIÁO hóa nhân sanh rõ đạo đề,
HÒA cả năm châu ngưng sát hại,
HẢO quân Hảo tướng Hảo dân lê.

Kính chào tất cả đồng đạo nam nữ,
Ví như người đặt hột giống trên miếng đất xấu, nhưng mỗi ngày thường bón phân tưới nước, thì hột giống kia cũng được nảy nở tốt xinh như đặt trên miếng đất tốt vậy. Trái lại, người có miếng đất tốt mà sau khi đặt giống xuống, ngày này qua ngày khác không chăm nom săn sóc, thì hột giống ấy không bao giờ đâm chồi nảy lá được.
 
Đối với chánh đạo cũng thế, chúng ta đã bước vào chánh đạo, lãnh hội được giáo lý cao sâu của Đức Thầy, mà mỗi ngày chúng ta không chuyên tâm tu hành một cách chánh đáng, thì không bao giờ giờ đến chỗ thành công đắc quả được.
 
Chẳng thế lại còn mang tiếng là người giả đạo, mà tu khoát lốt bề ngoài và còn lãnh lấy bao nhiêu tội lỗi, do lòng chần chờ nghi hoặc đưa đến.

Thưa quý đồng đạo,
Ý chỉ của Phật Pháp không ngoài bản tâm của chúng sanh, chiếu theo tâm sanh diệt của chúng sanh không ngừng, mà giáo pháp của Đức Phật cũng không ngừng đem chúng sanh có thiện căn và lòng ngưỡng mộ đạo lý, sớm trở lại con đường chí chơn chí mỹ, rửa bỏ tất cả tính nết hung ác gian tà, để tránh cho mình ngày kia khỏi các quả khổ đưa lại.
 
Nếu Phật Pháp không ngoài bản tâm, thì chính nơi bản tâm của Phật Pháp đồng đạo cứ mỗi ngày soi xét bản tâm, để thấy rõ những gì của nó tính toan và ham muốn. Nếu tầm ấy khởi việc lành thì rán đeo đuổi thực hành cho được việc ấy, còn trái lại tâm ấy Khởi việc dữ thì hãy cố gắng chừa bỏ, cho đến khi nào việc dữ ấy không còn tái khởi nữa.
 
Mỗi ngày chúng ta cứ dụng tâm như thế, thì giòng nước nhân thiện càng lúc càng lan tràn khắp chốn, cội rễ tham ác mỗi bữa khô mục đến tiêu. Do đó, phước huệ thêm to, đạo căn thêm lớn, phẩm vị Bồ Đề chắc được thăng tọa.
 
Đã hiểu nơi tâm có Phật Pháp, nơi tâm gây ra tội phước, mà không quan sát lại bản tâm, cứ mong vọng bên ngoài cầu tìm kẻ khác, lo kiếm cái nọ cái kia, tưởng chừng như chánh đáng và hiệu quả, chẳng ngờ sự cầu tìm bên ngoài ấy không chế ngự được vọng tâm, không ngăn cấm được các nghiệp, chẳng khác nào bệnh đau trong tỳ phế mà chỉ thoa thuốc ngoài da, thì không thể lành bệnh được. Một khi không trừ diệt được vọng tâm, thì không dứt được ác nghiệp, ác nghiệp không dứt thì khổ báo vẫn còn.
Bởi thế cho nên muốn trị tâm, cũng như muốn trị bệnh, phải trị ngay gốc của bệnh.

Thưa quý đồng đạo,
Mang danh một tín đồ Phật giáo, dĩ nhiên chúng ta có bổn phận treo gương tốt lành cho đồng đạo soi chung, chen vai thích cánh giữa nhau, để tiến mạnh trên việc làm phước lợi nhân quần xã hội.
Đồng thời, cũng cần gián tiếp dùng mọi phương tiện thanh cao, đánh mạnh vào tánh hiếu kỳ của ngoài đạo hay chưa hiểu đạo, trông vào đấy đem lòng thán phục, tỏ dạ tín thành, để lần lượt gần gũi và cùng chung thờ đạo pháp như chúng ta. Được như thế, mối đạo chẳng lu mờ người đạo chẳng ai khinh và nền đạo được bành trướng khắp cả dân gian.
 
Được vậy cơ cứu độ của ơn trên trong buổi hạ nguơn này sẽ đem lại một kết quả rộng lớn, mà người trong đạo cũng sẽ lãnh lấy phần ban thưởng rất mầu trong ấy.

Thưa quý đồng đạo,
Giáo lý của Đức Thầy mà tôi đã được kê cứu và thấu hiểu trong đó.
Tuy Đức Thầy dạy những lời dễ nghe dễ hiểu, nhưng nó hàm dung tất cả giáo pháp sâu mầu của Đức Phật trong ấy, và do đó đưa chúng sanh đến địa vị thánh hiền. Song chúng ta muốn thấy rõ chỗ mầu nhiệm trong ấy, không thể dùng nhục nhãn xem nơi giấy mực mà thấy được đâu, cần phải thấy nghĩa lý ảo ẩn của mỗi câu.
 
Nhứt là phải nhận lời dạy bảo trong đó rồi xem lại bản tâm.
 
Vì sao? Vì lời Đức Thầy ghi trong giấy mực chẳng khác ngón tay chỉ mặt trăng, muốn thấy mặt trăng phải nhơn ngón tay mà xem mặt trăng, chớ không nên chấp xem ngón tay mãi, sẽ không thấy mặt trăng được.

Giáo pháp của Đức Thầy chỉ cách cho chúng ta diệt hết vọng tưởng vô minh, trở lại bản tâm thanh tịnh sáng suốt, từ vô thỉ dĩ lai chẳng dời chẳng đổi, rất nhiệm rất mầu. Bởi chúng sanh sống trong giấc mê làm, không để ý xem xét đến, thành thử bị các nghiệp vọng tưởng lôi cuốn, chịu đau khổ. Đó chẳng khác nào mắt thấy muôn việc ngoài mà không thấy chót mũi của mình, mặc dầu chót mũi rất gần đôi mắt.
 
Do lẽ ấy mà giáo lý của Đức Thầy không chuộng hình sắc bên ngoài, vì nó là vật biến hóa của tâm và chính nó không bền bỉ, bởi nó có xác chất, tất cả phải có hư hoại, đã biết vật hư hoại, mà còn đeo đuổi theo nó cho hư hoại lây, là không phải kẻ trí và cũng phí uổng một đời tìm kiếm.
 
Vì vậy, cần phải trở về với bản tâm, bản tâm không hình ảnh, tất không bị tiêu diệt và còn làm chủ tất cả sự vật.
 
Trở về với bản tâm bằng cách nào? Bằng cách trở lại cái rỗng không sáng suốt của tự tánh, không nhiễm ô, không điên đảo, không câu chấp, không bị tướng nhân ngã ràng buộc, vì lợi ích quần sanh mà tâm ấy thường nói những lời lành, làm những việc lành và nghĩ những sự lành.
 
Nếu được như thế: Đạo thì chơn, hạnh thì chánh, Đức thì cao, Lượng thì rộng, Tâm ấy gọi là tâm của Phật tử, nhờ tâm này đưa chúng sanh khỏi bến mê lầm:

Gốc đạo không ngoài cái bản tâm,
Người luôn để ý xét xem ngầm,
Thấy lòng vọng khởi điều nhơ xấu,
Cố gắng chừa đi kiến Phật tâm.

Phật tâm mầu nhiệm lắm người ơi !
Hàm súc mười phương quá tuyệt vời.
Tự chủ được tâm siêu sáu cõi,
Tháng ngày mặc sức cuộc vui chơi.


Thưa đồng đạo,
Hôm nay tôi cần nhắc đồng đạo được nhớ lại sự luân chuyển của chúng sanh trong cõi Ta Bà khổ này, sự luân chuyển ấy thường do bốn cách như sau đây:

Lẻ thứ nhứt là do chỗ thấy của mỗi chúng sanh: Cái thấy ấy không được chơn chánh, mỗi khi trông vào hình sắc tốt đẹp, thì sanh lòng luyến ái, cố lấy cho được để làm vật sở hữu. Trái lại, khi thấy những hình sắc xấu xa thì khởi lòng chán ghét, tìm cách loại bỏ.
 
Do đó, thúc đẩy con người đến chỗ thù hằn sát hại, gây nên oan nghiệp bất lành ở kiếp hiện tại hoặc vị lai và cũng vì cái thấy lầm lạc câu nệ tối tăm ấy dẫn dắt con người lặn hụp trong bể sanh tử, đã chịu vô số kiếp mà chưa dừng lại được.

Lẻ thứ hai là do sở dục của mỗi chúng sanh: Từ cái thấy sai lầm đến khởi muốn sai lầm, cái muốn ấy thường là cái muốn được có danh hơn người, có lợi hơn người và có thú dục hơn người, mặc dù trong cái muốn ấy phi pháp, bất công, tình oan, nghĩa trái, mà lòng ham muốn tồi tệ ấy của họ không thấy chán và cũng từ cái ham muốn nhỏ hẹp xấu xa ấy, khiến cho mỗi người gây sự chênh lệch giữa nhau, tạo thành mối hiềm khích giết hại đau khổ.

Lẻ thứ ba là lòng cố chấp: Sau khi thấy sai lầm sinh cái muốn nhơ trược, thì lòng liền nổi lên cố chấp, cố chấp cái của mình đã thấy, cái của mình đã muốn kia là đúng, rồi giữ gìn ràng rịt mãi không để hở. Nếu lúc ấy có kẻ nào cho việc đó là không phải, thì kẻ ấy sẽ bị họ thịnh nộ dữ dội lên, do chỗ cố chấp ấy xây thành bức rào giữa xã hội và sự cách biệt giữa gia đình này với gia đình khác, giữa nước nọ với nước kia, sự lấn đất tranh quyền cũng do đấy sinh ra.
 
Hơn nữa, cũng do bởi lòng cố chấp sở dục. Nên sau khi thác, nghiệp ái lôi kéo trở lại thế gian, để giữ gìn theo đuổi sự vật và lòng ham muốn trước kia. Điều này là “Vạn khổ chi miên”.

Lẽ thứ tư là vô minh: Những cái thấy sai lầm, cái muốn xấu xa, cái cố chấp nhỏ mọn mới trở thành điên đảo vô minh. Do vô minh không nhận được chơn lý, chẳng thấy cõi trang nghiêm của các Phật mười phương, cứ đem lòng luyến ái chốn trần lao phàm tục và và nhận nơi đây là sung sướng, vui vẻ, vợ con, cha mẹ, bạn bè, quyến thuộc, tài vật, danh chức không màng đến sự giải thoát. Nếu thế, bảo sao không theo ý mình, gây khổ cho người mà chẳng xót thương, chẳng nể sợ nhân quả.

Nói tóm lại, do cái vô minh ấy đưa dắt chúng sanh vào đường tội lỗi, kết dây oan nghiệt, tạo nghiệp luân hồi trả nghiệp, vui buồn, mừng giận; thương ghét cũng do đấy sinh ra.
 
Đức Phật hiểu rõ nguồn cội của nó, Ngài chỉ mọi phương pháp mở khiếu trí huệ, khiến chúng sanh cắt phá bức màn vô minh, nhận rõ viên ngọc như ý, thấy được tai hại của tư dục, tà kiến làm gốc chiêu khổ hồng trần, mà chính nó là vật tạm giả.
 
Một khi hầu hết chúng sanh điều được như thế, tất biến đổi cõi Ta Bà ngũ trược này thành cõi tịnh độ trang nghiêm.

Thưa đồng đạo,
Bốn điều trên đây thường khiến chúng sanh mắc trong 4 khổ, chịu đủ cực hình và đắm chìm mãi trong biển khổ sanh tử.
 
Để trừ bốn điều ấy, chúng ta cần giữ gìn chỗ thấy ngay chánh, đúng Chánh kiến của Đức Phật. Mỗi khi trông vào vật nào, nên tìm rõ nguyên nhân và kết quả của vật ấy mà không ô nhiểm tham chấp. Nếu thấy việc ấy được chơn chánh, đúng giáo pháp của Đức Phật, nghĩa là không tổn nhơn ích kỷ, có lợi ích cho chúng sanh thì vui vẻ xem đến và phát khởi tâm lành để thật hành.
 
Còn trái ngược việc ấy thì chẳng để mắt tới và có xem vào cũng như gương chiếu cảnh, chẳng xao động vướng mắc.
 
Đó là cách đối trị cái thấy lầm lẫn.

Còn đến như cái muốn nhơ trược, thì chúng ta cần suy xét lại, coi cái muốn ấy thanh trược thể nào, lành dữ ra sao, có hại ai không và công lý có nhìn nhận chăng, kết quả có cao quý chăng?
 
Nếu thấy rằng các điều ấy rất nhơ xấu, không đáng để chúng ta muốn, thì hãy dùng cái chánh niệm thay vào cái muốn đó tức khắc, nghĩa là thay vì muốn việc nhơ xấu hãy đổi lại muốn việc tốt lành, có lợi ích người đời, được cao siêu đạo lý, gây phước huệ về sau, dầu khó cũng cố gắng cho được.
 
Đó là cách đối trị cái muốn nhơ trược.

Còn lòng câu chấp, chúng ta xét lại cái câu chấp có được tồn tại mãi không?
Ví dụ: Vợ con, nhà cửa, sự vật do ta sắm sanh có được còn ở tay ta gìn giữ, hay rồi đây nó sẽ về tay người khác, nếu ta nghèo nàn hoặc chết chóc, hẳn không thể nào giữ còn ở tay ta mãi và nó cũng không tồn tại được vì nó hữu hình.
 
Ngay như xác của ta đây, đến ngày kia còn phải tan rã, huống là những vật do ta sắm ra, đâu chẳng theo cái công lệ ấy. Nghĩ như thế, tự thấy lòng cố chấp của chúng ta tự nhiên tiêu diệt. Vả chăng, lòng câu chấp nếu còn là tâm hồn con người còn trong phạm vi nhỏ hẹp, chỉ biết mình không biết người, giữ túi nhơ không biết nhục, nuôi kẻ giặc lấy làm vui, sống trong cái chết mà kêu căng tự đắc và một điều gần hơn hết:
 
Nếu lòng câu chấp càng nhiều, thì tâm vị tha càng hẹp, chẳng xót thương kẻ khác để cứu giúp những lợi ích cơm, tiền, bô vải và đạo pháp.
 
Bây giờ muốn diệt trừ lòng cố chấp ấy, chúng ta cần đem cái tâm vô ngã đối trị, nghĩa là xem thân ta không có nó, có đây cũng là tạm thời và do nhân duyên nhóm họp mà có, do tứ đại cấu thành mà nên, khi nhân duyên tan, tứ đại rã thì thân ta hóa ra không.
 
Đến lúc ấy, những vật của ta đang dùng đâu còn đem theo được và những vật ấy để cho thân này dùng hưởng, mà thân này tan rã thì vật ấy còn có ra gì. Nghĩ thế rồi, tự thẹn lòng cố chấp như hớp gió Tây luống công vô ích.
 
Chi bằng: Đem cái thân ta đây gieo giống bồ đề, tạo thoàn bát nhã, gay chèo tinh tấn, lướt sóng vô minh, cứu vớt chúng sanh khỏi vòng trầm lụy. Có phải là việc làm cao siêu, đáng để đời noi dấu hay không?
Đó là cách đối trị lòng câu chấp.

Còn vô minh, chúng ta lấy trí quán sát tự tâm coi nó phát kích từ đâu? Hình tướng ra sao? Cái nghĩ ngợi suy tính bóng dáng như thế nào? Nếu thật có vô minh thì chúng sanh cứ mãi chúng sanh, đâu thành được Phật.
 
Nếu có chúng sanh thành Phật, thì vô minh ấy không thật có. Nó chẳng qua là do vọng tưởng điên đảo gây thành bóng dáng, như nhìn lâu thấy hoa đốm giữa hư không.
 
Xét như thế, chúng ta tự hiểu ngay cái bản tâm có diệu năng biến hóa. Nếu khéo dùng đường chánh thì nó phát động chánh, còn dùng đường tà thì nó phát động tà, mà tà chánh đều do tâm khởi chấp sanh ra.
Kỳ thật, nguyên lai của bản tâm, vốn lặng lẽ sáng suốt, không có chi là vô minh điên đảo cả. Như vậy thì dứt lòng cố chấp vọng tưởng tất không còn vô minh. Vô minh đã dứt Tâm Diệu Minh hiện ra như người ngủ mới thức, biết rõ sự giả dối trong cảnh chiêm bao và từ đó trở đi sẽ đủ tin nơi mình không còn lầm lạc.
 
Đó là cách đối chị lòng vô minh.

Bốn cách đối trị trên đây nếu thực hành đúng đắn sẽ nên được quả hiền thánh vị lai.
Nếu không nói hiện tại hết lăn lộn trong cõi mê, chẳng đắm chìm trong bể ái, thừa sức cỡi thuyền từ đi khắp đó đây, tùy nghi phổ hóa chúng sanh, “Chuyển Mê Khai Ngộ” đồng về cảnh giải thoát:

Đạo lý sâu xa chẳng phải thường,
Cuộc trần mong mỏi chúng đừng vương.
Bốn điều “Lưu Chuyển” mau trừ dứt,
Sẽ khỏi lao lung khỏi đoạn trường.

Đoạn trường cho khỏi hạ nguơn đây,
Thương xót môn nhơn vắng Đức Thầy,
Đường tối không người đưa gậy dắt,
Lắm người va chạm xát vào cây.

Hỡi đồng đạo, hỡi người đồng đạo,
Mang danh ở trong nền Phật giáo.
Hãy liệu sao toàn Hảo toàn Hòa.
Nay vẫn còn đương cuộc can qua,
Đường tu tỉnh cần nên sốt sắng.
Gặp phải lúc Đức Thầy xa vắng,
Cả đạo đồng ai chẳng đau buồn.
Biết thương Thầy như khát nhớ nguồn,
Mai tối phải vẹn đường đạo đức.
Tai nghe tiếng Sĩ Thanh khuyên dứt,
Lòng gắn ghi chớ để rời xa,
Buổi loạn ly đau khổ muôn nhà,
Khi tận diệt ưu sầu khắp chúng.
Lời Phật bảo trăm đều thảy trúng,
Tiếng Thầy khuyên muôn việc đều chân,
Sự tu hành ta vẹn gìn ân,
Đường Phật Pháp diệu thâm vô lượng.
Hiền lành mới sau này chung hưởng.
Bạo ác thì đâu khỏi tận tiêu.
Mỗi người nên giữ chặc qui điều,
Sau Thầy tớ gặp nhau vui thú.
Nay chẳng khác như nhà không chủ,
Mặc cho người đội mũ mang hia,
Khiến lê dân nước mắt đầm đìa,
Làm đất nước thêm phần u ám.
Dân chúng vẫn còn trong kềm hãm,
Đạo mầu chưa có dịp quảng khai,
Mãi quay quần trong chỗ cấn gai,
Còn vấn vít những điều eo hẹp.
Muốn cả chúng việc làm tốt đẹp,
Mong khắp nơi ý niệm thanh cao.
Đời mõi mòn chớ quản sang giàu,
Thế tận diệt tranh chi hơn kém.
Túi danh lợi khuyên người hãy ném,
Nét quyền oai xin chớ phô phanh,
Khỏi đọa sa vào cõi bàng sanh,
Thế mới đáng con lành đạo đức.
Rất mong mỏi toàn dân tỉnh thức;
Lòng không quên khuyến khích tu hành.
Đức Thầy khuyên lánh dữ làm lành,
Nhưng mấy kẻ cử tà, quy chánh.
“Thấy đạo lý chớ nào thấy tánh”,
Lời Đức Thầy nói rõ chẳng sai.
Tuy là đông đông thật hơn ai,
Nhưng mà ít ít thay vô kể.
Đạo mới thoáng qua cho rằng dễ,
Dễ nhưng đời khó thể sánh bằng,
Biết làm sao cho Phật, Pháp, Tăng,
Ngày một được tràn Nam, Trung, Bắc.
Chớ Hậu Giang vựng nhau trối chặc,
Biết bao giờ thế giới hiểu mình.
Lý tu hành của Phật rộng thinh.
Đâu phải ở trong vòng nhỏ hẹp,
Việc tà mị khuyên người hãy dẹp,
Điều chánh chơn cố gắng phô trương.
Đồng khươi cho lan rộng mùi hương,
Để dân chúng ngửi vào luyến thích.
Dùng trí huệ phá màn u tịch,
Đem đạo mầu tỉnh kẻ say mê,
Muốn làm cho cùng đáo Long Huê.
Mong khỏi phải lâm vòng tiêu diệt.
Đường đạo lý phải nên mài miệt,
Nẻo vui chơi gác dẹp bớ đời.
Cù lao này chưa đặng bao người,
Mà lòng cứ tha hồ vui sướng.
Giặc đã phủ xem đà tứ hướng.
Mình khác chi tròng đỏ trứng gà
Việc làm lành hợp tánh muôn nhà,
Sao chẳng chịu xông ra hành sự.
Cứ mãi đua theo điều hung dữ,
Rồi sau này cầu cứu với ai.
Người dương trần còn chẳng chịu thay,
Huống Thần Thánh đâu hề ưa mến.
Sợ đến việc thây nằm lểnh ngểnh,
Fồi vái van Trời Phật khó trông,
Phải kiêng trinh chói rạng con Hồng,
Cố giữ gìn giữ cho xong Phật giáo.
Tà lẫn chánh ngày nay trộn trạo,
Hung với hiền lọc lựa nhiều lần.
Nhưng khắp vùng có Phật có Thần,
Trùm che chở những người lương thiện.
Kẻ bạo ác gặp khi biến chuyển,
Lũ tinh tà lôi kéo giết đi,
Người hiền lành Thần Thánh phủ vi,
Dùng phép nhiệm chở che áo bí.
Chuyện ấy thật thậm kỳ thậm dị,
Nên mọi người chẳng thấy chẳng nghe.
Tưởng đâu mình qua lọt lưới the,
Không ngờ việc trời cao soi tỏ.
Cả khuyên hết mọi người lớn nhỏ,
Đường đạo cần tinh tấn một lòng,
Mới mong rằng thấy hội Hoa Long,
Và khỏi phải lâm cơn binh lửa.
Nạn trần thế còn phen cứu chữa,
Nạn thú hùm khó nỗi đỡ ngăn.
Lại còn thêm thủy kiệt sơn băng.
Nhiều tai biến vô ngằn khó hiểu.
Bởi vì thế mới đem đạo lý,
Khuyên mọi người xét kỹ tu hành.
Rán trì tâm cho được đắc thành,
Kẻo phải uổng công sanh cha mẹ.
Đời nay thể quả dưa nứt nẻ,
Chỉ trông ngày tan rã nữa thôi.
Còn chi mà chẳng chịu trau giồí,
Để uổng kiếp con người nguơn hạ.
Lời nhắn nhủ khuyên người để dạ,
Từ nay đây chiến họa tràn lan.
Nạn kiếm đao khua chạm một tràng.
Khua chạm mới đến màn tận diệt.
Với những kẻ tu hành chơn thiệt,
Dầu mất đi hồn cũng tái sinh,
Những gian tà sống đủ xác hình.
Tựa như chết hồn ma đã dựa.
Thân tạm giả sao còn lần lựa,
Những cửa nhà khác thể phù vân.
Trên trần ai nếu chịu cân phân,
Thì thấy rõ những điều chơn giả.
Muốn mọi người đồng tâm nhứt dạ,
Sớm cùng chiều đạo cả trau giồí.
Mặc dù khi đi đứng nằm ngồ,
Luôn tưởng chánh luôn lời niệm Phật.
Tuy không ảnh không hình mà thật,
Đến ngày kia cứu được chư gia.
Ấy là do phép nhiệm Di Đà,
Thương trần thế có lòng chơn chánh.
Cõi tịnh độ muôn vàn thơi thảnh.
Chốn Ta bà trăm việc lao lung.
Đời hỡi đời ! Gìn vẹn hiếu trung,
Đạo đồng hỡi ! Ân cần tu tỉnh.
Tiếng khuyên nhủ chẳng hề phờ phỉnh,
Giọng réo kêu luôn những chánh chơn.
Muốn cho người giữ vẹn xác thân,
Khỏi phải chịu hùm tha sấu bắt.
Sợ khi phải bệnh mê làm ngặc,
Khó tìm ra thuốc pháp nhiệm mầu.
Đạo ngày nay tuy dễ mong cầu,
Sau tìm kiếm thiệt là rất khó.
Nay còn dịp để cho lớn nhỏ,
Sửa tâm thần trở lại lương hiền.
Nếu bây giờ ham bạc ham tiền,
Sau ắt phải rã hồn rã xác.
Người dẫu được ở nơi lầu các,
Cũng đừng khi những kẻ chòi tranh.
Hay phước phần đã chiếm cao danh,
Đừng khinh rẻ những người hèn mọn.
Đời tạm giả việc làm cũng mỏn,
Danh lợi như tràng mộng chẳng lâu.
Hưởng kiếp này e mất kiếp sau,
Nay không hưởng sau rồi được hưởng.
Nhân với quả ba đời khó tưởng,
Sự trả vay khúc chiết vô hồi.
Đời ơi đời ! Người rán trau giồí,
Đạo hỡi đạo ! Kẻ mau chiêm nghiệm.
Để trải qua sau này khó kiếm,
Phật với Trời há dễ gặp đâu.
Lời khuyên răn hãy rán hồi đầu.
Tiếng gào thét cần âu tỉnh thức.
Giọng hiền hòa chỉ vì đạo đức,
Người nghe không đây chẳng ép chi,
Có đôi điều muốn kẻ tường tri,
Rằng cuộc thế không còn lâu lắc.
Xem bốn phía toàn là binh giặc.
Tự hiểu cho mọi việc ra sao,
Cả đôi đàng ai cũng cầm dao,
Chi cho khỏi một ngày đổ máu.
Trên con thuyền mọi người xào xáo.
Gặp giông to khó tránh đắm chìm.
Lời khuyên răn xét cổ nghiệm kim,
Tiếng kêu gọi lọc chơn lừa giả.
Nói vắn tắt mong người để dạ,
Lời thô sơ đây đã ngưng rồi.
Nghe kỳ này sau nhớ chơn dời,
Đến đây để lãnh lời khuyên nhắc.

Kệ giảng không ngừng hỡi bá gia,
Đường tu chưa được bấy nhiêu nhà,
Còn hung còn dữ còn khuyên nhủ,
Hãy rán trau tâm bớ trẻ già.

Tây An Cổ Tự, Ngày Rằm Tháng 6 Giáp Ngọ (14-7- 1954)
36- Ngày 30 tháng 6 Giáp Ngọ (Tám Điều Trọng Cấm)

Ngày 30 tháng 6 Giáp Ngọ (Tám Điều Trọng Cấm)

PHẬT kiếm trần như mẹ kiếm con con,
GIÁO răn chẳng quản xác hao mòn.
HÒA từ miễn được như lòng muốn,
HẢO vị mới rằng vị tột ngon.

Thưa đồng đạo,
Tôi nào muốn giảng giải như thế này mãi đâu, vì còn giảng giải là bởi còn có người tội ác. Nhược bằng, cả thảy mọi người đồng tâm nhất trí tu hành chơn chánh, thì nào phải bày chi cuộc giảng giải. Điều này tôi rất khao khát, cũng bao nhiêu anh em tín đồ trông đợi, tâm hồn đạo đức của toàn cả đồng bào trước kia được sống lại, gây niềm tin tưởng, dựng đức hy sinh, tạo mọi phúc lợi thanh cao cho khắp cả dân gian trong xứ, được thụ hưởng một cách khoái lạc.

Như thế là đi đúng ý nguyện của Thầy Tổ.

Huyền cơ thâm diệu lắm người ôi.
Giảng giải muốn sao giữ đạo rồi.
Ngày lụn tháng qua lòng thỏn mỏn,
Ngữa trông Trời Phật cứu cho đời.


Tình thế hiện nay, không những ở vùng này mà đến vùng khác, thấy nhiều người lớp thì nhắc nhở chặn đứng sự sa ngã của anh em tín đồ. Sự ngã ấy vì tiền bạc mua chuộc, vì sắc đẹp cám dỗ, vì quyền tước cuốn lôi và cũng vì tình thế chiến tranh kéo dài, làm lụn bại tâm trí nhiều người. Điều này thật là một tính tình dễ cảm và và quá khiếp nhược, mới không kềm giữ đức tin trên đường chánh. Theo người quân tử, dù sống trên đống tiền, cũng không bị tiền làm chóa mát, ngồi trong tiệc rượu vẫn chẳng để rượu cuồng tâm, gần chốn thanh lâu chẳng bị phấn sáp say lòng và chẳng bị quyền tước làm mất đạo nghĩa.
 
Nhờ thế mà đức độ hy sinh càng cao, tiết tháo càng lớn, tạo nhiều công nghiệp to tác trong thiên hạ. Những cái tốt đẹp ấy, chúng ta nên học và làm được như thế, mới xứng đáng kiếp người sanh ở thế gian.
 
Trái lại, mấy năm đã trôi qua,
Nhìn xem dân chúng khắp muôn nhà.
Đường trở lại quên đường Đạo,
Khiến kẻ từ tâm bắt xót xa.


Sự trễ biếng cũng như lòng nghi ngờ của anh em tín đồ lúc này, làm tổn thương danh dự của đạo.
Bởi nó làm cho kẻ đứng ngoài chỉ trích những tệ đoan, do anh em trong đạo vô tình hay cố ý gây ra. Do đó, nền Phật Pháp không sớm mở rộng, kẻ còn nghi ngờ thêm sự nghi ngờ, kẻ đã tinh tấn sanh lòng dãi đãi, làm cho đạo huệ chậm khai.
 
Nếu đạo huệ không phát khai được, thì sự thấy biết khó tránh khỏi sai lầm, mà hễ có sai lầm tất có tội lỗi, có tội lỗi thì có oan báo, có oan báo dĩ nhiên có luân hồi.
 
Nếu con người còn luân hồi thì còn lâm vào thống khổ, con người đã khổ mà không biết tránh, còn tạo thêm thống khổ, thì kiếp sống ấy có thú vị chi. Bởi lẽ ấy, lúc nào tôi cũng thành tâm đem hết lời khuyên răn những ai đã phạm tội thì hãy mau mau cải hối, đừng để tội ấy lớn thêm.

Thưa đồng đạo,
Con đường đầy cỏ mọc, mà mỗi ngày đều có chân người đi, thì sẽ trở nên mòn lán. Còn đường mòn mà không người đi thì cỏ lần lượt mọc lên thành rừng rú. Tâm ý con người cũng thế, dù đã tạo nhiều tội lỗi. Bây giờ cố gắng răn chừa thì tội lỗi ấy lần lượt sẽ hết, còn người từng giữ lòng tốt lành, lại một phút ô nhiễm thì những điều xấu xa từ từ sanh trở lại, tệ hơn những người mình đã nói khi trước.
 
Bởi vậy, việc lành, việc dữ đều có thể sửa đổi được cả, nếu quyết tâm thì dù tội ác cách mấy, cũng có thể sửa đổi ra lương thiện được. Huống chi chúng ta chưa làm nên tội trọng, thì lẽ nào không sửa chữa được, việc sửa chữa ấy rất cần, sớm chừng nào càng hay chừng nấy, vì luật đạo chẳng hề dạy việc hung dữ bao giờ và người đời chẳng hề khen bao việc ấy.
 
Sở dĩ con người dám làm nên tội, là bởi chưa nhận biết tội là gốc khổ và chưa thấu đáo sự đầu thai là do tạo nhân bất lành từ trước, lại cũng không biết rõ luật nhân quả và thì giờ quý báu, nên mới để cho ngày tháng trôi qua, làm mòn tuổi sống trong cảnh hung tàn mê muội. Sự mê muội ấy làm nguyên nhân cho việc luân hồi sanh tử. Vì lẽ ấy, hôm nay tôi xin giảng về Tám điều trọng cấm:

1- Đã có nhiều người không tin có Phật, không tin có sự nhiệm mầu của Phật, ngày tháng không chịu thờ phượng cúng bái, sanh lòng ngạo nghễ và bịa chuyện công kích vĩ nghiệp và giáo pháp của Đức Phật.
Điều này đối với kẻ giác ngộ nên chừa.

2- Có nhiều người không tin giáo lý của Đức Phật, lại xúi kẻ khác nghi ngờ thuyết ấy không phải chơn lý, không có sự trừng phạt của luật nhân quả, không có sự báo ứng luân hồi, họ cho rằng lời nói trong kinh sách là một lối hâm dọa, làm dịu sự táo bạo của người đời, chớ không có thật. Do đó, họ chẳng vui nghe người đọc giảng hay nói pháp, thường hay khinh dễ mỉa mai.
Điều này đối với kẻ giác ngộ nên chừa.

3- Có nhiều người đối với hạng tại gia hay xuất gia, chẳng đem lòng kính nể, mặc dầu người ấy rất hiền đức. Trái lại, trong lúc ấy, họ vẫn sợ người oai quyền chức tước, mặc dầu kẻ ấy đã bóc lột, bức hiếp họ.
Điều này đối với kẻ giác ngộ nên chừa.

4- Có nhiều người đối với cha mẹ trong nhà không lòng kính trọng bằng người dưng kẻ lạ mà có của, họ thường mắng nhiếc cha mẹ của họ, để làm vừa lòng kẻ khác, khi cha mẹ già yếu họ chẳng nuôi dưỡng, cha mẹ lầm lẫn họ chẳng khuyên lơn, họ chẳng làm thay cha mẹ những việc mệt nhọc, Trong lúc ấy, họ ký xác để làm vừa lòng vợ con một cách đê tiện.
Điều này đối với kẻ giác ngộ nên chừa.

5- Có nhiều người đối với kẻ nghèo khổ thiếu cơm ăn áo mặc họ chẳng giúp đỡ. Trái lại, họ còn thừa dịp cho vay nặng lời, dỡ trò bóc lột kẻ cùng túng. Trong lúc đó, tuy họ không rỉ một chiêm cho người nghèo, nhứt là người ấy là đồng bào quyến thuộc của họ, họ lại đem tiền của xài vào trường đổ bát, cửa thanh lâu một cách khả ố. Còn nếu họ là người mua bán thì thách cao giá bán, phỉnh gạt chợ đen.
Điều này đối với kẻ giác ngộ nên chừa.

6- Có nhiều người đứng trước kẻ bệnh hoạn, họ chẳng cảm thông nỗi đau đớn của người, để có lời an ủi, chỉ cách điều trị. Trái lại nếu họ là lương y thì bệnh ít nói nhiều, chẳng những cho toa đắt đỏ lại cò mái với tiệm thuốc để ăn thêm tiền đầu. Con bệnh vì lẽ ấy mà mang thêm hai thứ bệnh: bệnh cơ thể, bệnh bóc lột.
Điều này đối với kẻ giác ngộ nên chừa.

7- Có nhiều người đối với mọi người xung quanh không lòng tương thân tương trợ, lúc bình thời họ sống một cách ích kỷ, khi hữu sự thì họ cầu cứu kẻ khác, họ chẳng nhớ ơn ai cứu họ trong lúc khổ, họ chẳng thương ai như thương họ. Vì thế, mà họ lấy cái khôn của mình để hiếp cái dại của người, lúc nào cũng muốn đè lên trên cổ kẻ khác, mà họ quên rằng kẻ khác cũng biết đau đớn như họ.
Điều này đối với kẻ giác ngộ nên chừa.

8- Có nhiều người đối với đạo nghĩa, họ vẫn biết lời của Đức Phật dạy bảo là chánh đáng, việc nhân quả có thật, nhưng họ chẳng chịu cương quyết làm theo việc phải, cứ bìu dìu vợ con gia đình, làm lắm đều tội lỗi, trái ngược sự hiểu biết của họ.
Điều này đối với kẻ giác ngộ nên chừa.

Đối với 8 điều trên đây, kẻ học đạo cực lực trừ bỏ, vì nó gây nhân bất lành, tạo nghiệp đau khổ ở ngày kia:

Thời cơ chẳng đợi một ai đâu,
Trễ bước e mình lọt vực sâu.
Cửa đạo rộng khai màu sáng sủa,
Con lành kiếp tới chớ chờ lâu.


Thưa đồng đạo,
Sự giảng giải của tôi kỳ này như bao nhiêu kỳ khác, không ngoài ý định nhắc nhở già, trẻ, bé lớn trong đạo, phải được hăng hái tiến sát tinh thần tôn giáo. Nếu không được trọn hết cũng được đôi phần, để chẳng thẹn tín đồ nhà Phật và ngày Đức Thầy trở về mới mong gặp gỡ.
 
Nhược bằng ai cũng cứ đua nhau làm việc bạo, vì lợi tư quên nghĩa công, làm việc tổn nhân ích kỷ, bại lý, thương luân, đảo ngược phong hóa, thì chỉ chuốc lấy tai họa vào mình, gây sự tủi phiền cho Thầy Tổ, sống không đáng sống, chết đọa địa ngục.
 
Hai con đường một lành, một dữ, Đức Thầy bảo đi con đường lành mình lại đi con đường dữ, trái lại quyết định của Đức Thầy, thì dầu không nói, chúng ta cũng biết Đức Thầy không nhìn nhận và cả hai không thể nào gặp nhau được, vì một đàng đi lên, một đàng đi xuống.

Thưa đồng đạo,
Có lẽ đồng đạo cũng nhận thấy: Ngòi chiến tranh thế giới ngún lần đến hột nổ, khi nổ ra chẳng còn cảnh khổ nào hơn. Tình trạng này, kiếp sống con người rất mỏng manh. Nếu người ta không sớm đem lòng tốt đối nhau, không trở lại thương nhau, thì chẳng khác nào sợi dây treo hủ mắm, đã bị hai con chuột nhựt nguyệt cắn đứt lần mòn. Tất có ngày phải rơi xuống đất tan nát.
 
Bước đến giai đoạn đó, mới thấy lòng thương là cần, việc lành là quí, còn sự ghét bỏ sâu độc chỉ là tai hại. Vậy tóm tắt bài giảng hôm nay, tôi chỉ khuyên đồng đạo đứng giữa tình thế gai ngạnh này, hãy cương quyết rứt được những lỗi lầm trước khi gặp tai họa và có sự đoàn kết yêu thương nhau, trước khi chia xẻ giết hại, đừng để nước đến trôn mới nhảy thì việc đã muộn.
 
Có thế, mới khỏi cảnh huống tàn khốc của ngày mai, do họa chiến tranh gây ra và khỏi cảnh đối xử khắc nghiệt của thần chết, được trở về với cõi đời an lạc.

Hỡi chư Hiền, hỡi chưa Hiền,
Đạo gặp phải truân chuyên khắc khổ,
Đời lung lăng nhiều chỗ rối ren.
Phải trau giồí chớ để ố hoen,
Cần tinh tiến khỏi ngày nguy khốn.
Sanh phải lúc bôn ba hỗn độn,
Đứng trong đời khói lửa dẫy đầy.
Sự tu hành bỏ vạy làm ngay,
Để tránh bớt họa tai đưa lại.
Tu thời phải giữ gìn luật giái,
Hành cầu âu hai chữ thiện từ.
Vái cầu cho thế giới an cư,
Khẩn nguyện cả đạo đồng tu tỉnh.
Nhưng sợ gặp tuồng đời dối phỉnh,
Đưa đẩy người lắm nỗi éo le.
Sự biến vi thế cuộc không dè,
Đến chừng ấy trông gì trở bước.
Lúc yên ổn trau giồí việc phước,
Gặp loạn ly mới được ở an.
Đời tránh sao khỏi cuộc rộn ràng,
Đạo sớm muộn cũng đà chang chói.
Sự tu tỉnh khuyên người theo dõi,
Điều lợi danh chớ vội bon chen,
Rán làm cho tâm sáng như đèn,
Để khỏi cảnh lao lung đưa lại.
Thảm những kẻ hung hăng khờ dại,
Mến nhiều người nhẫn nại không sờn,
Quyết một lòng giữ vẹn bốn ơn.
Hằng giữ dạ cho tròn tám giới.
Gắn bước mãi có ngày cũng tới,
Trì tâm luôn gặp thuở thanh nhàn,
Muốn tu hành phải chịu gian nan,
Ham sung sướng khó gần được đạo.
Đời hỗn loạn rõ ai ngay thảo,
Đạo suy vi biết kẻ thật lòng.
Lúc vắng Thầy mới thấy đạo đồng.
Ai thật chí ai lòng đen bạc.
Sự tu chỉ bốn ngày chay lạt,
Mà chừng như ít kẻ giữ gìn,
Huống trường chay giới sát cho tinh,
Thì người biết bao giờ giữ được.
Nỗi thảm bấy nợ trần trói buộc,
Ngàn kiếp không thoát quỉ vô thường.
Lo đạo đồng mang lấy họa ương,
Thương Đức Phật nhọc nhằn khuyên nhủ.
Đã kêu gọi chợ đời còn ngủ,
Thường nhắn nhe mặc thế ngẩn ngơ,
Nhưng buồn thay Tiên Phật mõi chờ,
Mà sanh chúng ơ hờ chẳng đến.
Việc đạo đức tại sao không mến,
Chuyện lung lăng sao lại thích ưa.
Cuộc nàn tai không sớm thì trưa,
Đời sao chẳng liệu toan đôi chút.
Tâm đồng đạo dẫy đầy ngoi ngúc,
Huệ trí kia bao thuở được khai,
Rán gượng lên để đến Liên đài.
Khỏi vương vấn trong lò ngục tối.
Sự đạo lý phải tìm ra mối,
Tìm được rồi khỏi nỗi lao lung.
Thật hành cho đời vẹn chữ trung,
Toan liệu được đạo xong phần chánh.
Trung với chánh trau giồí tâm tánh,
Thì tức nhiên Phật Thánh ngợi khen,
Sự tu hành lựa trắng bỏ đen,
Để tìm được như giòng bích thủy.
Thương bá tánh vẹn gìn cương kỷ,
Gọi mỗi người phải rán kiên trinh.
Đời nay còn đầy dẫy yêu tinh,
Dùng đủ cách gạt người phải mắc.
Theo đạo Phật đừng cho quỉ bắt,
Nhớ Đức Thầy chớ để ma rinh.
Sự tu hành sẵn có kệ kinh,
Xem xét kỹ thiệt hành cho trúng.
Khuyên đức tính giữ cho bền vững,
Đừng xuyến xao phải khổ đời ơi,
Lòng từ bi của Phật vơi vơi,
Nhưng không thể cứu người bạc ác.
Đạo Phật chủ ở phần giải thoát,
Người phàm tâm chưa dứt làm sao,
Dẫu gần cho chân lý thật cao,
Lòng chẳng tưởng thuở nào được thấy.
Xem cõi tạm mỏng mành như giấy,
Nhìn màn đời dường thể nhện giăng.
Cuộc hồng trần muôn đỗi khó khăn,
Máy trời đến sơn băng kiệt thủy.
Chớ thấy việc tân thời huê mỹ,
Tưởng cho là sung sướng cực kỳ,
Tánh lung lăng của thế cao phi,
Đó là cớ tạo nên tiêu diệt.
Các Tiên Phật đem lời thống thiết,
Khuyên mọi người trở lại tu hành,
Lẽ trước là phải biết làm lành,
Sau mới được dựa gần Phật Thánh,
Nghe kinh kệ như mưa nắng ánh
Trông đạo mầu như đói trong cơm,
Lòng gắn ghi gìn vẹn sớm hôm,
Được Đức Phật tay trao nhành liễu.
Đến chừng đó pháp mầu được hiểu,
Không còn mang cái kiếp vô minh,
Thương khách trần muốn được hương hinh,
Nên khuyên nhủ chẳng nài mệt nhọc.
Ai nghe phải thì nên lo học,
Rằng chẳng ưa cũng mặc khinh khi.
Pháp tu hiền rộng bủa tứ vi,
Đâu màn biết những người ghen ghét.
Kêu người rán qua cơn lửa thét,
Không biến màu vàng thiệt tuổi cao,
Sao đến chừng ni ai cũng trông vào,
Thì sẽ được đem dùng đắt giá.
Nhưng ai đã liệu thân còn giả,
Rán lọc lừa chùi rửa cho xong,
Ở dương gian nước có hai giòng,
Khuyên lánh đục tầm trong cho kỹ.
Gặp chánh Đạo mới là phỉ chí,
Lầm tà sư khổ lụy muôn đời.
Thanh Sĩ này kêu réo hết hơi,
Việc chánh kiến như người lảng bỏ.
Đây chẳng trách ở trong lớn nhỏ,
Chỉ buồn người vì bởi thiếu căn.
Mới nghe rồi lòng rất ăn năn,
Về đôi bữa vội quên tất cả.
Bởi thế mới làm điều dối giả,
Không còn theo những lẽ chánh chơn,
Khiến người đau, Phật tủi, thần hờn,
Muốn gác bút bế môn hồi vị.
Trở lại chốn Phật đài yên nghỉ,
Nhưng thương đời phải chịu tiêu vong,
Nên chẳng nài lao xác khổ công,
Lặn lội xuống cõi hồng khuyên nhắc.
Có đủ phương để mà dẫn dắt,
Nào ứng ngôn hoặc dụng bút phê,
Khiến cho đời tầm giác khỏi mê,
Hầu chờ dịp trở về ngôi cũ,
Đời hỡi đời chớ nên mê ngủ,
Mới mong rằng gặp chủ nhơn ông.
Cuộc đời này chưa thấy gì xong,
Còn vướng víu mãi trong khổ huống.
Phần chánh Đạo gìn lòng yêu chuộng,
Để chờ khi Tiên Phật vãng lai,
Đến kỳ thi mới cất cánh bay,
Không mang tiếng con người thi rớt.
Thương dân chúng lòng đây không ngớt,
Nhủ khuyên người chẳng quản đến thân.
Trần hỡi trần gặp được Long Vân,
Thế hỡi thế mong gần Bệ Ngọc.
Khuyên hãy rán trau giồí săn sóc,
Cho tâm hồn trong sạch tinh anh.
Cố hồi qui đáng mặt con lành,
Thầy trở lại phỉ tình ao ước.
Nay gặp phải buồm treo gió ngược,
Đành chờ Đông biết liệu làm sao.
Mãi trong tay nắm chặc dây làu,
Thuyền lướt tới cùng nhau thong thả.
Nay khuyên hãy trau giồí tất dạ,
Gây nhân lành tất có quả lành.
Tưởng Phật Trời Trời Phật hồi sanh,
Theo ma quỉ quỉ ma giao hỗ.
Khổ đời nay muôn vàn sự khổ,
Gặp đạo mầu giải nỗi khát khao,
Ngày không chờ người phải tu mau.
Bằng chậm trễ người sau khó gặp,
Khuyên mọi người hành từ thiện gấp,
Lòng dạ kia chớ để lảng lơ,
Đến chừng ra đủ các sắc cờ,
Đại cuộc đã chập chồng cảnh loạn.
Người phải sớm tấn tu mạnh dạn,
Thì ngày sau thoát đặng khổ nàn,
Phật Thánh Tiên thương xót trần gian,
Nên chẳng tiếc những lời khuyên nhủ.
Sợ dân chúng bị ma quyến rủ,
Lo cho người lòng cứ nghi ngờ,
Không tận tường được lá thiên thơ,
Chưa hiểu biết những ngày tiêu diệt.
Vì vậy mới lòng không tinh quyết,
Miệng nói tu tâm ý chẳng hành,
Đọc đến câu cải dữ làm lành,
Mà tâm mãi chuyên điều ngụy trá.
Lời khuyên nhủ đạo đồng để dạ,
Nghe giảng rồi hãy khá gìn theo,
Đến ngày kia khỏi nạn hùm beo,
Lại được thấy Phật Trời soi chiếu.
Nay đông đảo mọi người đồng hiểu,
Hiểu rồi hành chớ tríu trần chi.
Có đôi lời khuyên hãy gắng ghi,
Tạm ngưng dứt đợi kỳ khác nữa.

Giảng đến đây rồi xin tạm ngưng,
Đạo đồng lớn nhỏ hãy chòm chưn,
Lễ Thầy rồi hãy lui về nghỉ,
Gìn vẹn tâm mình lẫn xác thân.

Tây An Cổ Tự. Ngày 30 tháng 6 Giáp Ngọ
(tức ngày 29-7-1954).
  THÁNG BẢY:
37- Rằm tháng 7 Giáp Ngọ (Chín Điều Ràng Buộc)

Rằm tháng 7 Giáp Ngọ :Chín Điều Ràng Buộc

PHẬT hằng sa số khắp mười phương,
GIÁO pháp vô biên chẳng gọi thường,
HÒA gọi từ bi kêu bá tánh,
HẢO duyên chợt tỉnh giấc quỳnh lương.

Kính chào tất cả đồng đạo,
Ví như có hai con mắt mù không thể sáng lại được, hai chơn bị chặt lìa không thể nối lại được. Trí huệ và Tinh tấn cũng thế, Trí huệ mất đi khó thu hồi, Tinh tấn mất đi khó tái phục.

Tại sao? Vì nếu dùng tư tưởng vào việc xằn xiên tà khúc, làm cho đầu óc bị đen tối, chẳng còn minh mẫn để phán đoán đúng sự thật.

Nói tóm lại, là tim não đã bị cuồng loạn, thì đâu còn sự suy xét nào để phát khởi hột giống trí huệ được. Một khi lòng tin tưởng bị sự vật đánh bật ra ngoài, tất nhiên sức tinh tấn bị giảm hạ ngay.

Đó là nói nó bị giảm hạ trên con đường chánh, để đổi lại sự hăng hái trên con đường tà và đặt đức tin vào đó một cách mạnh mẽ, như đặt đức tin vào con đường chánh vậy, đến độ này họ đã quả quyết việc họ đang làm là phải, thì dễ gì kéo lòng tinh tấn trước kia của họ lại được.

Bởi thế cho nên, tôi cực lực khuyên nhủ đồng đạo hễ là người quyết tâm tu hành, thì khi gặp việc chánh phải đặt hết Đức tin vào đó, tư tưởng vào đó và cố thật hành việc đó, đừng để lòng tinh tấn bị tiêu mòn theo lời luận bàn huyễn hoặc, thị dục cản trở, hoàn cảnh ngăn che. Phải nhớ rằng đạo không dễ gặp, pháp khó được nghe, lòng tốt không dễ có, Thế nên khi gặp đạo, được nghe pháp, được có lòng tốt, thì hãy mạnh dạn theo đuổi và giữ gìn không để hở. Đức tinh tấn này chẳng một ma vương nào cám dỗ được, không một cảnh giới nào chẳng đến được và không một việc nào khi muốn mà không làm được. Tại sao hôm nay tôi phải trưng ra câu chuyện như trên, là vì lẽ anh em tín đồ phần đông hay dùng tư tưởng vào những cái không đáng tư tưởng, vô tình đã chôn sâu trí huệ vào đường hắc ám, lui sụt đức tin đối với sự dạy bảo của Đức Thầy.

Vả chăng khi đã bị ngoại cảnh đầu độc tư tưởng mất hết linh trí, thì lòng tinh tấn trên đường lành trước kia mòn mõi đi, trở lại hăng hái theo đường dữ, mà chẳng khiếp sợ sự báo ứng ở ngày mai. Chúng ta hãy tin Đức Thầy không hề dối gạt chúng ta, cũng như tin nơi chơn lý là cứu cánh giải thoát.

Chúng ta lúc nào cũng bình tĩnh trước sự cám dỗ của vật chất. Để giữ đúng lời dạy bảo của Đức Thầy, chúng ta chẳng thích cuồng dại, nên không vui theo, để cho trí thần tán loạn, nhứt là không đặt vào chỗ tà tín và chúng ta cũng chẳng thích hăng hái trên con đường dữ, gây lấy tai hại cho nhiều người, mà riêng chúng ta gặt lấy đau khổ một cách ngông nghênh.

Lẽ duy nhất của chúng ta cần phải làm là hăng hái trên con đường thiện, vì nó đem lại sự phúc lạc cho nhơn sanh và riêng chúng ta cũng được hưởng phần siêu thoát.

Thưa quý đồng đạo,
Đời hạ nguơn là chót hết của kiếp sống hiện nhiên của nhơn loại, nó có thể ví như đám bắp đã ăn trái kỳ nhứt, bây giờ đến kỳ nhì khi lặt trái xong.

Tất nhiên, chủ rẫy phóng hỏa để làm lại kỳ khác. Các đấng Tiên Phật xuống thế lần này, tìm những đứa con hiền thảo, dắt lại ngôi vị trước kia. Còn những đứa con hung hăng làm điều phi nghĩa, nếu biết ăn năn sẽ được ân xá.

Nhược bằng, cứ buông lung trên đường ấy mãi, sẽ bị luật đào thải thiên nhiên mà tận diệt. Sự tận diệt ấy sẽ đến, sự tận diệt không những do nơi họa trời, mà còn có một phần do chính tay của kẻ thế gian gây ra, việc này ai cũng thấy rõ là hiện giờ toàn dân trên mặt địa cầu. Nhứt là những liệt cường, ai cũng đem hết tài trí, chế ra những khí giới tối tân, để chờ dịp phỏng tay giết hại lẫn nhau, từ một mũi tên bắn chết một người, giờ đã tiến đến thần công đại bát, khinh khí, nguyên tử giết hại một lần bằng muôn vạn người.

Đó là cớ để chứng minh lòng tàn bạo của sanh linh và đó cũng là cái cớ cho người đời biết sắp đến tận diệt, Thế mà, lắm người chưa thức tỉnh còn quay quần say mê theo vật chất là thứ mau tan mau rã, sớm ở đầu làng chiều sang cuối chợ, xúi giục thiên hạ giết hại lẫn nhau. Đó chẳng phải là việc làm đen tối lắm sao? Vậy từ nay, chúng ta hãy gác lối điêu ngoa, dứt lòng tham ái, hiểu ngay sự đau khổ của dân tộc hiện giờ.

Thấy rõ cảnh điêu tàn của nhơn sanh ngày nay, mà đem lòng tha nha thiết xỉ, để tìm cách giúp đỡ một phần nào. Có như thế, mới đi đúng thuyết từ bi vị sanh của chư Phật. Kìa như chư Phật bồ tát đã chứng bực vô sanh, còn chẳng nỡ yên vui cảnh niết bàn tịch tịnh, xuống cõi hồng trần, giả người quê dốt, hiện lốt đui cùi, vào phố ra phường, lui tới chợ quê, tìm đủ cách thức tỉnh nhân sanh, mà các Ngài chẳng quản chi nỗi mất còn và điều sỉ nhục của kẻ phàm phu.

Bởi các Ngài thấy đời sắp tận diệt, nhn loại gặp phải lúc con lạc cha, vợ lạc chồng, bè bạn giết hại nhau, gây cuộc xô xát, máu chảy thành sông, xương chồng tợ núi, mà những kẻ muốn tránh cuộc này, chỉ còn một đường tu là phép cứu rỗi vi diệu.

Tại sao? Là vì hễ biết tu tất ngăn được tội. Tạo được phước. Vì được ân gây niềm thương mến trong mọi người, khiến các nghiệp oan chẳng đeo đẳng được, vì thế, mà được an lạc.

Các vị Bồ Tát còn làm như thế, huống chúng ta tài đức mỏng manh, há dám tự phụ ngồi không được ư?

Thưa đồng đạo,
Thời kỳ gấp rút, ngày tháng trôi qua như tên bắn. Nếu ngồi đợi quả địa cầu tan nát mới tu, thì tu sao kịp. Vậy cần gấp rút tu hành, không nên lần lựa, nếu lần lựa thì chẳng khác nào nhà cháy ngồi chờ lửa cao ngọn mới chữa, thì việc đã muộn:

Sanh chúng chần chờ khổ đến nơi,
Cuộc cờ chiếu bí khắp phương trời.
Nợ trần sớm gỡ đừng đeo đắm,
Sau được trông coi cảnh tuyệt vời.


Sự nhiệm mầu ở thời kỳ này không phải là không có, nhưng vì chúng sanh mê nên không thấy được, như mỗi ngày đều có mặt trời, mỗi đêm đều có sao tỏ mà người mù có thấy gì đâu ! Lòng mê muội của chúng sanh cũng thế, khi các căn bị thị dục che mờ, chẳng còn thấy biết xa rộng được, chỉ quanh quẩn sự ăn mặc ở rồi chết.

Thưa đồng đạo, sự mê muội có 9 cách trói buộc:

1- Lòng ái dục đeo níu con người khiến mãi nghĩ sự luyến ái, về thể chất lo sắm ăn, sắm mặc, lo vợ đẹp hầu non, lo tiền rừng bạc bể, lo nhà cửa nguy nga, chẳng thiết cái gì cao siêu mầu nhiệm.
2- Lòng giận dũi nhỏ mọn, nếu ai xâm phạm đến mình, thì lòng cố chấp bản ngã nổi lên, tìm cách báo thù. Do đó, suốt ngày chỉ sống trong lửa lòng, nghĩ việc tội ác.
3- Lòng ngạo mạn to lớn, chỉ biết mình không biết người, chẳng cung kính ai, không nhường nhịn ai. Vì thế, thường ở trong chỗ tối tăm của lòng nhơn ngã.
4- Lòng mê muội như tấm vách vừng, chắn đường trí huệ, mỗi việc mỗi tin, đụng đâu làm đó. Vì thế, thường bị chư ma ngoại đạo ám ảnh chơn thần, xúi làm những việc tội ác bất lương.
5- Lòng không xét kỹ việc làm, thường để ý niệm bất lành trùm bao trí não, tiếng nói huyễn hoặc xô đập bên tai. Vì thế dục lòng đi theo việc quấy.
6- Lòng tham đắm những cái đã có, muốn có thêm, thêm mãi mà không thấy đủ. Do đấy, sanh đủ trăm mưu ngàn kế lừa cướp người đời, để thỏa lòng khao khát.
7- Lòng nghi ngờ dày bịt, đối với Phật Pháp không bền vững đức tin. Vì vậy, không mạnh dạn rứt bỏ tâm nhiễm hồng trần.
8- Lòng ganh ghét quá lớn, ganh ghét người có tiền của, có tài đức, có danh vọng hơn mình. Vì thế, cứ ôm lòng ưu quạnh sầu khổ.
9- Lòng bỏn xẻn quá nhiều, tài chẳng giúp ai, trí chẳng dạy ai, đức không che chở ai, thường riêng lo lấy mình, riêng giữ của mình không cho mẻ một đồng một chữ. Vì vậy, hay ôm lòng sợ hãi khi thấy bóng người thắp thoáng, gặp kẻ khác vào nhà.

Chín điều đã kể trên ràng buộc chúng sanh, mắc phải trong ấy, mà luân chuyển sáu đường chịu nhiều điều khổ báo.

Chúng ta toàn cả trong đạo, rán tránh đừng phạm một điều nào trong ấy, mới mong gặp được Thánh Vương, gần Đức Thầy hầu hạ dưới chơn, nghe sự nhiệm mầu Phật Pháp:

Cảnh khổ trong trần mãi chất cao,
Những ai đạo pháp bước chân vào.
Lòng hằng giới luật gìn cho vẹn,
Sẽ được toại nguyền một thuở sau.

Hỡi đồng đạo, hỡi người đồng đạo,
Sự tu tỉnh phải cần xóc xáo,
Việc thiện lương khuya sớm chuyên lòng.
Hãy tin rằng có cuộc hỏa hồng,
Tiêu diệt cõi trần gian thảm khổ.
Trong cảnh loạn máu rơi thịt đổ,
Nhìn muôn loài lâm cảnh xát sơ.
Phật Trời không giấu mối huyền cơ,
Thường tiết lậu bởi thương trần hạ.
Kẻ hữu duyên nghe rồi để dạ,
Người vô căn coi đó là thường.
Cứ mãi lo những việc can cường,
Quên mất lẽ huyền vi Phật Thánh.
Chẳng kiêng nể lời xưa ghi gạnh,
Đến ngày sau vướng nỗi tai ương.
Lâm tội rồi chư Phật dẫu thương,
Không thể cứu con người bạo ác.
Mùi đạo đức năm châu thơm ngát,
Miền Hậu Giang dân chẳng nhúm nhen,
Để đến hồi cửa Phật gài then,
Muốn vào cũng khó khăn lắm đó.
Nền Phật Pháp khuyên trong lớn nhỏ,
Hãy ghi lòng chớ vội bỏ rơi.
Sự tu hành trau trỉa chiều mơi,
Câu niệm Phật rèn lòng mỗi khắc.
Phật Tiên Thánh lắm công chỉ dắt,
Kẻ phàm phu chịu khó thiệt hành.
Việc mình tu chánh quả mình thành,
Chớ chư Phật đâu nhờ chi cả.
Vì Phật thấy kiếp người tan rã,
Dùng lắm lời khuyên nhủ cạn cùng,
Nếu chẳng nghe đến việc nổ bùng,
Khi đó mới ăn năn sao kịp.
Đạo pháp chúng sanh nay gặp dịp,
Cần nắm đi chớ dạ buông rơi,
Khổ nạn trần đã bủa khắp nơi,
Không riêng ở trong miền Nam Việt.
Kẻ suy nghĩ cho rằng lời thiệt,
Người bơ phờ tưởng việc dối ma,
Có dè đâu giọt nước ma ha,
Muốn rưới tắt lửa trần bớt khổ.
Phật thương chúng lắm phen dạy dỗ,
Tựa hồ như mẹ nọ thương con,
Khắp trần gian phai lợt lòng son,
Trông chư Phật tựa hồ kẻ địch.
Bởi hung lổ đạo mầu không thích,
Thích của tiền hôm sớm đua chen.
Nỡ làm cho Đạo hạnh ố hoen,
Không trau trỉa cho mình tinh tấn.
Các thần lực nhìn đời thêm giận,
Còn Phật Tiên trông thế càng thương.
Đem đạo mầu khuyên mách đủ phương,
Nào khác kẻ lương y cho thuốc.
Tùy theo bệnh hoặc cường hoặc nhược,
Điều trị cho chóng được an thân,
Nhưng rất buồn trách những bệnh nhân,
Không nhẫn miệng thành ra hối hận.
Còn chấp buộc nợ đời quanh quẩn,
Gương lành noi Phật khá dứt xong.
Thương là thương kẻ ở cõi Hồng,
Chịu nạn khổ đem lòng chỉ bảo.
Nếu hữu duyên bước chân vào đạo,
Bằng vô căn theo lũ quỉ ma,
Kiếp con người như cánh phù hoa,
Đâu mãi được vững bền chẳng rữa.
Muốn tất cả mọi người xem sửa,
Lời kệ kinh mai tối ôn nhuần,
Để khỏi ngày lao nạn biển trần,
Được nhẹ gót đăng tiên thong thả.
Nhân lành ắt trổ sanh thiện quả,
Nghiệp hung thời sau trả báo hung.
Trước tu hành sau thả trôi sông,
Đến tận diệt khó lời nài khẩn.
Khuyên nam nữ giữ gìn bổn phận,
Gọi trẻ già trau trỉa tâm linh.
Bản đồ kia tức quyển kệ kinh,
Xem theo đó để dò bờ bến.
Cõi niết bàn muốn thân được đến,
Đường chân tu khuyên hãy chuyên cần.
Nhớ rằng trên đời khổ muôn phần,
Đạo Phật ấy là phương cứu cánh.
Tuy nạn ách ngày nay lấp lánh,
Phật khâu canh ủng hộ con lành.
Kẻ chí nhơn luật giới thực hành,
Được khỏi vướng những điều hung nạn.
Sự tu tỉnh khuyên người hãy rán,
Điều lễ nghi gọi kẻ mau gìn.
Nhứt là nên một mực kính tin,
Lời Phật Thánh không hề dối gạt.
Ngoài cõi này có nhà Cực Lạc,
Kẻ thiện duyên ắt được sang qua.
Miền Thất Sơn đài các mấy tòa,
Người hữu chí ngày sau được ở.
Lo những kẻ tu hành bỏ dở,
Dầu ước ao cho mấy khó trông,
Hỡi đạo đồng chí sức gia công,
Phật Tiên Thánh luôn luôn ủng hộ.
Sợ cho người lọt trong biển khổ,
Ngàn muôn năm chưa được thoát ra.
Mới bày lời đạo lý khuyến ca,
Dùng đủ cách khuyên người niệm Phật.
Sự tu tỉnh dồi mài tiêm tất,
Điều hung hăng xa lánh luôn luôn.
Gượng mình lên để có qua truông,
Hết rừng rú đến nơi trống trải.
Gốc phiền não chúng sanh được trẫy,
Thời huệ minh có dịp mở ra,
Phật là tâm tâm Phật ở ta,
Người chịu khó xét soi thời thấy.
Muốn niệm Phật sớm nên chừa quấy,
Mong gần Thầy kinh kệ rán gìn,
Đời Hạ nguơn lắm việc tà tinh,
Khuyên nam nữ giữ lòng cho chắc.
Hãy tinh tấn vượt cơn nghèo ngặt,
Sẽ được nhờ ơn Phật chở che,
Đời hạ nguơn mỏng tợ màn the,
Kinh với sám thường nghe một lúc.
Khuyên trai gái tầm tiên lánh tục,
Nhủ đạo đồng chừa bỏ gian tà,
Sự tu thân khuya sớm đừng xa,
Việc hương khói chiều mai chớ lạnh.
Chớ theo đời mãi lo bôn cạnh,
Việc lợi quyền quên chữ thiện lương.
Dẫu nghèo nàn đạm bạc rau tương,
Lồng chơn chánh Phật thương độ tận.
Đeo hành ác phải điều quanh quẩn,
Mãn chịu ngày ách biến thảm thê.
Khuyên mọi người chừa dứt tâm mê,
Nhủ nam nữ rèn xong tánh hạnh.
Nợ trần thế nên mau trả rảnh,
Duyên Phật Trời khuya sớm rán trau,
Để ngày kia thoát khỏi cùm lao,
Luyện thân thể nhẹ nhàng tiêu rỗi.
Nay dân chúng được may gặp cội,
Mau giữ gìn khỏi phải lạc ra,
Kệ khuyên trần buổi chót “Lần Ba”,
Hãy gìn giữ kẻo mà bay mất.
Hãy tưởng lại ngàn xưa chư Phật,
Nhờ gắng công mà được thơm danh,
Người đời nay một mực làm lành,
Sau cũng được vãng sanh cõi Phật.
Khỏi phải bị giam trong vạn vật,
Hết nàn tai dứt cuộc tử sanh,
Ở hồng trần danh lợi cạnh tranh,
Gây nghiệp dữ mới ra luân chuyển.
Trong kiếp sống ngàn muôn tranh biện,
Biết bao điều sầu khổ đắn đo.
Kẻ dư ăn người lại chẳng no,
Kẻ nhà rộng người không trại ở.
Sự đau khổ trong trần vô số,
Bởi nghiệp xưa tạo đã quá nhiều.
Nay đạo mầu lắm tiếng gọi kêu,
Trong sanh chúng phải cần tu tỉnh.
Sớm trau trỉa cho mình chơn chánh,
Lời nói ra đến việc thực hành,
Phải thương người lo liệu việc lành,
Nên giúp kẻ gọi lòng bác ái.
Luôn luôn giữ tâm làm việc phải,
Hằng hằng tâm lánh việc dối ma,
Đến ngày kia Phật chẳng xa ta,
Cùng hội hiệp vui vầy thong thả.
Thương những kẻ bền tâm chặt dạ,
Buồn cho ai đổi ý thay lòng,
Mới mấy năm tạm cách bóng hồng,
Trí mờ ám sanh sôi đổi lại.
Xét ít kẻ trì trai giữ giái,
Không mấy người trau việc thiện lương.
Những ngày chay chiều chã dùng tương,
Đợi tối lại vật gà giết vịt.
Muốn cho được vừa theo khẩu thích,
Mà xem thường luật giái chẳng gìn.
Ôi thấy đời tu dối mà kinh,
Tiên Phật rất não lòng cho thế.
Trên bàn để năm ba quyễn kệ,
Suốt cả năm chẳng lật một tờ.
Nghe giảng cơ tâm phóng quanh quơ,
Đường xa lại chẳng lòng ghi nhớ.
Nói đến việc của tiền vay bợ,
Người chú tâm chuyện nhỏ không quên.
Bàn sự đời nói chuyện hơn trên,
Những lầm lỗi chẳng cần trau sửa.
Sự tu tỉnh nếu người lần lựa,
Biết bao giờ thoát cảnh lao lung.
Hỡi dương trần sắp đến kỳ cùng,
Chẳng tu gấp sau này khó hối.
Ngày thấm thoát sớm rồi kế tối,
Kiếp con người trẻ lại đến già,
Biến đổi luôn ngày lụn tháng qua,
Vô thường chẳng chờ ta nên nhớ.
Nay chẳng gấp đạo mầu trau sửa,
Chờ đáo đầu tu tỉnh được đâu,
Sự biến vi khắp cả hoàn cầu,
Tai nạn chẳng riêng gì một nhóm.
Phật Tiên Thánh ngày nay dạy tóm,
Khuyên mọi người lánh dữ làm lành.
Được xong rồi đạo quả đắc thành,
Khỏi luân chuyển trong vòng ngũ trược,
Dầu con vợ lắm phen thúc phược,
Gỡ lần đi để rảnh tâm linh,
Của tiền nhiều khuyên chớ ôm gìn,
Hãy mở túi cho người nghèo khổ.
Kẻ thông thái chỉ người tỉnh ngộ,
Đặng tìm phương đến chỗ an cư.
Khỏi phải sanh kiếp tạm của người,
Chịu khổ tử muôn vàn chưa thoát.
Khuyên mỗi người giữ tâm cho chặc,
Thời kỳ này ma quỉ chập chồng.
Thấy những ai hay quá dễ lòng.
Theo quyến rũ mắc vòng tà quái.
Đến chừng đó dù cho Nam Hải,
Cũng không phương cứu được mạng người,
Chừng sau này cờ sắc lợp người,
Tà với chánh đôi nơi phân biệt.
Nay tu tỉnh theo đường Phật thuyết,
Gìn lòng ta một mực chánh chơn,
Dầu cho ai có lắm phép thần,
Bày trước mắt cũng không sa ngã.
Chỉ chuyên chú Di Đà trong dạ,
Muôn tà tinh kinh hãi tiêu tan.
Hỡi đạo đồng khuya sớm sửa sang.
Đường chơn chánh là nơi cứu rỗi.
Phật Tiên Thánh gót sen bước tới,
Cõi trần gian phân định vị ngôi.
Hội năm non có Phật có trời,
Phong thưởng những con người lương thiện.
Còn sát phạt kẻ tâm lười biếng,
Chẳng trau giồí đạo đức nhơn hiền,
Nhứt là người tham nhiễm bạc tiền,
Làm tội ác sa vào ngục tối.
Khi khuyên già trẻ thời lai rõ mối,
Thật hành lâu mới thấy quang minh.
Trau cho lòng được vẹn điều lành,
Ngày chót sẽ công viên quả mãn.

Đạo pháp cao siêu rán tưởng tin,
Đạo đồng chuyên chú được tâm lành.
Sau này Tiên Phật Ngài không phụ,
Đưa đến nhà Tiên hưởng cõi thanh.

Cõi Thanh chờ chực kẻ hiền lương.
Nam nữ hôm nay giữ một đường,
Đạo đức trong ngoài cho một sắc,
Khỏi ngày nát thịt với tan xương.

Tan xương nát thịt ngũ lôi hình,
Thêm phút giang đầu tiếng đại thinh,
Chửng mới ô hô người bạc ác,
Hiện giờ trên dưới gắng lòng tin.

Tây An Cổ Tự, Ngày Rằm tháng 7 Giáp Ngọ
(tức 13 tháng 8-1954)
38- Ngày 30 Tháng 7 Giáp Ngọ: Ba Nhịp Cầu

Ngày 30 Tháng 7 Giáp Ngọ: Ba Nhịp Cầu

PHẬT ngự đài sen phóng diệu âm,
GIÁO câu đạo pháp rất huyền thâm.
HÒA quang tam cõi tan mê muội,
HẢO đức siêu nhân khỏi nịt trầm.

Kính chào tất cả đồng đạo.
Một ngôi nhà lộng lẫy một hôm bị sụp đổ, muốn tu bổ lại hẳn là một việc khó khăn. Nền đạo cũng thế, nếu để nó hư rồi thì khó tái phục như cũ.
 
Vì vậy đối với đạo lý, lúc nào chúng ta cũng giữ chắc như keo. Trong khoảng tu hành, hẵn không tránh khỏi các việc thử thách, tâm đức của ta phải vững vàng, ai lay cũng không xiu, ai xô cũng không ngã, cứ một đường tiến tới cho đến khi nào được trọn lành trọn sáng.
 
Sự tu hành không phải đầu hôm sớm mai mà đắc quả được. Cần phải trì chí nhiều ngày, rồi sẽ có ngày bỗng nhiên khai ngộ, nghĩa là phải biết cách chùi rửa lòng tập nhiễm sạch hết, tâm được lặng, trí được minh và hạnh được lành. Tất nhiên đạo huệ được phát hiện, mà muốn đến được địa vị Tiên Phật cũng do đó. Trái lại, muốn thành Phật mau lẹ mà không hành trì kiên cố, chẳng tu chưởng phước điền, tâm mê trí loạn, bố thí trong chỗ cầu danh lợi hoặc thí ít mà muốn phước nhiều, lòng tham lam ấy không bao giờ thành công được.
 
Khi không đặng thành công, họ vội cho Phật không linh và nói ra những lời khiến kẻ khác chán nản, chẳng chịu làm phước, sa ngã theo việc bóc lột ích kỷ, đó là một tai hại lớn lao, Đức Thầy dạy chúng ta phải làm lành lánh dữ trước nhứt. Làm lành như thế nào? Làm lành là làm tất cả các việc phước lợi cho người khác.
 
Trong lúc ấy, hy sinh tất cả những gì của mình, mặc dầu vật ấy rất quý giá, để cho kẻ khác, giúp đỡ kẻ khác, như giúp đỡ mình không hối tiếc. Thay làm sự nặng nhọc cho người khác, như làm cho cha mẹ mình, không tiếc công và không từ chối một việc gì, mà người đời gọi đến.
 
Nói tóm lại, đem sự an vui cho người khác về mặt vật chất lẫn tinh thần một cách chơn thành đó là làm lành.

Còn lánh dữ như thế nào? Tức là lánh việc làm có hại cho người khác về xác thịt hay linh hồn, những việc nào bất nhân phi nghĩa, trái luật pháp, chẳng công bình, dầu nhỏ dầu lớn cũng tránh hết.
 
Chẳng những tránh việc dữ đã làm ra, mà còn phải tránh nó trong ý nghĩ. Có thể làm hột giống ác bị tiêu diệt ngay hồi còn trong tâm, chớ không để cho nó sanh ra rồi mới diệt.
 
Nói tóm lại, là chừa tất cả việc gì thương tổn đến người, như thế là lánh dữ vậy. Đó là những việc làm lánh dữ, hội ý của Thầy Tổ đã dạy như thế. Nếu chúng ta hành y theo đó thì sẽ hợp với đạo lý, khỏi ác báo mà đức hạnh thêm lớn, trí huệ mau khai.
 
Trái lại, được biết như thế mà không làm theo, thì chẳng khác kẻ nói ăn mà không ăn vào, tất không no được, càng thấy mình dối trá thì càng thấy mình tội lỗi, không những khiến người trong đạo chẳng vui, mà đối kẻ ngoài đạo cũng sanh lòng chê cười.

Thưa đồng đạo,
Hôm nay tôi có Ba Nhịp Cầu để nối liền từ đường mê khổ của cõi Ta Bà, qua đến bờ an vui của cảnh Giải Thoát.
 
Ba Nhịp Cầu ấy là: ”Tín, Nguyện, Hành”.

Kẻ học đạo, sau khi biết được ngoài cõi Ta Bà còn có cõi Cực Lạc trang nghiêm, thanh tịnh, không Tứ Khổ Bát Nạn, không lục đạo tam đồ thì hết lòng tin tưởng chắc chắn. 
Đó là “Tín”.

Sau khi tin có cõi Cực Lạc liền nguyện sanh về đó một cách thiết tha, không lãng quên lúc nào cả.
Đó là “Nguyện”.

Sau khi nguyện sanh về cõi Cực Lạc thì tâm chẳng rời sự trì niệm Di Đà, hành các việc phước phụ vào việc cầu sanh tịnh độ.
Đó là “Hành”,

Nếu như ai làm ba việc trên đây, chắc chắn được vãng sanh, chẳng khác nào muốn qua sông mà được có 3 nhịp cầu nối liền từ bên này đến bên kia, sẽ giúp mình toại nguyện.

Thưa đồng đạo
Kẻ muốn qua sông khổ, cần phải có đức tin vào “Sự cứu vớt của chư Phật”, rồi hết lòng thệ nguyện cầu đạo giải thoát cho chúng sanh. Song muốn chứng minh đức tin và bản nguyện ấy, thì cần phải thật hành cho được những việc khó thật hành, như Bố thí, Trì giới, v. V… và có thật hành thế như mới thành đạt được bổn nguyện.
 
Huống chi, đời Mạt Pháp chúng sanh hầu hết là thiểu căn, thiểu trí, thường gây lắm tai ương bằng mọi mưu mô độc ác, dễ làm cho người tu lay chuyển tinh thần.
 
Nếu không có Đức tin mạnh mẽ, bổn nguyện sâu dầy, Thực hành kiên cố thì khó đạt đạo. Vậy phải tin lời Đại nguyện của Đức Phật Di Đà: “Nếu một chúng sanh nào, Thành tâm niệm danh hiệu Ngài từ 1 đến 10 tiếng Nhứt Tâm Bất Loạn sẽ được Ngài ủng hộ và khi mạng chung được Ngài hiện thân đến tiếp rước về cõi Cực Lạc”.
 
Được như vậy. sẽ có một ngày có “Thoại Ứng Vãng Sanh”.

Thưa đồng đạo,
Sư khổ đời nay hẳn không còn ai chối cãi được, tôi không muốn một ai nghi ngờ sự tiên đoán của Đức Thầy về sự tận thế lập Hội Long Hoa và tôi cũng không muốn một ai cưỡng lại giáo lý vừa thích trung, vừa chơn chánh của Đức Thầy.
 
Nên tôi cạn lời khuyên nhủ mọi người, nên cải tà quy chánh, khử ác tùng thiện, để bớt cuộc khổ đau hiện hữu, cứu mình, cứu người và cứu cả tổ tiên cha mẹ khỏi vòng luân chuyển chứng quả vô sanh:

Cõi đời thê thảm thấy hay chưa,
Phật đã huyền khai pháp đại thừa.
Độ rỗi con lành quy Thượng Phẩm,
Khỏi còn đắm phải kiếp say sưa.

Say sưa nhục dục xác thân phàm,
Muôn khổ đùm đeo chớ vội ham,
Mong mõi muôn người mau thức tỉnh,
Để chờ Phật ánh giữa trời Nam.

Hỡi đồng đạo, hỡi người đồng đạo,
Sự tỉnh tu hãy rán chuyên cần.
Dứt đi tất cả nợ nần,
Để rèn tâm đạo một lần thử coi.
Cõi Ta bà biết bao thống khổ,
Về Lạc Bang là chỗ an cư,
Rán đeo hai chữ thiện từ,
Dầu cho tan xác đã như không màng,
Miễn cho được lên thoản bát nhã,
Cả dưới trên thong thả xướng ca,
Toại mình con của Phật gia,
Từ nam chí nữ Hảo Hòa như nhau.
Lời khuyên tỉnh ai mau để dạ,
Tiếng gọi tu người khá chuyên tâm.
Ầm ầm tiếng sấm Lôi Âm,
Giục hồn kẻ thiện mộng trầm tỉnh đi.
Noi gương Phật từ bi bác ái,
Gìn thói xưa quảng đại nhân từ,
Mới là quy Phật an cư,
Không còn đeo đắm kiếp đời dối ma.
Lời Phật tỉnh bá gia hãy nhớ,
Tiếng Thầy khuyên già trẻ nên lo,
Tôn sư đã có hẹn hò,
Gặp nhau Bửu Ngạn thầy trò mới vui.
Đây được đó tới lui tính chuyện,
Khuyên hãy cần trau luyện chơn tâm,
ắt là họa khổ khỏi lâm,
Được cùng hội ngộ rừng cầm tới đây.
Tuy hiện giờ ngàn cây muôn đá,
Đến sau này Phật chóa hào quang,
Chừng ni nhà dọc dãy ngang,
Dành cho lương thiện một tràng vui say.
Lời kệ sám mỗi ngày mỗi thúc,
Sự tu hành trì trụt mãi sao,
Hỡi ai gốc thiện đeo vào,
Trì tâm chứa chặc một màu sồng nâu.
Không chi khó một câu Lục Tự,
Chẳng nói nhiều hai chữ Thiện Lương,
Phải như lên ngựa cầm cương,
Vượt qua hố thẳm chung giường từ bi.
Trai với gái đạo nghì nên gắng,
Trẻ cùng già ngay thẳng làm tiên,
Phải là thấu rõ Diệu Huyền,
Hội này khoáng hậu không tiền bớ ai,
Nếu để trễ ngày mai khó gặp,
Hiện bây giờ hãy tập cho xong,
Cả kêu dòng dõi Lạc Hồng,
Nhớ người thượng cổ một lòng hiếu trung.
Phải nương tựa cội tùng cho được,
Sớm cùng chiều việc phước đừng buông,
Trên đường nào mãi được suông,
Trụi da sành sỏi chứ buồn lảng tâm.
Kệ với phú lời ngâm thảnh thót,
Đạo cùng đời nghe lọt vào tai,
Sớm chiều chớ lợt đừng phai,
Một câu hỷ xả miệt mài gẳng thêm.
Đời này chưa được êm bớ chúng,
Dân nước còn lúng túng chẳng an,
Chừng nào giặc dậy bốn phang,
Mới là bừng tỉnh khoát màn gọi cha.
Cảnh đấy luống chan hòa giọt lụy,
Nhờ ơn trên xét kỹ gia ơn,
Thầy đâu trò cứ theo chơn,
Vượt ngàn cay đắng cũng gần luôn luôn.
Đến thế mới hết buồn hả dạ,
Được cùng vui thong thả dưới trên,
Khuyên ai giữ đạo cho bền,
Xét suy cạn kỹ giữ nền chánh chơn.
Sự đời khuyên chớ chác hờn,
Bao nhiêu oan nghiệp trong trần bỏ luôn.
Nỗi buồn dại bị người khôn,
Yếu hèn gặp mạnh đánh dồn thuở nay.
Rán mà chịu đựng đắng cay,
Hết cơn hỗn loạn gặp ngay thái bình.
Đức Thầy còn nạn ẩn mình,
Thì trong bổn đạo đâu tình yên vui.
Rán cầu cho nước được xuôi,
Đạo mầu sớm tỏ mới nguôi tấm lòng.
Trong cơn khao khát nước trong,
Gặp nhằm nước đục khiến lòng xót xa.
Khuyên nên gìn giữ lòng ta,
Đừng cho thâm nhiễm mới là quí cao,
Mặc dù muôn sắc muôn màu,
Với lòng cũng một chớ nào đổi thay.
Tâm bình được gặp Như Lai,
Lòng kia rối loạn khó thay đạo mầu.
Ngày nay khắp cả năm châu,
Nơi nào mà chẳng chịu sầu chiến tranh.
Nỗi buồn vàng đỏ trắng xanh,
Càng nhiều tông phái càng ganh ghét nhiều.
Gây ra lắm cuộc máu điều,
Giống dòng Hồng Lạc chín chiều bâng khuâng.
Khuyên nhau rán vẹn bốn ân,
Gái trai đều cũng giữ thân vuông tròn.
Chờ cho biển cả biến hòn,
Đồng không lại nổi lầu son dãy đầy.
Càn khôn biến chuyển lạ thay,
Đó là Thiên Định trong ngày tới đây.
Chừng sau mới được sum vầy.
Còn nay phải chịu nhiều ngày khổ lao.
Nhủ khuyên đồng đạo cùng nhau,
Sự tu thì phải cần trau cho thường.
Mỗi khi tay đốt nén hương,
Thì lòng hãy nhắm Phật đường khấn van.
Riêng mình tai nạn chớ than,
Nghĩ thương lắm kẻ liều toan độ điều.
Bước chân lên được Lam kiều,
Phải cần lo dắt được nhiều người theo.
Rủi khi gặp phải hùm beo,
Lấy tài cứu kẻ buổi nghèo khỏi vương.
Khuyên người chạm giữ lòng thương,
Thương người khắp cả còn vương khổ hình.
Tấm lòng mở được rộng thinh,
Sánh cùng chư Phật với mình không xa.
Mam Mô sáu chữ Di Đà,
Nhủ khuyên đồng đạo trẻ già chí tâm.
Làm sao rõ mối huyền thâm,
Hãy tìm não trí tự ngầm hiểu ra.
Giảng cơ chỉ rõ cho ta,
Cứ noi theo đó khỏi sa ngục đồ.
Khuyên người chớ khá mờ hồ,
Từ đây hãy gắng lòng cho chơn thành.
Cuộc đời còn mãi đao binh,
Thì đường tu tấn của mình phải thêm,
Dầu cho cuộc thế có êm,
Chớ đường sanh tử cứ thêm mãi hoài.
Thì ta cần phải tu ngay,
Tu cho đến lúc khỏi tay tử thần.
Làm sao khỏi vướng bụi trần,
Để cùng chư Phật được gần mới vui.
Đạo mầu sực nức cả mùi,
Ta nên thâm nhiễm tới lui kiếm tầm.
Còn chi bằng được thoát trần,
Liên đài được ngự khỏi phần tử sanh.
Đời này chớ lắm liệt oanh,
Trả vay vay trả dữ lành éo le.
Của tiền nhiều cũng chớ khoe,
Sức dầu có mạnh phải dè mới cao.
Bây giờ ai cũng hùng hào,
Lửa mà gặp lửa dễ nào được an.
Nhịn qua một việc đáng vàng,
Gây nên nhiều chuyện rối càng lên thêm.
Nghĩ suy mà chẳng nỗi niềm,
Ôi thôi đời quá đắm chìm mê ly.
Dưỡng nuôi hột giống mê si,
Tránh sao khỏi xuống A Tỳ ngục môn.
Tu cho rỗi được linh hồn,
Hoặc còn xác thịt tiếng đồn khắp nơi.
Cuộc giả tạm chiều mơi đã lộ,
Đời hỡi còn thấy khổ chưa thôi,
Đừng đừng có vội bạc vôi,
Để mà trở lại con người chánh chơn.
Nhủ khuyên hãy gìn thân Trung Hiếu,
Gọi đừng nên thấy yếu Nam Mô,
Đời này muôn việc mơ hồ,
Giàu sang đâu chắc, lúa bồ đâu yên.
**
Gặp cơn nạn ách đảo điên,
Giàu nghèo cũng chịu não phiền như nhau.
Giàu mà trở lại cháo rau,
Cháo rau trở lại sang giàu lắm phen.
**
Gặp phải lúc thời đen vận bạc,
Khuyên mỗi người giữ chắc chữ tu,
Rán cho sấu được hóa cù,
Huờn Tiên biến tục đui mù khỏi mang.
Kiếp ngũ trược muôn vàn lao lý,
Được lục thông việc ấy tiêu dao,
Khuyên ai trước cũng như sau,
Làm lành lánh dữ một màu chớ quên.

Tây An Cổ Tự, Ngày 30 Tháng 7 Giáp Ngọ
(tức 26 tháng 8-1954)
  THÁNG TÁM:
39- Đêm 11 tháng 8 Giáp Ngọ. Nhân lễ kỷ niệm Đức Phật Thầy Tây An tịch: Bốn Chân Ghế

Đêm 11 tháng 8 Giáp Ngọ. Nhân lễ kỷ niệm Đức Phật Thầy Tây An tịch: Bốn Chân Ghế

Mở lòng nghe rõ máy huyền cơ,
Thiện tín đàng tu há hững hờ.
Chư Phật động lòng rơi nước mắt,
Réo kêu dân chúng chẳng hề lơ.


Kính chào tất cả đồng đạo,
Trời sắp chiều không ai tài nào bảo đừng lặn được. Hoa gần tàn chẳng kẻ nào giữ cho khỏi héo được. Kiếp người cũng thế, có trẻ phải có già, khi già không ai tránh khỏi.

Cũng như kỳ hạ nguơn này, không thể tránh khỏi cảnh “Biến Vi Thương Hải”, để lập lại Thượng nguơn. Được biết như thế mà, kẻ được giác ngộ một phần nào lẽ dinh hư tiêu trưởng trên đời, không sớm quay đầu hướng thiện cãi dữ về lành, tháng ngày không vâng lời Phật Thánh chỉ dạy, tạo tác phước điền trau giồí hạnh đức, thì khó mong sống sót gặp các vị cổ đức trở lại và cũng không gặp Hội Long Hoa xoay quanh chơn Phật để nghe pháp mầu,

Thưa đồng đạo,
Tuồng đời là mộng ảo. không một vật nào tồn tại mãi, ngay như kiếp người là quý nhứt mà còn không giữ được lâu, hết trẻ rồi già, khi mạnh khi yếu, lúc thạnh lúc suy, xoay dần theo cuộc thế, quấn quít việc sanh cư. Nói tóm lại, loài người chỉ quay quần mê đắm những điều của loài người sáng tạo tôn sùng, những điều sớm muộn gì cũng đi đến chỗ tan rã.

Đời này cũng như bao đời qua, người ta cứ diễn đi diễn lại cái tấn tuồng ấy mãi, chưa được bao nhiêu người biết để tâm suy nghĩ sự lừa dối của ngoại cảnh để tu hành, sấn xướt đến cõi giải thoát.

Bởi không được giải thoát, nên trong biển sanh tử có lắm người lặn hụp, vay trả từng miếng ăn, từng manh áo mặc, oán ân ân oán chưa bao giờ dứt. Người đời thường quen theo thói đời hơn quen tánh Phật.
Thành thử có đa số cậy vào quyền thế bắt giết lẫn nhau. Vì lợi danh mà cốt nhục tương tàn, vì tự ái mà tranh đấu hơn thua, vì ích kỷ mà người này húng hiếp người khác, trông vào đấy chư Phật rất đau xót không ngần. Chẳng những đau xót cho loài người mà cả đến loài cầm thú. Nên tùy cơ hóa hiện giục thúc chúng sanh trở lại con đường lành, vì con đường lành mới là phương cứu khổ. Nó có thể đưa chúng sanh khỏi cảnh đồ lao về nơi an dưỡng.

Nếu như ai cố chí làm lành, trước sau không dời đổi, thì kẻ ấy chỉ chịu khổ một kiếp này rồi kiếp sau sẽ được khỏi.

Tùy theo công đức nhiều ít mà được vãng sanh về Cực Lạc, ngồi trên chín phẩm đài sen, làm bạn với các vị Bồ Tát. Trái lại, kẻ nào vì đắm mê vật dục, làm điều hung ác, gây lắm tội lỗi, thì kẻ ấy tự trói mình trong ngục Ta Bà, chịu vạn khổ thiên lao.

Nếu may còn được sanh làm người, thì cũng tật nguyền ngu dốt, chịu sự đàn áp của những kẻ khôn hơn mạnh hơn.

Thưa đồng đạo,
Chúng ta đã hiểu đời là tạm giả, thì còn tham đắm chi quyền quí lợi danh. Như chúng ta đã biết từ trước đến giờ, biết bao nhiêu vua chúa, biết bao nhiêu công khanh, biết bao nhiêu phú hào tiền rừng bạc bể, nhưng có ông nào sống mãi đến ngày này không? Không.

Các ông ấy cũng theo công lệ của sanh tử mà chết mất cả và những sản nghiệp của mấy ông cũng chỉ còn lại trong giới hạn, rồi diệt nốt, có còn được chăng là còn để tiến khen chê trong thiên hạ.

Khen chỗ nào? Khen chỗ thanh bần của thầy Nhan Tử, Khen lòng đại bi của Đức Phật Thích Ca. Chê thói bạo sát của Hạng Võ, chê lòng ích kỷ của Thạch Sùng, chê thói dâm loàn của Trụ, Kiệt. Những lẽ vinh nhục, tiếng khen chê, chúng ta cứ suy cổ nghiệm kim sẽ thấy rõ, thì còn có lý do gì chánh đáng chê trách.

Hãy nên tìm những cái cao siêu hơn, vinh diệu hơn, nhứt là nên tìm cái đạo. Đời là bóng dáng, đạo là cốt trụ. Muốn duy trì cuộc sống thanh bình cũng nhờ cái đạo. Người có đạo lý tất biết liêm, biết sĩ, biết thờ cha kính mẹ, biết cư xử công bằng. Trái lại, kẻ không có đạo lý hay ngỗ nghịch bất hiếu trọng tài hơn nghĩa, vì mình mà gây khốn cho mọi người.

Thưa đồng đạo.
Hôm nay, nhân ngày Đức Phật Thầy Tây An nhập tịch, tôi có bốn chân ghế rất vững, xin trình hiến đồng đạo:
1- Lấy trí phán đoán tường tận việc này đến việc khác, hầu chọn con đường chánh đáng;
2- Khi chọn được con đường chánh đáng, phải kiên thủ tiến tới cho đến khi nào đạt được nguyện vọng.
3- Trong khi tiến tới con đường chánh đáng, coi thường nguy hiểm và mọi hoàn cảnh thử thách.
4- Luôn luôn hy sinh những cái gì của mình đã có trong việc đạo nghĩa, để đổi lấy thành công.


Bốn khoản kể trên có sức thúc đẩy và bảo đảm sự tiến đạt mục đích theo ý muốn của mình. Nếu kẻ muốn thành công mà thiếu một trong bốn điều ấy thì không thể được, cũng như như chiếc ghế bốn chân, bớt một chân không sao đặt vững.

Chúng ta có ngũ quan đầy đủ, thêm được sự chỉ giáo của Đức Thầy, đã hiểu kết quả của việc lành việc dữ như thế nào rồi, mà không chịu chọn một việc phải để làm, thì không đáng trách lắm sao?

Làm lành thì mọi người được nhờ, làm dữ thì mọi người phải hại. Như thế, chẳng phải kẻ lành cần có, và đáng làm gương mẫu cho xã hội ư?

Một khi không chịu làm lành, tất nhiên người ta phải làm dữ. Nếu ai cũng đua nhau làm dữ, thì thế giới ngày nay, đâu khỏi hóa ra trường chém giết một cách thương tâm thảm mục.

Vậy khỏi còn phải nói nhiều, chúng ta nên làm lành và chính lẽ ấy Đức Thầy đã bảo và vẫn bảo. Bởi ngày Hội Long Hoa chỉ dành cho người lành, cũng như các ngôi Tiên, Thánh, Thần cũng chỉ dành cho kẻ làm lành.

Thưa đồng đạo,
Đức Thầy mở đạo vào thời kỳ này, chính vì muốn cứu chúng ta thoát khỏi tai trời ách nước, khỏi sống say chết ngủ. Chúng ta rán giữ gìn nó, chẳng những nền đạo ấy cứu chúng ta, mà còn cứu tổ tiên, cha mẹ của chúng ta nữa. Nếu chúng ta được trọn lành trọn sáng, chúng ta chẳng nên theo sở dục trong đời tàn, nỡ giết mình, giết người, trái qui luật đạo lý. Hơn nữa, chúng ta đâu nỡ làm cho kẻ khác khinh bỉ, nhứt là khinh bỉ đạo mình, Thầy mình do mình gây nghiệp bất chánh. Chúng ta sống vào thời kỳ này, nếu không làm gì nên công với thiên hạ, thì cũng chớ làm nên tội, sống như thế cũng đã hổ lắm rồi.

Thưa tất cả đồng đạo,
Vì muốn ai cũng tốt cả, buộc tôi phải nói nhiều câu mà dường như có chỗ chạm lòng nhiều người. Nhưng thà tôi chịu kẻ khác phiền trách. Hơn để họ làm lắm việc tội lỗi cho nhơn loại. Nhứt là hoài bão của tôi chẳng còn mong mỏi nào hơn, được thấy anh em đồng đạo quy nhứt trên con đường lành. Vì nó chẳng trái lời Đức Thầy và sẽ đem lại cảnh hòa hảo trong đạo. Vả chăng có được như thế, mới làm gương mẫu cho kẻ khác và gây phúc lợi cho đất nước.

Thưa đồng đạo,
Có lẽ đồng đạo cũng tưởng nhớ đến Đức Thầy, vì chúng ta mà phải xa cha cách mẹ, lìa bỏ quê hương, gánh chịu mọi đau khổ cho người đời. Sự dạy dỗ của Đức Thầy trong thời Pháp thuộc gặp biết bao nỗi khó khăn, vẫn tìm đủ cách tăng mạnh đức tin của bổn đạo, từ vùng này đến vùng khác, công ơn ấy không sông nào lường được, chẳng núi non nào chở được. Chúng ta hãy nhớ để cố gắng làm tròn bổn phận của người đạo đức.

Sự vắng mặt của Đức Thầy cũng là cơ thử thách của sự giả thiệt của anh em tín đồ, để một ngày gần đây Đức Thầy trở về, chẳng còn ai chối cãi việc làm của mình được. Chúng ta nên hiểu như thế, để khéo sửa mình đúng cách cho khỏi thẹn khi Đức Thầy trở về.

Tóm tắt bài giảng hôm nay, cũng như bao bài giảng qua rồi, tôi vẫn khuyên đồng đạo nên tôn trọng luật đạo giữ vững nền đạo, tiến đến chỗ thành đạo, đừng để sụp đổ uổng phí công trình dạy dỗ của Đức Thầy, lại uổng sanh làm người giữa thế gian.

Tây An Cổ Tự, Đêm 11 tháng 8 năm Giáp Ngọ. Nhân lễ kỷ niệm Đức Phật Thầy Tây An tịch.
40- Ngày 30 tháng 8 năm Giáp Ngọ (Làm Lương Thiện)

Ngày 30 tháng 8 năm Giáp Ngọ: Làm Lương Thiện

PHẬT cả ba đời độ chúng sanh,
GIÁO điều diệu pháp rất tinh minh.
HÒA Nam chí Bắc chung an lạc,
HẢO đến muôn nhà dứt chiến chinh.

Kính chào quý đồng đạo,

Té xuống đất hãy chỏi đất ngồi dậy. Sanh trong cõi mê hãy nhận sự mê để tỉnh ngộ. Kẻ tại gia cư sĩ sống chung với mọi người, tai thường nghe lời trái, mắt thường thấy việc quấy, song lòng mình đừng để ô nhiễm.

Hãy giữ mình sống trong cõi trần mà không nhiễm trần, như sen mọc dưới bùn mà không hôi bùn, chỉ thấy càng sống trong xã hội phức tạp, lại càng thấy mình có phương tiện thi thiết lời lành; lẽ phải cho người đời được lợi ích. Như thế, mới đúng tâm hồn vị tha của bực Đại Thừa.

Trái lại, đừng vi sự chung lộn với kẻ khác, mà phải ô nhiễm việc quấy của họ, chẳng luyến ái những cái không đáng luyến ái, không vì một việc nào làm mất tinh thần đạo đức, sa ngã với kẻ hung tàn, làm điều vô liêm bất nghĩa, trái ngược đạo lý, dầu việc lầm lỗi ấy do kẻ khác xúi biểu cũng không khỏi tội, cần phải cương quyết đoạn tuyệt.

Vả lại, người xúi biểu được mình là bởi mình kém tinh thần tự chủ. Nếu không tự chủ được việc này, tất không tự chủ được việc khác. Rốt lại, chỉ để người khác chỉ huy. Những tội lỗi thường hay dựa vào chỗ ấy phát sanh, điều này kẻ tu hành nên biết và cố tránh.

Tại sao tôi mãi nói thế? *Phắc tới câu chuyện này, do chỗ tôi nhận thấy thời đại văn minh vật chất, đa số đều cạnh tranh theo thói mới, mà kẻ tại gia cư sĩ đang ở trong thời đại ấy, chẳng dễ được bao nhiêu người trong như tuyết, sáng như gương.

Trái lại phần đông theo ngọn gió tân thời sa ngã rất nhiều. Sa ngã vào đâu? Sa ngã vào việc hư hèn tội lỗi, khi làm nên tội lỗi, thì đâu còn đầy đủ tính cách thiêng liêng của con người đạo đức, mà chỉ làm trò cười cho thiên hạ. Vì vậy mới có có câu chuyện ở đoạn đầu trong bài giảng hôm nay.

Thưa đồng đạo,
Đời đầy gai chông, kẻ học đạo thường đụng chạm, khi đụng chạm tuy khó nhẫn nại cũng rán nhẫn nại. Mình đã hiểu luật nhân quả biết được đạo đức, nhứt là chán biết sự giả tạm của “Thế Thượng Vạn Ban”, thì sự nhẫn nại rất dễ dàng.

Huống chi, tu hành không gặp sự khó thì đâu có công phu. Vì có thành công cũng không có giá trị, há quên gương Đức Phật Thích Ca băng rừng vượt núi, dãi gió dầm sương, “Lục Niên Khổ Hạnh” mới nên phẩm vị Như Lai. Đến khi mình muốn được như Ngài, cũng cần theo dõi gót của Ngài.

Như trường hợp Đức Thầy chúng ta đã phải chịu lắm tân khổ, vì chúng sanh mà quên ăn, quên ngủ. Đó là Đức Thầy đi sát với Đức Phật Thích Ca, đức độ ấy, ý chí ấy, chúng ta rán học. Không phải chúng ta dám bì được như hai Ngài. Nhưng ít ra, chúng ta cũng phải làm được một phần nào của hai Ngài đã chỉ giáo. Điều gì của hai Ngài bảo không thì chớ nên làm, điều gì của hai Ngài bảo làm thì chớ nên không.

Thưa đồng đạo,
Ngày giờ này không như ngày giờ trước, cuộc diện năm châu càng lúc càng đưa đến gay go, không một nước nào thái bình và không một dân tộc nào chẳng lo chiến tranh hoặc chuẩn bị để chống chiến tranh.
Đó là là tiên triều của cuộc tận thế.

Về phương diện đạo đức cũng thế, hiện nay, không một nước nào chẳng lo tổ chức và lại tôn giáo, để chống lại mọi sự cám dỗ của vật chất tân kỳ và chống lại sự chòm hòm của thuyết vô thần, muốn tiêu diệt tôn giáo.

Chúng ta trong hai phương diện ngừa chiến tranh và giữ đạo đức cần phải gồm đủ.

Tại sao? Bởi chúng ta thuộc hàng tại gia cư sĩ, còn nặng nợ núi sông, thì trong lúc trong nước nhà đang yếu, cần phải bảo vệ. Đồng thời với sự bảo vệ ấy, cần phải tô điểm tinh thần đạo đức, để làm trụ cốt cho sức mạnh.

Chúng ta không nên bỏ luống thời gian nào cả, nhứt là trong thời gian có thể làm được những công lợi. Đức Thầy có nói:
“Hạ nguơn nay đã hết đời,
Phong ba biến chuyển đổi dời gia cang".


Đời Hạ nguơn sắp hết, nạn binh lửa càng lúc càng cháy rậm ra, đã diễn lắm trò thảm khốc, con xa cha, vợ mất chồng, anh em ly tán Không mấy người được khỏi cảnh huống này. Nếu trong cảnh huống này đều phải lo, phải khổ cả, chúng ta đã giác ngộ một phần nào về sự biến chuyển của nhơn sanh thì không lẽ ngồi không, hoặc tạo tội để chờ hết kiếp, mà cần phải tìm làm những việc có công với nước, có phước với dân và nên phương tiện làm sao cho mọi người được giác ngộ như mình, để không còn thấy cảnh trái đạo, nghịch thường trong xã hội và cũng làm cho mình đức tốt mỗi ngày được thêm, trí mình mỗi ngày được sáng, thì mới khỏi tai bay họa gởi.

Thưa đồng đạo,
Ngọn đèn sắp tắt thường nhóa sáng lên, cũng như đời hầu tàn trở nên văn minh cực điểm, văn minh để mà tiêu diệt, văn minh trong cái dã man, văn minh trong cái sát hại tàn khốc thì cái văn minh đâu nên xu phụ.

Chúng ta còn lạ gì những điều ấy, mà chẳng mạnh tin có cuộc biến thiên, cố gắng tu hành, không nên để nước đến trôn mới nhảy. Nghĩa là đừng chờ gặp nạn rồi mới khấn vái Phật Trời, thì không có hiệu quả.
Muốn được sự cứu hộ của Phật Trời thì mình phải tu hành trước. Nếu nghiệp nặng, thì phải trả quả ít nhiều, còn nghiệp nhẹ thì được Trời Phật độ qua.

Thưa đồng đạo.
Lần giảng nào tôi cũng được đồng đạo đến nghe, nghe đây không ngoài lẽ để hiểu thêm những gì mình khiếm khuyết, hầu có tu bổ lại. Tôi hằng nguyện ước: Đồng đạo biết thương yêu nhau, dìu dắt nhau vào đường đạo đức, đúng như Đức Thầy trong tám điều răn.

Nếu mỗi người nghe giảng, sau khi về nhà, thử có ai mắng mình nhịn được, lỡ ghiền rượu chè mà bỏ được và đem tiền của giúp kẻ khác, thì sự nghe ấy mới hữu ích. Trái lại, sau khi nghe giảng cũng như lúc chưa nghe, những việc quấy không chừa, các điều lỗi chẳng hối, thì thật là hoài công. Bởi câu chuyện của tôi đem nói với đồng đạo là tôi chỉ lược thuật hoặc trích khuyến, để chúng ta sửa đổi những gì đáng sửa đổi và đôn đốc trong việc làm phước thiện, để gây duyên lành với chư gia thiện hữu, cùng biết tu tỉnh hưởng phước huệ như nhau.

Theo tôi nghĩ rằng: “Nếu trong đạo có một người làm quấy thì cả thảy đều mang tai tiếng. Trái lại, có một người làm tốt thì trong đạo hưởng lây".

Vì thế mà tôi lấy tư cách một người đồng đạo hết lời nhắc nhở, anh em nếu nhận nơi đây là lời chơn chánh thì hãy mau sửa đổi lại.

Thưa quý đồng đạo,
Làm lành đầu tốn tiền bạc, nếu tốn tiền bạc cũng chỉ để chưởng phước về sau, mất mát chi đâu mà anh em ngần ngại việc làm lành, Vả lại, việc lành là việc mong ước nhứt của dân chúng hiện giờ,
Tại sao? Bởi dân chúng thường gặp sự hung dữ đối đãi khắc nghiệt, họ đã chán lắm rồi. Thế mà, kẻ trí không nhận ra việc làm lành, thì còn đợi đến lúc nào nữa. Ngược lại, làm theo việc ác như bao nhiêu người khác, thì chẳng khác nào cầm đuốc đi ngược gió.

Huống chi, các Phật ba đời cũng do làm lành mà nên đạo bồ đề, nào phải các ông làm ác, mà chúng ta theo đòi việc ác, đã học Phật mà không noi theo Phật lại noi theo ai. Phàm noi theo Phật thì phải được nhứt tâm.

Ngoài sự làm lành còn cần phải biết niệm Phật nữa. Mỗi một chúng sanh khởi lòng niệm Phật, thì nơi cõi Cực Lạc Đức Phật gieo xuống một hột sen nơi ao Thất Bửu, bên này tinh tấn tu hành thì bên kia hột sen mọc lên mỗi ngày tươi tốt. Bằng trái lại, bên này chúng sanh biếng lười dãi đãi, thì bên kia hột sen mỗi ngày một héo đến mất đi.

Như thế thì chúng sanh ấy khi mạng chung không về Cực Lạc, thường sa đọa vào địa ngục. Vì vậy, cần phải được nhứt tâm.

Thưa quý đồng đạo,
Chẳng phải tôi hăm dọa đồng đạo và cũng không ngụy biện mà đó là sự thật.

Đồng đạo hãy chọn lọc kỹ, rồi khi thi hành cho xứng đáng một tín đồ Phật giáo. Vật chất mà ngày một thịnh cường đó chỉ là một cuộc thử thách, kẻ tận tâm vị đạo chẳng nên vì nó mà bỏ đạo.

Hãy lập chí sống trên tiền bạc mà không bị tiền bạc sai khiến, nằm trên công danh mà Không để công danh làm hư tiết tháo, hãy coi nó là một phương tiện để làm lợi ích cho người đời.

Điều này đối với thời đại hiện nay cũng cần làm sớm được chừng nào hay chừng nấy. Vì đa số hay bị tiền bạc mua chuộc, danh lợi cám dỗ mà mình ở trong đó lại không ô nhiễm. Trái lại, nhân đó làm việc lợi ích cho đời. Tất nhiên, mình sẽ treo được tấm gương tốt đẹp và đáng dẫn đầu một xã hội kỷ cương.
Những việc ấy chính là việc tu hành vậy, nó không những cứu mình mà còn cứu được Tổ tiên. Trái lại, mình làm quấy Tổ tiên cũng sầu lây. Tôi xin nói cùng đồng đạo trong số Cửu Huyền Thất Tổ của ai cũng có lạc vào cõi khổ, không nhiều thì ít. Nếu ngày nay con cháu biết tu hành, tất cứu được những vị ấy siêu thăng.

Nhược bằng con cháu chẳng đoái đến sự cứu vớt Tổ tiên, thì kể như là tội bất hiếu, thì đâu gọi là người tu hành.

Tóm lại, việc lương thiện là điều tối tôn, tối trọng, dù thời đại nào cũng có nó, không có nó xã hội sẽ trở nên đảo điên tán loạn, lắm việc tồi phong bại tục diễn ra.

Vì vậy mà chung quy câu chuyện hôm nay là phải làm lương thiện, muốn làm lương thiện cần phải làm được những việc như thế này:

- Lẻ thứ nhứt: Kiểm điểm lại thân tâm rồi cương quyết đánh đổ lòng xấu xa độc ác.
- Lẽ thứ hai: Tánh tình ích kỷ tham lam, giận gũi phải được trừ bỏ ngay không được tái phạm.
- Lẻ thứ ba: Trong lúc hành thiện cần phải siêng năng, chẳng sợ khó nhọc không hoang phí thì giờ vào việc vô ích.
- Lẽ thứ tư: Cần phải có đức tin mạnh mẽ nơi việc của mình làm, không để kẻ khác rù quến theo đường quấy.
Lẽ thứ năm: Vẫn biết mình đã làm được nhiều việc quí ích hơn kẻ khác, song chẳng khoe khoang tự đắc. Chẳng cho là đủ, thường hay khiêm nhượng.
Được những điều trên đây thì việc làm lành của mình sẽ được bảo đảm.

Thưa quý đồng đạo,
Tiện đây, tôi cũng cần nhắc thêm một việc mà tôi cần phải nhắc, việc ấy là thiên cơ và chân lý. Có nhiều người chỉ lo thiên cơ chớ không tìm chân lý, tưởng thế là phải đạo.

Nhưng theo tôi đó là trái ngược. Vì sao? Vì thiên cơ không ngoài chân lý. Nếu hiểu được chân lý tất hiểu được thiên cơ, còn chưa hiểu chân lý mà muốn hiểu được thiên cơ, thì cái hiểu ấy chưa ắt đúng.
Nếu không đúng tất có hại. Tại sao?

Vì việc mong ước chưa kết quả, thường đâm ra chán nản đôi khi bỏ đạo, sanh việc bất lương nên tội với luật pháp, mà nếu hiểu việc thiên cơ đúng như việc trong nhà mà đạo lý không hành được việc nào thì đến ngày biến chuyển, lấy công đức gì để tồn tại được.

Đó chẳng khác nào đếm bạc cho nhà giàu, chung cuộc mình chẳng có một đồng nào. Vậy những kẻ muốn hiểu thiên cơ thì nên tìm chân lý trước đi, đó là giữ chắc căn bản và sẽ không thất bại.
Ngày nào đến mức thiên cơ thì phần thưởng tồn tại cũng chỉ dành cho kẻ thấm nhuần chân lý.

Đường chơn cùng nẻo chánh,
Khuyên nhủ phải cần âu.
Mới tránh nỗi âu sầu,
Của ngày kia tận diệt.
Trường đời sao mải miết,
Cửa đạo thấy càng lu.
Trông ngóng mãi người tu,
Trần gian chưa tỉnh ngộ,
Chẳng hiểu cơ hóa độ,
Của các bậc siêu phàm.
Cõi tục cứ mãi ham,
Lòng trần chưa chịu dứt.
Thần xem thêm bực tức,
Phật thấy lại càng đau.
Nên lắm tiếng kêu gào,
Rán mà nghe bớ thế.
Đạo nay như chợ ế,
Muôn mặt thảy đều sầu.
Tình cốt nhục năm Châu,
Đã chia bâu rẻ áo.
Có mấy ai ngay thảo,
Thật ít kẻ lương thuần.
Dù trước đã tình thân,
Nay người dưng tất cả.
Dân mỗi ngày sa ngã.
Đạo mỗi bữa cần chuyên.
Mong sao chúng làm hiền,
Kẻo tủi phiền Tiên Phật.
Càng lo trong quả đất,
Mỗi lúc mỗi thêm nghiêng.
Sợ có cuộc đảo điên,
Cơ tang điền đã đến.
Dầu của tiền có mến,
Chừng đó chẳng đem theo,
Chỉ cần thấy nạn eo,
Nào hùm, beo, tây, tượng.
Dầu ai muốn sung sướng,
Lúc đó cũng không thành.
Bao nhiêu lợi cùng danh.
Thả trôi sông tất cả.
Chỉ những người công quả.
Đối với Phật được nhiều.
Nhờ một bức lụa điều.
Chở che cho yên tịnh.
Lời nhủ khuyên thiện tín,
Từ nay phải kiên tâm.
Hôm sớm phải âm thầm,
Niệm A Di Đà Phật.
Tuy sáu chữ chơn thật,
Mà có đủ huyền năng.
Cứu người tục lẫn tăng,
Khỏi trong ngày khổ lụy.
Khuyên những người cư sĩ,
Giữ ngũ giới cho tròn,
Dầu có phận nước non,
Cũng không ngoài đạo đức.
Lấy những điều chánh trực,
Để phổ cập nhơn quần.
Dầu kẻ sơ người thân,
Cũng thương yêu giúp đỡ.
Trên đường lành rạng rỡ,
Còn nẻo ác mịt mờ.
Đây mượn ít vần thơ,
Để khuyên người tỉnh thức.
Thấy nhiều người say gật,
Trong mồi lợi bả danh,
Nỡ quên mất việc lành,
Không còn trau lẽ thiện.
Sợ ngày kia biến chuyển,
Phải chịu cuộc thảm sầu,
Nay khuyên rán quày đầu,
Kẻo uổng công sanh đẻ.
Muốn đền ơn cha mẹ,
Cần tinh tấn tu hành.
Vừa là những việc lành,
Được lợi dân ích nước.
Vừa trau giồí cội phước,
Hầu cứu vớt Tổ tông,
Đó là cái diệu môn,
Để đưa người khỏi khổ.
Khuyên từ đây khắp chỗ,
Hãy gắng gổ tu hành,
Muốn đạo quả đắc thành,
Phải nhọc nhành lập đức,
Nỗi say mê hãy dứt,
Cơ trí huệ cần trau.
Điều nhân nghĩa trước sau,
Phải xử sao tròn phận.
Đến chừng kia phong vận,
Khi đưa lại cho mình,
Mới có cuộc thới bình,
Khỏi âu sầu bể khổ.
Đời hạ nguơn tới chỗ,
Biến diệt khắp mọi nơi,
Khuyên chớ mến sự đời,
Hãy đem lòng nhớ đạo.
Con phải gìn ngay thảo,
Cha nên dạy điều lành,
Dân phải biết trung thành.
Nước là nơi sanh trưởng,
Tu cần nên mở lượng,
Theo chí đức từ bi.
Nếu biết chữ quy y,
Thời hành trì cho đúng.
Lương hiền thì được dụng,
Tà mị sẽ bỏ ra.
Đến ngày Hội Long Hoa,
Có Phật Bà giáng thế.
Cứu con lành thoát bể,
Được yên tịnh non đoài.
Dầu còn những cốt hài,
Cũng huờn nguyên thân xác.
Mới gọi rằng Cực Lạc,
Mới biết diệu Nhành Dương.
Nay chư Phật chỉ phương,
Đời sao còn ngờ vực.
Trong việc làm đạo đức,
Thường được kẻ yêu dùng.
Sao cứ mãi ngại ngùng,
Không thiệt hành đứng đắn.
Tây Phương lời gởi nhắn,
Ta Bà cứ rán tu.
Để đến nạn lu bu,
Mới van lơn không kịp.
Đường lành sao bỏ líp,
Việc dữ cứ trình bày.
Đau ruột đức Như Lai,
Phiền lòng chứ Bồ Tát.
Tớ thầy tuy xa lạc,
Lời giảng vẫn còn y.
Sao chẳng khá xét suy,
Để thiệt hành cho đúng.
Lửa chiến tranh còn ngún,
Ngòi hoạn khổ chưa ngưng.
Dân sẽ dửng dừng dưng,
Trong một ngày đại họa.
Đến chừng kia không lạ,
Ở dưới đất trên trời.
Có đủ thứ giặc giời,
Sát hại người vô số.
Nào súng đồng tố rộ,
Lại ưng ó xé thây.
Cuộc biến chuyển nay mai,
Đời ơi ! Sao chưa tỉnh.
Mãi có lời mời thỉnh,
Mà chưa chịu thiệt tu.
Sớm tối cứ say gù,
Ba món đồ giả tạm.
Chư Phật rất bi cảm,
Thương tất cả quần sinh.
Dùng pháp nhiệm chuyển mình,
Khiến khẩu truyền nam nữ.
Ai nghe rồi khá giữ,
Khuyên đừng có bỏ rơi.
Mấy khi gặp Phật Trời,
Mở Từ Bi hỷ xả.
Người gặp đường công quả,
Cương quyết để lo làm,
Chân bước đến Kiều Lam,
Quyết tâm sang bến giác.
Dầu thân kia có thác,
Hồn nọ được siêu sanh.
Hơn sống chốn lợi danh,
Làm yêu tinh muôn thuở.
Lời nhủ khuyên tỏ rõ,
Mong lớn nhỏ chuyên cần.
Hãy gìn vẹn tâm thần,
Trên con đường chơn chánh.
Thương Đức Thầy khổ hạnh,
Tín đồ hãy cần âu.
Kinh sám hãy gối đầu,
Kệ cơ nên nhuần miệng.
Việc làm cần tinh tiến,
Trong những lẽ lương thuần.
Chuyên cố Bốn Điều Ân,
Lọc lừa hành cho đúng.
Đến sau này Thích Khổng,
Cả hai họ trùng hưng,
Chừng đó được vinh thân.
Khỏi phải sầu muôn kiếp,
Chúng sanh nay gặp dịp,
Đức Phật với Đức Thầy.
Kệ sấm để dẫy đầy,
Hãy coi mà hành chánh.
Xa thầy đừng xa tánh.
Đạo học hạnh phải cần,
Chừng có hội Long Vân.
Mới được gần Thánh Chúa.
Nay mây mù bay tủa,
Vầng nhựt nguyệt tạm mờ.
Chừng gió thổi một giờ,
Cả năm châu sáng rực.
Ai con người đạo đức,
Lẽ được sự thơm tho.
Tiên Phật đã hẹn hò,
Gặp nhau nơi Bỉ Ngạn.
Phụng Hoàng chờ các bạn,
Hổ Cấm đợi người tu.
Khuya sớm rán công phu,
Nữ nam đừng để trễ.
Nếu như ai trầm trệ,
Chừng tới việc đáo đầu.
Gặp muôn nỗi thảm sầu,
Họa người thêm họa vật.
Chừng ni đầu sát đất,
Cúi lạy mãi không rồi.
Dân chúng ơi hỡi ôi,
Tuồng đời gần chấm dứt.
Khi biến vi quả đất,
Lập lại cõi thượng nguơn.
Trên dưới biết đều ơn,
Quần thần đều trung chánh.
Cả ai cũng đức tánh,
Chẳng có cuộc ngỗ ngang.
Đó mới gọi kim hoàn,
Không còn điều ô uế.
Nay gần ngày biến thế,
Cả vật chất phồn hưng.
Dân chúng lại vui mừng,
Say mê ngày một đậm.
Đạo mầu không suy gẫm,
Lời kệ chẳng nghe vào.
Chừng có cuộc ba đào,
Mới tin lời Phật Thánh.
Tiếng nhủ khuyên bá tánh,
Lời kêu gọi chư gia.
Mong tất cả nhà nhà,
Nên thiết tha niệm Phật,
Có đôi lời thành thật.
Tới đây đã dứt lời,
Chào tất cả mọi người.
Hãy từ từ lui gót.

Tây An Cổ Tự, Ngày 30 tháng 8 Giáp Ngọ
(tức 26 tháng 9-1954).
  THÁNG CHÍN:
41- Đêm 11 Tháng 9 Giáp Ngọ: Thơ Ứng Khẩu giảng tại Chùa Không Môn

Đêm 11 Tháng 9 Giáp Ngọ: Thơ Ứng Khẩu giảng tại Chùa Không Môn

Đời nguy khổ chúng sanh rán liệu,
Đạo lu mờ thiện tín cần âu.
Cuộc chuyển luân khắp mặt địa cầu,
Việc thay đổi cả trong nhơn loại.
Đường chơn chánh khuyên người theo dõi,
Nẻo vạy tà mong đó chớ gần.
Niệm Phật thì phải sửa lấy thân,
Người tu tỉnh khá rèn tâm trí.
Coi kệ sám cầu tìm hiểu lý,
Để thật hành khỏi việc sai lầm.
Rất khó khăn ở cái vọng tâm,
Người học đạo phải nên kềm chế.
Nếu miệng nọ đọc rành kinh kệ,
Mà lòng kia chẳng chịu hành y.
Thì ngày kia gặp việc hiểm nguy,
Phật Tiên Thánh cũng không hề cứu.
Giọng vàng đã từ trên Linh Khứu,
Đưa lần ra khắp cõi Ta Bà.
Khuyên nữ nam khắp cả muôn nhà,
Hãy gắn chặt tình thương trăm họ.
Đời đã khổ chớ nên ghét ngõ,
Còn chiến tranh khuyên chớ ganh hiền.
Sự tu hành lẽ chánh cần chuyên,
Đường đạo đức chuyện tà nên gác.
Nếu muốn được sau này giải thoát,
Thì bây giờ Phật Pháp chuyên cần.
Hãy sớm chiều mở rộng lòng nhân,
Biết vùa giúp những người thiếu thốn.
Gặp phải lúc năm châu hỗn độn,
Sanh nhằm đời Mạt Pháp lao lung.
Được hữu duyên thầy tớ trùng phùng,
Kệ sám đã xem coi nhiều quyển.
Thầy vắng mặt ấy cơ lựa tuyển,
Để hiểu ai ngay thẳng một đường.
Phận môn nhơn giữ chữ hiền lương,
Hàng đệ tử gìn câu trung nghĩa.
Nhớ Đức Thầy đạo tâm trau trỉa,
Tưởng Phật Trời hạnh đức rán dồi.
Hỡi đạo đồng nam nữ khắp nơi,
Thầy còn khổ mình đâu sung sướng.
Từ khi dạo lục châu bành trướng,
Thầy tớ luôn chịu khổ nhiều điều.
Có gian truân chánh quả mới siêu,
Gặp cay đắng đạo mầu chóng tỏ.
Lời khuyên nhủ khắp trong lớn nhỏ,
Tưởng Đức Thầy chớ bỏ tu hành.
Đức Thầy thương những kẻ cần chuyên,.
Không gần gũi những người biếng nhác
Nếu thật tâm tìm phương giải thoát,
Dầu cháo rau đạm bạc cũng vui.
Miễn ngày kia gặp được gió xuôi,
Thuyền bát nhã về nơi bửu ngạn.
Nay chị Hằng phải phen mây án,
Nên giòng sông ra vẻ nhăn nhiu.
Ngắm nhìn lâu ruột thắt chín chiều,
Nghĩ cạn lẽ lòng se thêm chặc.
Thương đồng đạo lắm lời khuyên nhắc,
Mà chừng như ít kẻ nghe vào.
Mãi đua theo dù võng sắc màu,
Cứ tranh luận những điều hơn kém.
Lời Phật Thánh nỡ đành quăng ném,
Luật tuần huờn dạ chẳng cần tin.
Mãi nhắm theo vật chất chống kình,
Mạnh hiếp yếu khôn thời lấn dại.
Bao nhiêu việc từ bi bác ái,
Đã từ lâu trau trỉa dồi mài.
Trong thời kỳ vắng mặt Đức Thầy,
Việc ấy đã đổ sông đổ biển.
Chừng gặp phải ngàn tai muôn biến,
Rồi mới lòng hối hận kịp đâu.
Khuyên vạn gia đạo đức cần âu,
Mong thiện tín đường tu rán liệu.
Của giả tạm khuyên đừng bận bịu,
Đời hạ nguơn muôn việc đổi dời.
Nay ấm lành mai chịu tả tơi,
Điều cực sướng đổi thay mấy khắc.
Thương những kẻ gìn lòng được chặc,
Buồn cho ai để dạ lả lơi.
Tưởng chừng như Trời Phật xa vời,
Việc hành xử của người không rõ.
Lo tạo mãi điều hung chẳng bỏ,
Lại quên câu thiện ác đáo đầu.
Đời hỡi đời đừng tưởng còn lâu,
Việc biến chuyển thiên cơ rất cận.
Sợ quả đất một khi chuyển vận,
Biển thành cồn cồn lặn thành sông.
Phố phường kia trở lại ruộng đồng,
Ruộng đồng lại biến ra thành thị.
Thương những kẻ tại gia cư sĩ,
Lòng không quên hai chữ thiện từ.
Biết nghe lời của vị chơn sư,
Ngày kết cuộc quả dầy công lớn.
Buồn thương kẻ chơn hài chơn hớn,
Sớm lạt chay chiều lại rượu chè.
Đến ngày kia họa lại lập loè,
Kinh khủng mới lắm lời khẩn vái.
Phật tuy rất từ bi bác ái,
Nhưng khó dung kẻ quấy bớ người
Độ những ai hiền đức tốt tươi,
Đâu độ kẻ gian tà xảo quyệt.
Đã vô số chúng sanh thành Phật,
Mà mình sao còn mãi chuyển luân.
Hãy xét rồi tự hổ lấy thân,
Gấp trau trỉa cho mình siêu rỗi.
Thương đồng đạo nhân khi tụ hội,
Mượn lời kinh tiếng kệ nhủ khuyên.
Nếu những ai thật tánh làm hiền,
Nghe rồi thấy lòng mình chua xót.
Còn những kẻ theo phường bỡn cợt,
Thừa đông người chen lấn vui say.
Thì lòng đây muốn đó ra ngoài,
Hơn ở đó giở trò nhơ bẩn.
Đạo chỉ lựa những người tinh tấn,
Không trữ phường ô uế tục phàm.
Nếu những ai đến cửa Già lam,
Lòng chơn chánh mới là đúng lý.
Nam với nữ từ đây xét kỹ,
Thời kỳ này tai họa không chừng.
Mới buổi mai thì được an thân,
Chiều lại phải gặp điều vất vả.
Nay nhà cửa cùng là phố xá,
Coi xuê xang thạnh mậu vô cùng.
Biết đâu ngày biến đổi khắp trần,
Trở lại cảnh vu hoang thống khổ.
Chỉ có cõi Tây Phương Tịnh Độ,
Được nhàn an muôn thuở vậy thôi.
Ở thế gian sóng dập gió dồi,
Sự còn mất khác chi bèo bọt.
Luật nhân quả mấy ai thoát lọt,
Hành thiện lương lương thiện trả cho.
Còn vạy tà tà vạy theo giò,
Sự vay trả trả vay mầu nhiệm.
Khuyên đồng đạo kệ cơ rán kiếm,
Rồi nghiệm suy cho thấu lý chơn.
Mọi việc đời giả dối không chừng,
Chỉ có một tinh thần chơn thiệt.,
Nếu ai muốn khỏi ngày tận diệt
Thì từ nay hãy khá rèn lòng.
Mới mong rằng dự hội Hoa Long,
Và được cứu Tổ Tông Cha Mẹ.
Điều chơn chánh thiệt hành đủ lẽ,
Việc nghĩa nhân cư xử vẹn toàn.
Đối mẹ cha hiếu đạo lo toan,
Cùng đất nước lòng trung xử sự.
Với huynh đệ thuận hòa hai chữ,
Việc vợ chồng ân nghĩa đủ đầy.
Với xóm chòm lấy việc thẳng ngay,
Tránh tất cả những điều gây ó.
Việc lương thiện lấy chi làm khó,
Chịu thực hành sớm muộn cũng rồi.
Việc trần gian lắm nỗi bại tồi,
Theo chi nữa hỡi người dương thế.
Có chi sánh bằng kinh với kệ,
Lời nhiệm mầu của Phật dạy truyền.
Nếu hành y thành Phật thành Tiên,
Bằng sai phạm làm ma làm quỉ.
Sự biến đổi nay đà lộ vĩ,
Đất năm châu sụp đổ đã nhiều.
Chỉ còn chờ tiếng lịnh Thiên điều,
Cả non núi vỡ tan thì rốt.
Chừng đó cả dân gian hoảng hốt,
Không còn giờ niệm Phật bớ người.
Kệ cùng cơ nói đã cạn lời,
Kinh với sấm nhủ khuyên ráo tiếng.
Hãy tin tưởng đời còn biến chuyển,
Nên nhớ rằng nhân quả không sai.
Gieo ớt thì ắt sẽ ăn cay,
Trồng cam quít ngày kia dụng ngọt.
Việc vay trả mảy lông không sót,
Dường mũi tên bắn giữa hư không.
Cuối cùng rồi cũng trở lại đồng,
Việc phản ứng vô cùng mầu nhiệm.
Đường đạo diệu hãy nên tìm kiếm,
Thời kỳ này được gặp Phật Tiên.
Nhờ chúng sanh trước đã hữu duyên,
Nay trau trỉa thêm nhiều mới toại.
Sự nhắc nhở mong người sửa cải,
Lời nhủ khuyên chờ kẻ thực hành.
Khuyên đừng nên dối mị việc lành,
Ngoài đạo mạo trong lòng yêu quái.
Đã nói chánh hành đừng cho sái,
Ngoài sao thì trong vậy bớ người.
Mỗi gia đình đều có Phật Trời,
Thường soi xét một điều không sór.
Đường chơn chánh khá theo dõi gót,
Lẽ vạy tà lui bớt bớ người.
Thừa đêm nay khuyên nhủ ít lời,
Đến đây dứt chào người nam nữ.

Giảng tại Không Môn Tự, xã Nhơn Mỹ,
Đêm 11 tháng 9 Giáp Ngọ (tức 7 tháng 10-1954)
42- Rằm Tháng 9 Giáp Ngọ (Sáu Điều Chiêm Nghiệm)

Rằm Tháng 9 Giáp Ngọ: Sáu Điều Chiêm Nghiệm

PHẬT chẳng nhiễm trần phải xuống trần,
GIÁO đời huyền tạm cái phàm thân
HÒA quang lẫn tục cho người tỉnh
HẢO giới đang chờ kẻ thiện nhân.

Kính chào quý đồng đạo,
Khúc cây từ rừng sâu mới đem về, không khi nào tốt được, không khi nào thành hình được, cần phải nhờ tay thợ khéo đục bào, chạm trổ một thời gian, mới nên hình, thành vật.

Người tu hành cũng thế, lúc chưa hiểu đạo, thân còn đầy những điều lỗi lầm, đến khi vào đạo được sự giáo hóa của các vị chơn sư, bảo mình phải chừa bỏ những điều hư này, những thói xấu kia, mà mình đã quen làm, quen nghĩ từ trước.

Nếu các điều ấy mình cương quyết lau chùi, sửa đổi từ ngày này đến ngày khác, một lòng cố gắng dẻo dai, thì có thuở sẽ trở nên người tốt lành chơn chánh được.

Trái lại, sau khi vào đạo mặc dù lời Thầy tổ dạy bảo nhiều lần, mà mình chẳng vâng giữ thi hành, chẳng thành tâm phụng mạng, thì những tội lỗi, những mê si nơi thân tâm của mình, chẳng những không mất mát suy giảm chút nào, mà đôi khi vì sự quen lờn kinh pháp mà sanh ra tánh tình ngạo mạn, thêm tội trọng trong đạo Phật nữa.

Con người đã hiểu đạo mà cũng như lúc chưa hiểu, cái gì cũng không thay đổi, xấu vẫn còn xấu. Dữ cứ không chừa, thì thật là đáng tiếc. Cái lối khoát áo đạo đức bề ngoài, còn tâm trí chỉ trau chuốt những việc làm tổn thương ích kỷ, mặc thì mặc sang, ăn thì ăn ngon, ở thì ở lầu các, mọi phương diện gì cũng gác hơn người, mà cái gác ấy lại bằng kế mưu giảo quyệt. Thì đó là kẻ mượn lốt từ bi để tạo việc công danh, trái ngược tôn chỉ cứu đời của Đức Phật. Thật chẳng phải người tu vậy. Ngày kia kẻ ấy không khỏi đọa vào địa ngục, làm mất hột giống Phật, há chẳng đáng tiếc sao.

Thưa quý đồng đạo,
Sở dĩ tôi phải nói thế là ý tôi muốn toàn thể đồng đạo, trong sự hiểu đạo của mình, cần phải nhẫn nại kiên trinh, làm từ việc một của Thầy Tổ đã chỉ giáo, việc làm ấy cần phải nhiều hy sinh, nhiều nghị lực và có một đức tin hùng mạnh theo lời Đức Thầy, hơn lời cha mẹ, mới có thể theo dõi chí đức cao cả được. Cha mẹ sanh ra xác chất của mình, ông thầy đào tạo tinh thần cho mình, xác chất ấy có ngày tan rã, chớ tinh thần ấy bất diệt.

Đó chẳng phải một điều cao quý hơn sao. Vậy mình phải hết lòng tôn trọng Đức Thầy, vừa ghi nhớ, vừa thành kính và thật hành những điều của thầy dạy bảo, dù có gặp những khó khăn nguy hiểm trở ngại cũng coi thường.

Có cái gì đáng sợ hơn cái chết, thế mà người tu hành đã không sợ chết, thì còn sợ gì sự nguy hiễm. Có được như thế, mới thành công đắc quả được.

Trong thời gian gần đây. Nếu chỗ thấy biết của tôi không lầm, đồng đạo nhiều người đâm ra chán nản bổn phận, lơ là đức tin, do đó có nhiều hành động sơ xuất xảy ra, làm hoen ố thanh danh Phật Pháp, gây sự phiền tủi đồng môn.

Thật là một lỗi lớn đối với Thầy tổ, đối với quốc dân, đối với linh hồn của Tổ tiên ở suối vàng và tự giết mình mình, khó trở lại làm người ở kiếp hậu lai.

Thưa quý đồng đạo,
Đức Thầy nói sai chỗ nào mà chúng ta hờ hững, chúng ta phải đặt trọn lòng tin tưởng vào lời của Đức Thầy, là lời vàng ngọc, chẳng dễ gặp khó được nghe, ví để mất đi thì không tìm lại được.

Chúng ta phải đặt lời lẽ ấy trên hơn công danh phú quý, mới tránh được hành động tội ác và tránh được những ý niệm nhơ bẩn, không bị sự phản ứng của nhân quả làm đen đúa trí linh.

Mỗi ngày chuyên tâm làm việc lợi ích nhân sanh, nói những lời lành, làm những việc phước, khiến cho kẻ gần người xa cùng hưởng được ân đức.

Nhứt là nên tìm lẽ cao siêu, giúp cho trí óc người đời được mở mang khỏi sự lạc lầm, tránh những việc không hay, ngừa các điều tai hại về sau.

Nếu lòng mình được thế. Cũng nên khiêm nhượng, để tránh những việc ganh ghét của kẻ tật đố và nếu mình biết khiêm nhượng, kẻ khác biết khiêm nhượng, ai ai cũng khiêm nhượng đối đãi nhau. Tất chẳng còn cách lịch sự nào hơn, có được như vậy làm gì không đem lại vinh hạnh chung cho đạo và phần trí huệ cho mình làm gì chẳng phát hiện sớm, Ngược lại, người tu thì có, kẻ hành thì không, chỉ nói rỗng bàn suông, tâm tưởng vẫn vơ, trí suy mờ mịt, như cái hoa không hương không nhụy, như chuối thúi ruột, khó mong có buồng.

Thưa đồng đạo,
Vì sắp tận thế, mà các vị cứu đời phải lâm phàm thúc hối chúng ta, chúng ta cần phải trau tâm trỉa tánh, nói chánh làm chánh, nghĩ tưởng chánh, tôn thờ lẽ chánh. Đó là xây đắp con đường thẳng đến thượng nguơn.

Chúng ta không nên chần chờ, đợi nhà sập mới chỏi. đợi đói mới trồng, thì rất muộn màng. Huống lại nếu chờ gặp tai nạn mới tu, thì sự tu ấy đâu phải thành thật. Đó chỉ là lợi dụng lòng từ bi của Đức Phật cứu mình khỏi nạn, chớ nào phải có lòng cung kính. Với việc làm ấy, kẻ thế gian không ưa. Huống chi Thần Thánh há nhận sao và chúng ta khi đã hiểu rồi, chỉ còn cái thật hành, thì đây tôi xin trình bày vài việc, để chúng ta tuần tự thi thiết:

1- Cần phải hiểu ngay rằng cõi này là cõi khổ, cái khổ này nó không từ ai, nó chà xát tất cả quan dân. Ai sanh vào cõi này đều phải gặp khổ như nhau, nhưng cái khổ này có hơn có kém, tùy theo tội phước dày mỏng, tùy theo sự giác ngộ hay mê si.

Trong lúc cõi khổ này thì bên kia cõi Cực Lạc lại vui gấp ngàn muôn lần cõi phàm, vui cho đến người trẻ hoài không già, sống hoài không chết, mạnh hoài không đau. không may có mặc, không trồng có ăn, không cần xe cộ mà vẫn đi lại trong mười phương cúng dường các Phật, nhanh hơn điển chớp. Quốc độ ấy đất bằng vàng, nhà bằng ngọc, cỏ cây toàn bằng 7 báu.

Thật cõi ấy không cõi nào hơn, Song muốn về cõi này không khó, chúng ta cứ thành tâm niệm 6 chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”, ngày mạng chung tất được sanh về đó. Tại sao? Vì tha lực của Phật A Di Đà tiếp dẫn.

2- Cần phải chiêm nghiệm Sấm Giảng, lựa một phương pháp trong các phương pháp đã dạy trong ấy, mà mình thấy nó xứng hợp với trình độ của mình, để thật hành không quá sức, dễ đến chỗ thành tựu.

3- Cần phải nhận định được yếu pháp của mình đang tu, để hiểu rõ tại sao phải tu? Sự tu ấy đi đến đâu? Hầu tránh việc tu mù, luyện quáng.

4- Trong lúc cố gắng tu tập, thường gặp lắm trở ngại, lắm thử thách hoặc tiền của thử thách, sắc đẹp thử thách, danh vọng thử thách, rán giữ được trong sạch và xem thường mọi vật ấy. Tất khỏi sa ngã.

5- Khi ý niệm tốt đưa lại, mình cứ sử dụng ngay không nên dãi đãi, đừng tha thứ việc quấy của mình, đừng để (cho) ý quấy lấn được lòng tốt nơi mình, hãy xem xét sự tiến bộ của mình từ ngày một. Tất không bị thối chuyển.

6- Năm việc đã qua, tuy mình đã làm xong, nhưng cần phải làm thêm cho được kiên cố, mới không bị sự bất giác nào làm cho ta đứng dừng lại, có được như trên mới được thành công và cũng đáng nêu gương trong đạo.

Thưa quý đồng đạo,
Bất tất câu chuyện nào dù rất nhỏ mà không có chủ định và kiên nhẫn, chỉ nói suông, ắt không thành hình được.

Huống là việc đạo là một việc khó làm nhứt và lớn lao hơn hết, thì đâu phải nói khống mà nên được, muốn nên phải có chủ định và đầy đủ kiên nhẫn, lấy gươm trí cắt đứt dây oan, mượn tay thần xô ngã núi chướng, tâm vững như trụ đồng, chỉ muốn giải thoát chớ không muốn gì khác, thì mới mong thành được đạo.

Lại phải biết soi lòng, như soi mặt trong gương, lỗi cũng biết, phải cũng biết, lỗi thì chừa phải thì làm, mình hiểu mình hơn ai hết, tức mình sẽ trừ mê sớm hơn ai hết, mà chính mình được minh tâm kiến tánh chăng là ở chỗ đó.

Trái lại, mình chẳng biết mình thì đâu có rõ lỗi để mà tránh, đâu biết phải để mà theo, ngơ ngơ ngẩn ngẩn như kẻ mù không gậy, còn sự nguy hiểm nào bằng.

Buổi giảng hôm nay, tôi rất mong đồng đạo đem tấm chơn thành tuyệt đối, hiểu đời là khổ, rồi cố gắng để tránh khổ, quí Thầy là trọng, vẫn giữ lòng kính yêu cho đạo là cao, trọn đời không bỏ đạo. Lúc nào cũng bình tĩnh sáng suốt, biết người biết ta, phân biệt được tà chánh, không bỏ qua một việc phước đức nào mà không làm.

Đó là làm sáng nền đạo, làm đẹp lòng Thầy và làm cho mình được giải thoát.

(Rằm Tháng 9 Năm Giáp Ngọ - 1954)
43- Ngày 30 Tháng 9 Giáp Ngọ: Phóng Xả

Ngày 30 Tháng 9 Giáp Ngọ: Phóng Xả

PHẬT vui cõi báu ngự đài vàng,
GIÁO độ quần sanh xuống thế gian.
HÒA mặt trung ương cơ vạn nhứt,
HẢO tu đạo đắc kiến long tràng.

Kính chào quý đồng đạo,
Cái kho quan hệ ở cái khóa, mở được cái khóa tất mở được kho, tùy ý muốn lấy món gì trong đó cũng được, đạo quan hệ ở chỗ hành đúng sẽ đắc đạo. Khi đắc đạo hiểu rõ vạn vật như soi vào gương.
Người học đạo mà chẳng thật hành, dù ôm giữ cái đạo pháp ấy cả ngàn đời muôn kiếp, cũng chỉ như gà ấp đá chẳng bao giờ nở con.

Huống chi đạo pháp siêu mầu vô cùng vô tận. Ngay như các bậc bồ tát còn chưa khám phá tất cả, huống là kẻ phàm phu, há dám cho mình thông lãm hoàn toàn được ư !

Đã có hành đạo còn chưa chắc là đắc đạo nếu chỗ hành ấy thiếu quả cảm, thì với kẻ chưa hành đạo tất nhiên xa cách đạo muôn trùng.

Tuy quy y đạo Phật đắp mớ áo dà, ăn ít ngày chay, chỉ là phần phụ thuộc của sự tu, cần phải được quy y bên trong và màu dà nhuộm thấm tâm trí. Cả ngoài lẫn trong cùng một màu sắc đạo đức như nhau mới thật là người tu. Sự tu hành ấy thường trau trỉa không rời và sự tự tin mình sẽ thành tựu đạo hạnh.

Thưa quý đồng đạo,
Chúng ta muốn hành đúng đạo lý và muốn thành chánh quả, điều mà tôi được thấy là phải biết phóng xả.

Phóng những gì?
Bao nhiêu sự tập nhiễm của người từ lâu làm chướng ngại trí huệ, bây giờ cần phải buông phóng tất cả. Đừng chứa chấp một mảy nhiễm ô nào. Vì còn nhiễm ô thì còn đen tối, mà sự nhiễm ô ấy không ngoài tài sắc, danh lợi lôi kéo con người vào hố sâu tội lỗi. Vì nó phải hủy mạng biết bao người.

Kẻ đã giác ngộ đạo đức, tuy sống trong tài sắc danh lợi nhưng không bị cảm nhiễm, đó là Chơn đạo hạnh. Nếu ai hành được như thế là biết phóng.

Còn xả những gì?
Trên đường tu hành sẽ đụng chạm lắm việc gây go dễ làm thối chí, nhưng phải hiểu ngay rằng: Kẻ thế gian đâu được mấy người cùng biết giác ngộ như mình, thì làm gì họ không đem những việc chua chát đối đãi với mình.

Ấy chẳng qua là huệ nghiệp của họ còn kém, tuy sanh làm người mà còn tâm mê muội, không biết phân biệt sự cao quý của người tu và sự thấp hèn của kẻ không tu, nên họ chẳng kính nhường kẻ khác và hay gây gổ với ai đã lỡ phạm đến họ. Biết như vậy thì còn trách họ làm gì.

Huống chi ta gặp phải những chướng ngại hiện giờ, chẳng qua vì đức độ của ta còn mỏng, nên không đủ oai nghi phổ hóa người khác, mặc dầu người ấy biết rõ ta như thế nào. Vậy nên ta vui vẻ tu tạo công đức trí huệ thêm, không nên trách những chướng ngại bên ngoài.

Đó là kẻ biết xả, và có một điều cần nhớ kỹ, nên thương kẻ mê muội, rán tránh cho họ khỏi nổi cơn giận dữ làm nên tội trạng, đó cũng là một phương cứu độ và lấy lượng khoan dung cho người khi biết hối hóa, khiến họ cảm phục từ tâm, lần lượt theo con đường chánh mà dứt được lòng nóng giận, tham lam, phiền não. Như thế cũng là cơ phổ hóa.

Thưa quý đồng đạo,
Sống thời mạt pháp, kẻ tu hành biết phóng xả như trên chắc chắn thành tựu. Khi thành tựu, như ngọn đèn đã cháy sẽ mồi ra nhiều ngọn, dẫn dắt kẻ sơ cơ, người mê đắm trong chỗ dục lạc tối tăm.

Đó cũng là việc làm lợi ích cho kẻ học đạo và hóa đạo. Tuy nhiên, việc chưa gọi là đủ và cũng chưa vững chắc được cần phải phụ vào những việc dưới đây:

1- Mỗi người phải nhận ngay cõi hồng trần là nhơ bẩn, sanh trong cõi này chỉ vì nghiệp trước đã gây, nên phải trở lại đây để đền trả. Cõi này là cõi người dối nhau, chém giết nhau, mạnh được yếu thua, làm cho lắm kẻ đau buồn thật hận tủi. Nó có quý chỗ nào mà phải đắm đuối say sưa.
2- Đối chiếu cõi hồng trần có cõi Cực Lạc, mỗi vị ở cõi ấy mình vàng chiếu sáng, nét ngọc đoan nghiêm, ngồi trên tòa sen an nhàn tự tại, không gây gổ nhau, không lường lận nhau, đối đãi nhau bình đẳng. Cõi ấy khoái lạc vô biên, nhiệm mầu vô tận, cần nên mong ước cho được vãng sanh.
3- Ba muốn được vãng sanh về Cực Lạc cần phải sớm trị bệnh mê, chí tâm niệm Phật làm lành trọn đời không đổi khác.
4- Trị mê tâm cần trị tận gốc, nếu không đủ sức cương quyết một ngày thì phải nhiều ngày. Như lửa hầm đá, tợ nước xoáy đê, tất có một ngày đá nọ thành vôi, đê kia phải vỡ. Nếu không rành được lối, cần hỏi kẻ chung quanh nhờ sự chỉ bảo cơ đạo pháp tránh sự lạc lầm.
5- Bệnh mê nơi mình đã trừ, nên chỉ cách trừ mê cho kẻ khác, chẳng tiếc với họ một việc gì có thể làm phương tiện hóa độ họ về sau, việc làm này khiến người khác được ích lợi mà mình cũng được công đức, làm nguyên nhân cho việc siêu thoát.
6- Treo lớn tấm gương đức hạnh bên cạnh người đời, khiến họ đầy lòng tin tưởng để nuôi chí cầu đạo.Rán tránh đừng để sơ suất một việc nào, có ảnh hưởng tai hại cho kẻ xung quanh.
7- Phải làm được những việc kẻ khác không thể nhẫn được. Nêu cao cột trụ từ bi hỷ xả, cho xứng đáng người Phật tử, Nếu điều này làm được, tất là làm được hết 6 điều kể trước, mà đạo quả sẽ do đây thành tựu.

Thưa quý đồng đạo,
Các điều trên đây các vị cổ đức đã làm rồi, bây giờ chúng ta chỉ noi theo. Nếu không nghi ngờ, không dãi đãi thì sớm muộn gì cũng được toại nguyện.

Vả chăng, đời hạ nguơn đầy việc khó khăn, nếu sợ khó hoặc chẳng nhẫn được việc khó, thì đâu làm được việc ích lợi lớn cho đời. Vậy chúng ta đừng thấy khó mà nản lòng, hãy cương quyết đi tới, đòi hỏi sự thành công đúng như lòng mong ước.

Huống chi tình trạng đao binh trên thế giới ngày nay, không một nơi nào tránh khỏi mà đao binh là một đại khổ, nó chẳng nhường ai và không nể ai nếu ai gần nó.

Chúng ta tự thấy mình không thể riêng lấy sức mạnh mà đối chọi, cần phải phụ vào tâm hồn đạo đức nhu hòa để gây lấy duyên lành với kẻ chung quanh và nhờ sự ủng hộ của các đấng siêu hình mới khỏi thiên tai nhơn họa.

Còn nếu như có người đã làm đạo, tạo đức mà còn vương vít tai nạn, ấy là do nghiệp trước quá nặng, thay vì phải trả mười, ơn trên gánh thay cho, còn trả một hai cho đến khi dứt, để sau này được giải thoát viên mãn.

Lại cũng có trường hợp người làm hung mà được an ổn, vì nghiệp lành của họ trước kia còn dư. Chúng ta chớ lấy việc hiện tại, vội trách Trời Phật không công bằng sẽ có tội. Nếu kẻ nầy cứ làm hung mãi, tất phước kia sẽ hết. Khi phước hết họ phải chịu quả dữ trở lại hãi hùng. Khi ấy nếu chúng ta trông vào sẽ cảm động hơn là ghét bỏ.

Thưa quý đồng đạo,
Gần đây thấy nhiều người trong đạo vịnh vào cớ ngày giờ còn lâu, chẳng còn sức nhẫn nại được nữa, định ý nhảy ra cạnh tranh với thiên hạ. Điều này không biết anh em ấy nghĩ sao mà nỡ làm những việc nông nổi thế.

Vì nếu ra làm giàu sang quyền quý như người, ví được nhắm có thể giữ còn mãi chăng và cái giàu sang quyền quý ấy, có làm cho mình khỏi già, khỏi bệnh, khỏi chết không? Nếu chết thì của ấy còn ra gì, mà lại còn mang tiếng bội sư phản giáo.

Chi bằng nghèo mà thanh hơn giàu mà trược. Một lòng theo chánh đạo dầu thác không buông, dứt được mê si, xa lìa tà kiến, tất chận đứng được việc sinh tử, được tiếng tốt là người trọn trung vì đạo. Kế đó được lợi lớn là giải thoát kiếp luân hồi, biết đâu công phu dày dặn, còn dự được Hội Long Hoa, có phải là vinh diệu hơn không?

Thưa quý đồng đạo.
Đứa con trong gia đình làm điều nhuốc nhơ, kẻ làm cha mẹ đau khổ ngần nào, thì một tín đồ sái quấy Đức Thầy cũng đau khổ như thế, đau khổ vì quá tủi nhục sanh con bất hiếu, đau khổ vì để dòng dõi mang tiếng chẳng tốt trong thiên hạ, đau khổ vì đứa con chẳng làm vinh hạnh tổ tiên, đau khổ vì bầy con mất cả tình tương thân tương ái, đau khổ vì bầy con chẳng hợp sức làm việc lợi ích đồng bào xã hội, đau khổ vì đám con vô tình nhận chìm danh dự khí tiết của gia đình.

Đó là những điều đau khổ của người làm cha mẹ có đám con ngỗ nghịch.
Đối lại, trường hợp của Đức Thầy cũng đau khổ cho nền đạo lu mờ, tín đồ sa ngã như thế.

Vả chăng, dịp may không đưa lại nhiều lần. Kiếp này được có thầy dạy dỗ đạo lý, mà không lo tu, thì kiếp tới đâu tránh khỏi luân hồi lục đạo và chẳng nói chi xa hơn ngay trong kiếp này không thể gặp Hội Long Hoa chầu Phật nghe pháp.

Quý đồng đạo hãy nhận rõ rằng:
Càng dục vọng nhiều càng đau khổ lắm, mà chúng ta đã đau khổ nhiều kiếp rồi, chỉ vì mê mà chẳng nhớ được kiếp trước thôi. Bây giờ đừng tạo nghiệp đau khổ thêm nữa, hãy mau tu hành cầu đạo giải thoát, ngay như rễ lăng còn hóa thành lươn được.

Huống Chúng ta là giống hữu tình há không thành Phật được sao? Mà do dự chưa tiến tới và chẳng biết hẹn với loại thảo mộc.

Tóm lại bài giảng hôm nay, cần nhớ sự đau khổ của cõi Ta Bà, cầu sanh về cõi Cực Lạc, cần nhớ tiền bạc không làm khỏi chết, nên không tham dự đắm, cần nhớ đừng làm sái quấy để Đức Thầy phải đau khổ và phải biết thẹn với loài thấp hèn còn biết tiến hóa. Huống chi mình tự xưng linh mẫn hơn chúng nó lại để thối đọa sao.

Vậy cả trong đạo cùng biết đo lường như trên tất có ngày nên đạo:


Hãy tu tỉnh chần chờ chi bớ thế,
Máy tuần hoàn lần lượt đến bên thân.
Nếu kiếp này không lánh khỏi mê tân,
Chờ kiếp khác khó mong gì gặp đạo.
Phật Tiên thánh rất trông người hiền thảo,
Chúa Hiền Minh rất đợi kẻ trung thành,
Nếu biết tu thời phải biết thật hành,
Lánh tội lỗi để làm điều phước thiện.
Bầu trái đất mỗi ngày thêm luân chuyển,
Kiếp con người càng bữa mõi mòn lung.
Đời Hạ nguơn gặp phải lắm đều hung,
Kiếp tạm giả dường như bèo giữa biển.
Gặp Phật Pháp không gắng lòng tu luyện,
Mãn phần rồi nuối lại dễ gì đâu.
Đời chúng sanh muôn việc thảy âu sầu,
Kiếp nhơn loại ngàn điều coi dấp dới.
Ai cũng muốn cho đời mau đưa tới,
Đạo mầu sao chẳng chịu thật hành đi.
Luống nhọc lòng của các đấng từ bi,
Châu lưu cả ba miền gieo đạo lý.
Đời có mắt hãy trông xa xét kỹ,
Rằng kiếp này có thú vị gì đâu,
Cả bốn phương súng nổ thảy vang đầu,
Nhà Nam Việt mầm Đảng tranh còn nặng.
Cội đạo pháp nửa chừng ai để ngẵn,
Thuyền Từ Bi nửa biển nỡ buông chèo.
Giữa rừng hoang thiếu gậy chống đoàn beo,
Trong đêm tối không đèn mờ cả mắt.
Hơn hai triệu tín đồ ai để dắt,
Luống ngẩn ngơ lũ quạ xéo lưng trời.
Buồn thêm buồn non nước quá chơi vơi,
Tủi lại tủi lòng người chia chác cả.
Đây có phải Phật Trời ông nhồi quả,
Kiếp quần sanh một lần chót nầy chăng.
Phật không gần pháp vắng lại xa tăng,
Tình trạng luống buồn thiu lòng trẻ thảo.
Ánh nguyệt của cả đoàn người Phật giáo,
Giờ còn lu chờ đợi gió đưa qua.
Rừng mây đen một phút được bay xa,
Bầu trời đất mới trở hòa lẫn sáng.
Nay sùi sụt tơ lòng thêm rối loạn,
Nghĩ thời lai càng ngán biết dường bao.
Ngán lòng người nhiều sắc lẫn nhiều màu,
Ngán cuộc thế chưa hề dừng bước lại.
Con bất hiếu chẳng phải cha không dạy,
Vì tánh tình ngang dọc biết làm sao.
Trò lung lăng thầy phải lắm sầu đau,
Dạy chẳng được ngó về Tây niệm Phật.
Chỉ đợi lúc chuyển xây bầu trái đất,
Gặp nguy nàn con đỏ ngoái nhìn cha.
Chẳng còn toan theo mãi kẻ ngoài xa,
Quay về với cố thân lo tránh biến.
Hỡi đồng đạo thời cơ còn luân chuyển,
Sự tu hành liệu lượng sớm cho xong.
Được quý cao dòng giỏi giống Tiên Long,
Lại thêm đẹp tiếng con nhà Phật giáo.
Thế mà chẳng chịu trau thân gìn đạo,
Thời làm mồi cầy cáo có ưng chưa.
Dầu lao lung cũng đạm bạc muối dưa,
Vẫn tinh tấn một đường theo Phật Pháp.
Xưa Phật Tổ sáu năm mưa nắng táp,
Còn không nài huống lại chúng ta sao.
Mới mấy năm chưa có lắm gì đâu,
Chỉ đôi chút mà còn quên đạo lý.
Nếu gặp phải những điều qui hùng vĩ,
Thời còn đâu lập chí với người xưa.
Mảnh lòng từ thương chúng quá tốt thưa,
Hối hận nghĩa sầu đời càng déo dắt.
Chỉ đợi thuở thuận chiều tay nọ bắt,
Lèo lái kia trương thẳng đến bờ giang.
Cứu Song Linh thoát khỏi cảnh nguy nàn,
Đưa nhơn loại được về nơi cõi báu.
Nay chỉ muốn toàn cả người trong đạo,
Y luật hành một mảy chớ đơn sai.
Dẫu rằng mình gặp phải lúc nàn tai,
Chỉ trả quả đã tạo gây đời trước.
Nay chịu khó trau giồí điều thiện phước,
Gặp thời lai hưởng được phước nhàn thanh.
Muốn làm giàu của cải phải còn dành,
Mong thành Phật tu hành sao lại bỏ.
Rất mong mỏi toàn thể người lớn nhỏ,
Sớm với chiều kinh kệ phải thường coi.
Để tìm ra cho được tận cái ngòi,
Gieo rắm kỹ có ngày sanh quả tốt.
Nay đang sống cảnh muôn vàn hoảng hốt,
Còn chần chờ chưa lo việc tu thân.
Thì trước là chẳng giữ vẹn Bốn ân,
Sau lại phải làm buồn trong Thất Tổ.
Đời phải gặp muôn điều thống khổ,
Càng có cơ hóa độ đến cho mình.
Lấy từ bi để cứu vớt quần sinh,
Đem bác ái dắt dìu trong bá tánh.
Cần chú ý ở nơi phần Đức hạnh,
Biết thương người lại biết giúp cho người.
Biết hiếu trung một việc rất tốt tươi,
Biết nhân nghĩa là điều người quý báu.
Biết người cổ trọng vì điều hiếu thảo,
Biết đời kim thường phụ bạc ông cha.
Để trọn tìm việc phải giữ lòng ta,
Trong trắng được Thích Ca gần đó được,
Đời đã mỏng muôn vàn điều trói buộc,
Mở mối nào cũng được rảnh oan khiên.
Càng dấn thêm thì càng thấy khổ phiền,
Đồng đạo hãy nghĩ suy rồi tự giác.
Cõi Cực Lạc mùi hương bay bát ngát,
Chúng Ta Bà khói súng nặc nồng hơi.
Chẳng chịu tu còn đợi việc chiều mơi,
Tai họa đến trông gì ngồi niệm Phật.
Tu không phải ngồi chay như quả đất,
Cần phải hành việc nghĩa với những điều nhân.
Phải làm sao xứng đáng một con dân,
Và rạng vẻ môn nhân trong đạo Phật.
Khuyên đồng đạo nhận đây lời chân thật,
Gọi trẻ già nghĩ kỹ để rèn lòng.
Phải làm sao đạo hạnh được tròn xong,
Nên liệu lượng thầy trò ngày hội ngộ.
Khuyên chớ vội ném bầu nơi giữa lộ,
Rồi ngây ngô theo bả lợi mồi danh.
Cả lê dân còn gặp phải chiến tranh,
Già trẻ chữa được vui phần yên quý.
Mạnh gặp mạnh dễ nào đâu thua chí,
Tu gặp tu điều ấy hẵn nhiên nhiên.
Hễ làm lành về Phật hoặc về tiên,
Còn tạo dữ thành ma hay thành quỉ.
Nên suy xét thân mình rồi tự trị,
Đừng để phiền Trời Phật réo kêu lâu.
Dân tuy sầu mà thực ít đau sầu,
Phật vui vẻ lại lòng buồn bã lắm.
Đem giọt nước từ bi mong rưới thấm,
Kẻ trần gian chua chát chẳng nếm vào.
Thế thì là cội dứt chớ còn đâu,
Há gặp dịp nở nang mầu đẹp đẻ.
Nói rốt lý khuyên người suy cặn kẽ,
Hễ chịu tu thì lẽ phải chịu hành.
Tám điều răn hãy sớm liệu cho rành,
Mười việc thiện khá mau lo được trọn.
Mới tránh khỏi xác hồn ngày tiêu mõn,
Hầu lánh cơn nhân vật phải biến vi.
Cả ngày lòng chẳng ngớt niệm từ bi,
Nhờ oai lực siêu hình gia khẩu vệ.
Dùng đủ cách nào phú thơ giảng kệ,
Khuyên nhắc người để nhớ có thật hành.
Một làm cho đạo cả được được thêm danh,
Hai cứu rỗi quần sanh tiêu nạn ách.
Ba để đến ngày kia còn hồn phách,
Khỏi dật dờ mây khói lúc điêu tàn.
Bốn sẽ làm cho khắp cả nhân gian,
Ngày lập lại thượng nguơn còn sống sót.
Lẽ thứ năm từ bi nguyền nối gót,
Nêu đuốc lành khắp cả cõi nhơn gian.
Để cùng chung thiện tín bước nhịp nhàng,
Đến hoa hội dự tràng thi tuyệt diệu.
Chừng đó mới đạo mầu đà kết liễu,
Người tu hành khỏi nỗi lửa binh đao.
Hỡi đạo đồng liệu lượng để giồi trau,
Người hữu đức nàn tai đều được khỏi.
Kẻ có tiền tự chưng mình là giỏi,
Ngày lâm nguy khó chuộc được mình đâu.
Nghèo chẳng nên so sánh với người giàu,
Chỉ Lục Tự trau giồí câu đạo lý.
Kia sung sướng càng thêm nhiều ích kỷ,
Mình bần hèn hãy giữ được lòng thanh.
Giàu của tiền làm mất cả đức lành,
Nghèo thiếu hụt rán giữ phần trí huệ.
Đến buổi chót Đài Sen kia đến bệ,
Chầu Phật Vương toại nguyện đã từ lâu.
Lại còn thêm nghe được phép siêu mầu,
Của Di Lặc Ngài thuyết ra khắp chúng.
Nay khuyên hãy thật hành sao cho đúng,
Kệ với cơ tùy tiện cố trau thân.
Nhưng không ngoài gìn vẹn bốn điều ân,
Việc đất nước là phần lo trước cả.
Chẳng riêng nghĩ cho mình thong với thả,
Mà cần lo cho cả giống lẫn nòi.
Khỏi bị điều giày đạp của kẻ ngoài,
Được hạnh phúc yên nhàn lo tu tỉnh.
Kế đó phải trau giồí lòng hiếu hạnh,
Nhớ sanh thành dưỡng dục của mẹ cha.
Dầu lao lung cũng chẳng lắm nại hà,
Miễn cho được miếng ăn cùng tấm mặc.
Kế đó phải nhớ công người dẫn dắt,
Là nơi ngôi Tam Bảo ở thường ngày.
Phần trí linh của mình được sáng khai,
Nhờ giáo lý Phật Ngài ban rải khắp.
Lúc vào đạo được vững lòng tu tập,
Nhờ thánh tăng chiếu rọi mảnh gương lành.
Khiến cho mình soi lấy đó thực hành,
Mới vững bước đi đến ngày kết cuộc.
Sau rốt nhớ ơn người trong đất nước,
Là đồng bào xã hội ở chung quanh.
Để đem điều chơn chánh với hiền lành,
Ban giúp kẻ hưởng được phần phước lợi.
Con người biết thiệt hành điều đạo ngỡi,
Sống trong đời ai lại bỏ mình sao.
Còn những người riêng nghĩ đến sang giàu,
Quên kẻ khó chẳng chia tiền sớt gạo.
Rủi gặp ngày nàn tai cùng điên đảo,
Thời riêng thân chịu lấy khó kêu cầu.
Ở trên đời muôn việc có đáo đầu,
Họa hay phước tự mình lo tạo lấy.
Hỡi đồng đạo từ nay suy trái phải,
Để chọn lừa một việc đặng lo làm.
Của thế trần khuyên đó chớ lòng ham,
Đường đạo đức nhắn kia nên gắng gổ.
Mỗi khi nhớ Đức Thầy còn lao khổ,
Thì mình không nỡ hưởng việc sướng vui.
Tấm lòng tu mỗi bữa chẳng hề nguôi,
Tình sư đệ càng ngày càng trông nhớ.
Mặc dù phải đôi phen Tần cách Sở,
Có một ngày cá nước được trùng phùng.
Đến ngày kia mới gọi được thung dung,
Nay còn phải nhiều điều lao lý nữa.
Sợ dân chúng gặp mưa dầu nắng lửa,
Rồi tìm đâu để có ẩn thân sanh.
Bàn thông thiên kia thiệt rất hiển linh,
Chui vào đó cứu mình may được chớ.
Tuy trống trải nhiệm mầu người không ngỡ,
Hãy cần nên tin tưởng chớ xao lòng.
Lời nhủ khuyên trong khắp cả đạo đồng,
Nên suy xét tận tường rồi thực hiện.
Tiếng nhắn gởi đến đây là dứt chuyện,
Xin chào người đồng đạo hãy lui chân.

Mỗi khi nghe giảng mỗi ghi lòng,
Chẳng uổng lời khuyên chẳng luống công.
Già trẻ lần ba âu gắng tỉnh,
Mới là được dự hội Hoa Long.


Tây An Cổ Tự, Ngày 30 Tháng 9 năm Giáp Ngọ (Tức 26 tháng 10-1954)
  THÁNG MƯỜI:
44- Ngày 30 Tháng 10 Giáp Ngọ: Giúp Đời

Ngày 30 Tháng 10 Giáp Ngọ: Giúp Đời

PHẬT lý vô vi rất diệu huyền,
GIÁO mầu độ rỗi khắp chư duyên.
HÒA tu là cội gốc trồng Nam Bắc,
HẢO hiệp toàn dân cổi xích xiền.

Kính chào quý đồng đạo,
Một khổ lụa rất dài, không phải bỗng nhiên thành được mà chính nhờ kết hợp nhiều sợi tơ rất nhỏ và người chức nữ phải ra công dệt nhiều ngày mới nên được.

Trong lúc dệt lụa, người chức nữ kế sợi này chắp sợi khác, vẫn cố gắng không chán nản, mới làm khổ lụa dài ra được. Trong việc tu hành cũng thế, không phải đương không mà thành ông Phật ông Tiên, mà phải từ ngày này đến ngày khác tu hành trai giới, từ việc lành nhỏ đến việc lành lớn không bỏ. Nhờ công đức ấy mới thành công đắc quả được. Tại sao tôi phải nói thế? Bởi tôi được thấy có nhiều người muốn tu sớm mai chiều lại đắc đạo.

Nếu chẳng được như ý nguyện thì đâm ra chán nản, sự chán nản ấy thường dấp phải tội lỗi và tội lỗi ấy thêm lớn gấp bội những tội lỗi trước kia. Do đó tôi lấy làm áy náy đem câu chuyện dệt lụa để nói ra hôm nay.

Đó chẳng phải chỉ trích ai cả, mà để khuyến khích đồng đạo phải biết trì chí tu hành cho đến kết quả. Trong việc làm nào cũng vậy, phải có khó khăn mới có thành công quý đáng, còn dễ dàng kết quả ra gì.
Tại sao việc khó khăn quá sức nhẫn nại của người khác mà mình vẫn chịu được? Lẽ tất nhiên người ta phải tôn kính và nhắc nhở.

Sự tu hành của chúng ta cũng vậy. Kể ra trong đời chỉ có sự tu là một việc khó làm nhứt, bởi con người từ mới sanh ra cho đến lúc lớn khôn quen theo tục lụy, mà bây giờ bắt buộc họ lột bỏ không phải chuyện dễ. Nhưng khi lột bỏ được tính nết xấu xa rồi, ai lại không kính vì, không yêu mến và địa vị Phật Tiên sao lại không đến được.

Nhưng vào thời kỳ này, dẫu tu không thành chánh quả hiện tại được, thì cũng được phước tồn tại đến đời thượng nguơn. Đức Ngọc Đế và Đức Phật Tổ đem công đức ân xá tội căn của chúng sanh đã làm vừa qua, mà bây giờ biết ăn năn cải hối, nếu không đủ công quả để thành Phật thành Tiên, thì cũng được tồn tại đến thời thượng nguơn, tạo thêm phước đức làm thành nấc thang cho mình, đến địa vị cao siêu ở những kiếp tới.

Người lành ở thời kỳ này là của hiếm có khó gặp, nên chư Phật luôn luôn gia hộ. Nếu niệm Phật ít các Ngài gia hộ thêm nhiều, trí huệ hẹp các Ngài trợ trưởng mở rộng thêm, khiến mau thành đạo quả.

Thưa quý đồng đạo.
Không có dịp nào hơn dịp này, có Đức Thầy dẫn dắt gặp đạo pháp chánh chơn, như bệnh gặp thầy hay, mù gặp người sáng thì còn quý hóa nào hơn. Chúng ta không nên chần chờ, hãy cố gắng làm việc phải này đến việc phải khác, niệm tiếng Phật này nối liền tiếng Phật khác, làm như thế, niệm như thế không bao giờ quên, thì sớm muộn gì cũng nên đạo bồ đề.

Nhưng trong việc làm phước, không phải mỗi người đem tiền của vật thực bố thí mà có phước hết cả. Nếu trong lúc gặp người đói kém, đem của cho họ mà khởi lòng coi rẻ họ, tất không được phước nhiều.
Trái lại gặp người đói khát đem lòng thương xót, giúp họ như giúp mình mới có phước lớn. Thế nên phải hiểu Phật dụng tâm chớ không dụng vật, người bố thí cần quý chỗ ấy thì của thí ra mới quý.

Thời kỳ này rất cần ở việc làm phước, vì lúc giặc giã lắm người phải nạn đói kém, nếu mình có thể giúp được thì cứ giúp ngay. Vì họ rất trông chờ những ai biết thương đến họ.
Đó là phần vật chất.

Còn về phần tinh thần cũng không kém nghĩa quan trọng. Người ta hiện giờ càng làm lắm việc tội ác thì càng nên đem đạo lý chỉ bảo họ, khiến họ sửa đổi cách ăn thói ở cho đoan chánh, làm thành một xã hội người tốt, tất cứu được linh hồn họ.
Đó là một việc theo thuyết từ bi.

Thưa quý đồng đạo,
Muốn thành đạo theo tôi được biết, phải thật thành những chuyện như thế này:

Lễ thứ nhứt, lòng mình luôn luôn bình tĩnh trước việc làm, để lựa chọn việc nào hợp lý, có tánh cách lợi ích quần sanh, sẽ cố gắng làm ngay và làm cho đến khi được kết quả.

Lẽ thứ hai, đã giúp đỡ người đời mà lòng không mong hậu lợi, chẳng cầu ai khen, của đưa ra không nhớ, nơi tâm thường lưu chữ từ bi.

Lẽ thứ ba, tâm hồn giữ lặng như mặt nước hồ thu chẳng nhiễm ô lưu luyến vật nào, tự định tâm thần cho khai trí huệ.

Lẽ thứ tư, sau khi trí huệ mở khai, trên cầu Phật lực gia trì, dưới nhắm quần sanh tế độ, sẽ vì họ mà hy sinh tài sản và tánh mạng của mình, để giúp họ khỏi bề sanh cư thiếu thốn, khỏi lầm lỗi ngu si.

Lẽ thứ năm, trong lúc giúp đỡ người đời, xem ông A cũng như ông B không hơn không kém, đối kẻ thân cũng như người sơ chẳng ngọt chẳng chua, với ai cũng đãi ngộ bình đẳng, không chia ranh giới ngã nhơn.

- Lẽ thứ sáu, trong việc làm lợi ích cho mọi người thường được tinh tấn, giúp từ một người đến trăm người, ngàn người lòng cũng không chán nản.

Đồng thời, cực lực khuyếch trương đạo lý, từ một nước đến nhiều nước, từ một phương đến bốn phương, gieo rắc giống từ bi khắp cả chúng sanh, khiến ai cũng được giác ngộ cả.

Cái chí nguyện ấy, công việc làm ấy, đến chừng nào toàn cả muôn dân ai cũng mừng tỉnh giấc mê lầm, ai cũng nhận đường lành tuyệt đối. Nó là mẹ đẻ của hòa bình, nó làm nhựa sống của sanh linh, tất ý nguyện của mình được thực hiện.

Thưa quý đồng đạo,
Lần này như bao lần khác, tôi cố đem hết sức khuyên người thức tỉnh giác mê, chừa điều tội lỗi, Vì tôi biết điều đó là một nghiệp nhân đau khổ của chúng sanh ở bao nhiêu đời. Vậy đồng đạo hãy nhận đây là chánh lý để sớm sửa mình.

Đạo lý cao thâm lắm bớ người,
Trau dồi hôm sớm chớ buông trôi.
Ngày mai thiên địa xoay vần đến,
Những kẻ hiền lương được thảnh thơi.

Thảnh thơi nhờ được phước Trời ban,
Thêm nữa thường nghe đến giọng vàng.
Yếu lý thâm trầm trong đó cả,
Nên tìm sẽ được khỏi nhân gian.


Tóm tắt, bây giờ muốn sửa mình, không có cách nào mầu nhiệm hơn lối quan sát thân tâm, đừng lảng quên lúc lúc nào cả, hễ thấy nó máy động điều quấy thì chặn đứng ngay và tự hỏi nó máy động cho ai? Như máy động cho thân này thì thân này không phải thiệt, nó là một khối đất, nước, gió, lửa hợp thành, có ngày phải tan rã, dầu có máy động cũng vô ích. Xét như thế rồi sự máy động ấy lần lần lặng dứt.
Tâm của người là Phật, nếu thấy được tâm tức thấy được Phật, muốn thấy được Phật tâm cần biết quan sát và lặng dứt như thế.

Việc lành gắng gổ chớ buông trôi,
Niệm Phật luôn đi, đứng với ngồi.
Làm được những điều dân ích lợi,
Rốt đời Cực Lạc sẵn dành ngôi.

Dành ngôi cho kẻ thật trau lòng.
Rửa bỏ bao nhiêu nét bụi hồng.
Chiếu sáng gương lành trên vạn vật,
không còn để kiếp mãi long đong.

Long đong dương thế chịu ngày nay,
Xét tận chẳng qua một kiếp đày.
Để trả nghiệp xưa trần cấu tạo,
Dứt xong nợ thế đáo Bồng Lai.

Bồng Lai tiên trưởng xuống phàm gian,
Đã lắm công phu chỉ nẻo đàng.
Kệ sám đầu giường dân rán nghiệm,
Kẻo không tránh khỏi kiếp tân toan.
**
Từ nay gắng gổ làm lành,
Gái trai đều nhớ thiệt hành như nhau.
Lóng tâm kẻo để sóng xao,
Làm mờ chơn trí khó mau đắc thành.
Huệ thường bày chỗ tâm thanh,
Đạo thường kết ở tánh lành hiền lương.
Sự tu trau trỉa cho thường,
Kiếp chầy ắt được gặp trường bất sanh.
Không còn chịu khổ đau binh,
Được ngồi nơi chốn an linh thú nhàn.
Huệ là về cõi niết bàn,
Phước lành về cõi thiên đàng yên vui.
Trần gian trược khí nặc mùi,
Chịu đường sanh tử thêm hồi khổ đau.
Dẫu đời ngai vị tột cao,
Cũng không qua khỏi lưới rào Diêm La.
Chí tâm trì niệm Phật Đà,
Trước là hàng phục chư ma nơi mình.
Khi tâm tịnh với trí bình,
Thì ngàn muôn phép trong mình hiện ra.
Chừng ni Phật Tổ Di Đà,
Đem về Cực Lạc mới là an cư.
Đạo đồng lấy chánh duy tư,
Xét suy cạn nghĩ việc người việc ta.
Điều nào trái ngược Phật gia,
Thì nên cương quyết tránh xa chớ gần.
Muốn chầu Phật hay làm thần,
Vừa tu Tam bảo vừa cần nước non.
Giữ lòng một vẻ sắc son,
Ngày kia ắt được sống còn chẳng không.
Hiện giờ tớ Bắc thầy Đông,
Bao nhiêu khổ hãi dồn trong khoảng này.
Chừng nào tớ gặp được thầy,
Là ngày trên dưới hiệp vầy sướng vui.
Hiện nay trau trỉa cho rồi,
Sau đường đạo hạnh có mùi thơm tho.
Đừng nao trước cảnh gây go,
Đừng chiều những kẻ vạy vò ngu mê.
Tâm kia lặng lẽ một bề,
Mặt dù ai có nhúng trề chẳng nao.
Miễn mình trước cũng như sau,
Trắng trong một sắc một màu thì thôi.
Đường lành dù có xa xôi,
Gắng công bước mãi đến nơi có ngày.
Nhớ rằng kiếp chót bị đày,
Quả kia trả rảnh gặp ngày an cư.
Miễn mình tấm được chơn như,
Thì là khỏi cuộc hoại hư chớ gì.
Còn ai để mãi vít tì,
Ngày kia ắt khó mong gì tồn sanh.
Đạo Phật dạy việc làm lành,
Mình toan làm dữ đâu đành bớ ai.
Giúp dân cứu nước lòng ngay,
Sau rồi sanh chúng tạc nay miễu đình.
Còn lo lấy lợi vào mình,
Làm điều phi nghĩa nhân tình không tha.
Việc Phật lại với việc ma,
Đôi đàng chọn lọc lòng ta cho tường.
Phật Trời về cõi Tây Phương,
Còn ma ắt chịu Diêm Vương đến gần.
Mỗi ngày công việc mỗi cần,
Lấy đều chơn chánh trau thân mới là.
Nhủ khuyên đồng đạo gần xa,
Đến nghe giảng kệ khi ra rán gìn.
Làm sao cho tánh tâm mình,
Mỗi ngày mỗi được sạch thanh cho nhiều.
Nhớ rằng có tám qui điều,
Làm xong ắt được phước nhiều nhớ chưa.
Luân thường người hãy thích ưa,
Đạo nhân vẹn phận Tam thừa cũng xong.
Bây giờ cứ nghĩ viễn vông,
Chưa xuôi việc nước chẳng xong đạo mầu.
Ngày kia đến việc đáo đầu,
Thì mình lại chẳng ở đâu cho rồi.
Với thần không được vị ngôi,
Muốn về cõi Phật ôi thôi khó bề.
Bởi lòng chưa sạch các mê,
Hằng theo tà quỉ chịu bề khổ lao.
Bởi lòng quấy nhiểu đồng bào,
Phải mang tội ác sa vào kiếp lung.
Hai đường hai việc kiết hung,
Chọn sao được một để trung bớ người.
Nào tôi có dám ngạo đời,
Nói đây lời thật cho người xét suy,
Nếu lòng biết niệm A Di,
Làm ơn nhớ chữ từ bi cho thường.
Gặp ai nạn khổ nên thương,
Với người hối tội chỉ đường lo tu.
Sớm chiều hai buổi công phu,
Ngoài ra làm việc đền bù nghĩa dân.
Không nên độc thiện kỳ thân,
Hãy cần làm việc thôn lân được nhờ.
Chớ ngồi bàn nói thiên cơ,
Mà lòng chẳng chịu phá mờ cho xong.
Khác nào câu chuyện bong long,
Của người mù tối thả rong ngoài đường.
Sự tu xét nghiệm cho thường,
Việc cần làm được thiện lương mỗi ngày.
Đạo đồng già trẻ gái trai,
Nghe rồi lòng sửa cho ngay với lòng.
Thương thầy chịu lắm long đong,
Xuống trần dốc dạy con Hồng biết tu.
Mấy năm vừa rạng trăng thu,
Bỗng nhiên mây nọ che mù bốn phương.
Bao nhiêu khổ họa nhiểu nhương,
Làm cho tan rã tình thương xưa rồi.
Bây giờ hãy sớm vun bồi,
Cùng nhau siết chặc để dồi thiện lương.
Dưới trên cùng một tình thương,
Sớm làm chói tỏ Phật đường *kẻ nao.
Lòng mình cứ mãi chùi lau,
Tốt xinh việc ấy trước sau cũng thành.
Khi xem mình đã trọn lành,
Thì là Chư Phật đem tình cứu cho.
Gặp khi cảnh huống gay go,
Tự nhiên sẽ có chiếc đò sang sông.
Dầu rằng gặp thứ thiệt long,
Đụng đầu ác thú cũng không lụy mình.
Còn như tâm nọ bất lành,
Ngồi trong lòng Phật thân mình chẳng yên.
Bốn bên đều có thần tiên,
Mỗi người mỗi nhắm người hiền chở che.
Cuộc đời càng lắm khắc khe,
Phật Tiên càng phải lắng nghe lời cầu.
Chỉ trừ những kẻ độc sâu,
Vái van dầu lắm không đâu cứu mình.
Chỉ thường gặp lũ yêu tinh,
Hóa ra phép lạ hại mình đó thôi.
Đồng đạo ơi, đồng đạo ơi,
Sự tu thì phải hôm mơi giữ mình.
Đừng ham nghiệm chớ mê linh,
Hãy dồi tâm tánh của mình đấy thôi.
khi lòng tà quấy sạch rồi,
Phép kia sẵn có của trời ban cho.
Bây giờ người lắm âu lo,
Cũng không thể có ai cho được nào.
Hoa kia mùa tiết bước vào,
Tự nhiên nảy nở chớ nào tại ta.
Đạo đồng niệm chữ ma ha,
Lâu lâu sẽ thấy hiện ra sáng ngời.
Chừng ni khắp bốn phương trời,
Nơi nào cũng được hiểu rồi chẳng không.
Bây giờ mắt nọ khó trông,
Tai kia khó lắng bởi lòng chưa yên.
Nếu thân tâm mãi đảo điên,
Thì là tà kiến nghiệp duyên nó vào.
Chỉ xem ngàn sắc muôn màu,
Trộn pha rối rít chớ nào phân minh.
Đây là nói việc tâm bình,
Luận điều động tịnh chỉ anh khá cần.
Khiến nhau gặp Phật gặp thần,
Khỏi điều lao lý trong trần này lâu.
Lời khuyên già trẻ khá âu,
Nhớ ơn Thầy Tổ nghĩ câu hiền lành.
Muốn sao mình được vẹn mình,
Cứu trong cha mẹ siêu sanh mới mầu.
Lại làm dân nước đâu đâu,
Thảy điều nhờ nhõi khỏi âu tủi buồn.
Bây giờ đang lúc qua truông,
Hãy nên gìn giữ cho suông nẻo đàng.
Khuyên đừng tâm tánh hoang mang,
E khi vướng mắc hổ han bớ người.
Tâm kia tốt dạ nọ tươi,
Trước sau đều cũng một lời sơn minh.
Một lòng đạo quyết hy sinh,
Dẫu thân tan nát chẳng kinh tâm thần.
Đồng đạo ơi cuộc thế gần,
Bao nhiêu sự khổ trong trần chưa yên.
Thảm sầu cho giống Rồng Tiên.
Giặc ngoài bốn phía băng xuyên nước mình.
Nổ sao vang tiếng ình ình,
May phần Nam Việt được tình Phật Tiên.
Thế nên có chút ổn yên,
Hơn ngoài phía Bắc là miền khổ lung.
Lòng này nhớ nghĩa Sơn Trung,
Nghĩ ơn Thầy Tổ vô cùng chở che.
Tuy rằng đời mỏng tựa the
Mà người hiền vẫn được khoe rõ màu.
Bây giờ chỉ có khẩn cầu,
Lấy lòng nhờ Phật khỏi âu nguy nghèo.
Đạo đồng việc thiện rán đeo,
Nhớ ơn Thầy Tổ mà theo đến cùng.
Ngày kia bão tố đùng đùng,
Người ngay niệm Phật thoát vòng nguy nan.
Một là nhớ Phật Tây Phang,
Hai là nhớ Cựu chư Quan hộ mình.
Hiện giờ phải gắng tâm lành,
Để sao kết quả cho mình nhàn quang.
Đôi điều khuyên nhủ nhân gian,
Nhắn cùng đồng đạo hãy toan lấy lòng.
Đến đây chào hết đạo đồng,
Ra về tâm đạo khá phòng cho xa.
Chỉ tin ở một lòng ta,
Chớ nên vội tưởng ai là phép hay.
Giảng cơ khuyên nhủ đến đây,
Đôi lời đã dứt khoan thai ra về.

Tây An Cổ Tự, Ngày 30 Tháng 10 Năm Giáp Ngọ (Tức 24-11-1954)
  THÁNG MƯỜI MỘT:
45- Mùng 1 Tháng 11 Giáp Ngọ: Thơ Ứng Khẩu

Mùng 1 Tháng 11 Giáp Ngọ: Thơ Ứng Khẩu

Sự cao quý ở trong Phật Pháp,
Khuyên mỗi người khảo xét tận tường.
Phải tìm ra được những vị hương,
Ở trong ấy mới là mầu nhiệm.
Cứ hôm sớm một lòng tu *niệm,
Thì kiếp chầy cũng được đắc thành.
Khi kệ cơ mình được hiểu rành,
Thời cố gắng thực hành cho đúng.
Tùy theo chỗ đem ra sử dụng,
Đừng nghịch hành có hại cho mình.
Lấy đại hùng vẹt phá tà tinh,
Dùng bi mẫn đối người lầm lỗi.
Tùy mỗi cách để mình ứng đối,
Cho phù hòa mới được công thành.
Với những người chữ nghĩa chưa rành,
Thì nên nhớ giữ câu lục tự.
Lo niệm Phật lánh điều hung dữ,
Làm thiện lương bỏ việc gian tà.
Chữ từ bi dù trẻ hay già,
Đều có thể thật hành được cả.
Dốt chữ nghĩa chứ không dốt giả,
Rán nghiệm suy để dạ bớt người.
Việc hung sùng ai cũng hiểu rồi,
Nó là quấy phải nên ngừa tránh.
Việc tu tỉnh cũng cần tranh cạnh,
Tranh việc lành điều mạnh không tranh.
Miễn làm sao đạo cả đức danh,
Cho muôn họ thảy đều qui ngưỡng.
Lại ghi nhớ vào trong tư tưởng,
Những điều lành siêu việt hơn đời.
Phải soạn sành kinh kệ những lời,
Mà mình đã nhận cho chánh lý.
Hiểu được rõ thực hành cho kỹ,
Thì ngày kia ắt được thơm tho.
Đức Phật lo mình cũng rán lo,
Cho hai nẻo cùng nhau gặp gỡ.
Ai tạo nghiệp lỡ rồi rán mở,
Lo cho mình thong thả tâm hồn.
Việc tham lam trí huệ vùi chôn,
Điều sân nộ đèn linh dụt tắt.
Nếu ai muốn cho mình đạo đắc,
Việc tham sân chớ để trong lòng.
Nên nhớ rằng Phật dụng chữ Không,
Không danh lợi không lòng ô nhiễm.
Lại cũng nhớ Phật hay dùng kiếm,
Để cắt xong oan nghiệt trên đời.
Mùi hương lành bay tỏa khắp nơi,
Con từ thiện hãy mau ngửi đến.
Cõi Tiên Phật lòng kia trông mến,
Chốn Ta bà dạ nọ chán chê.
Mong làm sao sớm được trở về,
Nơi thượng thọ mới là báu quí.
Đời kế cận hãy nên xét kỹ,
Trễ thời kỳ khó thể tu hành.
Gặp việc lành nên rán làm lành,
Thấy điều ác hãy mau chừa ác.
Người sợ thác sao còn tìm thác,
Kẻ cầu sanh chẳng học trường sanh.
Cứ quay cuồng trong bã lợi danh,
Để chôn nhốt linh hồn nhơ trược.
Hãy suy nghiệm kỹ càng sau trước,
Rồi thực hành cho được điều nào.
Muốn nên hiền rán chịu khổ lao,
Đừng buồn bã những khi tai biến.
Lại phó mặc cho đời tai tiếng,
Hoặc rẻ khinh những chuyện mình làm.
Miễn cho mình nhập thánh siêu phàm,
Đến chừng đó người không rẻ rúng.
Mây mờ ám biết đâu thật trúng,
Nên người khinh là việc lẽ thường.
Miễn làm sao trọn chữ thiện lương,
Thì kết cuộc mới là cao diệu.
Kệ với sám cả ai cũng hiểu,
Hiền với lương già trẻ đều rành.
Thời chỉ còn khuya sớm thật hành,
Đừng lần lựa qua rồi rất uổng.
Đức Phật vốn là người cao thượng,
Lồng luôn luôn mến chuộng con lành.
Kẻ hung hăng quả Phật không thành,
Lại còn chịu đọa sa địa ngục.
Khi phải trở làm vòi nhoi nhút,
Hoặc làm người khổ cực ăn xin.
Kẻ đã ghi lắm đỗi tội tình,
Sự đày đọa xét không số kể,
Đời nguơn hạ xiết bao tồi tệ,
Người thiện lương tính kể thử nao.
Xét ở trong kẻ khó người giàu,
Hoặc những giới quan dân ngu trí.
Thật ít kẻ suy tầm chơn lý,
Thường nghĩ ra mối lợi mà thôi.
Còn trò đời lắm chuyện bạc vôi,
Các điều ấy nhởn nhơ trước mắt.
Đã thấy lắm tà tinh dẫn dắt,
Những con người đức tính không bền.
Nên mỗi người đạo quả muốn nên,
Cần một mực kỉnh tin Trời Phật.
Chẳng màng đến se sua vật chất,
Chỉ cần trau đức hạnh cho nhiều.
Quí ở nơi một bức vải điều,
Hiện hình chẳng cho là tâm hạnh.
Nay tuy thấy một màu trơ lạnh,
Chừng đáo đầu mới rõ diệu huyền.
Hỡi đạo đồng khuya sớm cần chuyên,
Ba chung nước rửa lòng chơn chánh.
Hương một nén thắp lên lấp lánh,
Cõi Tây Phương xem thấy rõ ràng.
Dành cho người lương thiện Đài Vàng,
Chừng thành tựu bước sang yên ngự.
Ngày Long hội nếu ai muốn dự,
Hiện giờ đây chịu chữ lao đao.
Nếu lòng mình chẳng chút núng nao,
Cứ một mực miệt mài đi tới.
Thì sẽ được qua An Lạc giới,
Cùng chung vui đức Phật Di Đà.
Hỡi đạo đồng đèn huệ chói lòa,
Trong đêm tối cậy nhờ nước bước.
Thầy vắng mặt chúng sanh vô phước,
Chịu mê mờ lạc bước rừng cầm.
Càng nghĩ suy càng bắt động tâm,
Vái chư Phật chuyển xây gấp gấp.
Cho thầy tớ một phen được gặp,
Khỏi còn lo lũ cáo dọa hăm hăm.
Lại mọi người cũng được tấn tâm,
Không còn để xác hồn dãi đãi.
Xét cho kỹ ở trong tam giới,
Ngàn muôn người thành đạo một người.
Tu thời nhiều chỉ sống coi đời,
Về cõi Phật ít người về tới.
Xét như thế Phật Tiên trông đợi,
Đợi ngàn muôn kiếp vẫn phải còn.
Tuy lòng kia một mực sắc son,
Chờ ngóng mãi cũng là chua xót.
Hỡi đồng đạo nơi tâm chuốt gọt,
Rán làm sao cho được bén trơn.
Mặc dù ngày thủy kiệt băng sơn,
Với lòng cũng thủy chung như nhứt.
Ai cũng giữ một màu đạo đức,
Thì trần gian đâu có khổ lao.
Cần yêu đương cả thảy đồng bào,
Để ban trợ ít nhiều phước huệ.
Thương người tức thương mình chớ nệ,
Lòng sạch trong đến cõi sạch trong.
Là một điều phản ứng chí công,
Ai suy nghĩ cũng đều hiểu thế.
Đạo với lý trưng bày xiết kể,
Hành cùng không một lẽ nữa thôi.
Người thật tâm khuya sớm trau giồí,
Xét cho kỹ thật là ít ỏi.
Lại cũng gọi con dòng cháu dõi,
Mà xét suy cốt chỉ lạc sai.
Tâm hồn kia theo mãi đời nay,
Chớ mấy kẻ theo người thượng cổ.
Thế mới làm nhơ tông nhuốc tổ,
Bày lắm trò hổ tộc hại dân.
Cứ noi theo dấu bước vua Tần,
Gặp hiền đức đem lòng giết hại.
Người suy gẫm ở trong nhơn loại,
Càng thêm buồn những kẻ hung đồ.
Bọn chúng không niệm chữ Nam mô,
Lại còn quấy những người bác ái.
Bọn chúng chẳng trì trai giữ giái,
Lại khắt khe những kẻ lương hiền.
Xét cho cùng đời chỉ dụng tiền,
Có mấy kẻ dụng hiền xem thử.
Dụng tiền bạc bạc tiền câu nhử,
Dụng thiện lương lương thiện thơm tho.
Cả muôn dân đều được ấm no,
Không còn cuộc cạnh tranh giết hại.
Luận việc thế với lòng đâu nại,
E nói nhiều người lại não lòng.
Thôi chỉ khuyên tất cả đạo đồng,
Khuya sớm vẫn hết lòng tu tỉnh.
Nơi Tam bảo thành tâm trọng kỉnh,
Với mẹ cha cũng phải hiếu thâm.
Đối đồng bào cần phải giúp giùm,
Tùy theo sức để mà gia trợ.
Lại thêm những cách ăn thói ở,
Cần giữ cho bặt thiệp lễ nghi.
Đối với ai cũng giữ đạo nghì,
Nói nói hay nín dung nghi tề chỉnh.
Thêm thường dụng lời thưa hoặc thỉnh,
Để đáp mời người với việc mình.
Trong lòng kia phải giữ sạch tinh,
Hôm sớm chú điều lành những thực hiện.
Phó mặc kẻ trần gian nhiều chuyện,
Chớ lòng người tu giữ sự lành.
Cứ thế mà khuya sớm thật hành,
Thì chắc được công thành quả đắc.
Đời nguơn hạ việc chi làm chắc,
Nay đổi dời mai lại chuyển luân.
Nào khác chi trứng vịt lưng chưng,
Trôi giữa biển lao chao từ chập.
Lo tu tỉnh sớm chiều cho gấp,
Rèn thiện lương mai tối được cần.
Lời khuyên này chẳng biết bao lần,
Chủ yếu chỗ từ bi tinh tấn.
Mong ai cũng trau giồí thân phận,
Được xong rồi bệ ngọc dựa kề.
Cõi trần này tạm giả đừng mê,
Cảnh Tiên Phật lâu dài rán tới.
Cần nhứt phải cầu xem Long Hội,
Vì đó là mục đích Bửu Sơn.
Nếu tu mà Long Hội không gần,
Kể như đã không thành được đạo.
Nên khuyên nhủ cùng nhau xóc xáo,
Kể từ đây phải rán chuyên cần.
Ngàn muôn thu mới có một lần,
Bỏ qua ắt không tìm lại được.
Nên nhớ kỹ thân đừng trói buộc,
Những trần gian tội ác từ lâu.
Lấy gươm linh thệ nguyện một câu,
Sát lục tặc tiêu trừ nghiệp chướng.
Nếu được vậy Phật Đài muôn trượng,
Mà thân mình vẫn được an ngôi.
Khổ Ta bà muôn việc dập dồi,
Vui chi phải say mê bớ chúng.
Hãy gấp gấp gieo trồng Phật chủng,
Chờ đơm bông kết trái hưởng an.
Ngày giờ này phải chịu gian nan,
Sau thong thả đó là thành quả.
Lời khuyên nhủ đạo đồng tất cả,
Kể từ nay giữa dạ sắc son.
Dầu mà cho biển cạn non mòn,
Lòng kia vẫn trơ trơ như một.
Gặp phải lúc nắng chang lửa đốt,
Mảnh lòng vàng trơ cứng một màu.
Giữ vẹn lòng cho được thanh cao,
Thì Thầy Tổ nào đâu có bỏ.
Lòng thương xót cả trong lớn nhỏ,
Tiếng gọi kêu từ chập từ hồi.
Mỗi khi Rằm hay bữa Ba mươi,
Không ngớt tiếng kệ cơ nhắc nhở.
Ai hữu chí thì nên ghi nhớ,
Người vô tình để bỏ mặc lòng.
Muốn cùng nhau được sự thơm nồng,
Nên chẳng quản những lời nhắc nhở.
Ai suy nghiệm tận tường hiểu rõ,
Đạo huyền sâu dễ có gặp nào.
Thì từ đây khuyên hãy chùi lau,
Tâm tính ấy một ngày một tỏ.
Trước khi dứt lời khuyên lớn nhỏ,
Chúc cho nhau sớm rõ cơ huyền.
Lại mọi người đều được phước duyên,
Gặp Thầy Tổ trong ngày kết cuộc.
Ai cũng khỏi trần gian trói buộc,
Lại được câu hạnh phúc vĩnh miên.
Mới thật là con cháu Rồng Tiên,
Đất chữ “S” sáng soi muôn trượng.
Muốn ai cũng huệ mầu được hưởng,
Chuông linh đài tai được lóng nghe.
Khỏi còn trong màn mỏng lưới the,
Chịu hâm dọa mỗi ngày đao kiếm.
Của quí ở kệ kinh rất hiếm,
Rán tìm tòi kẻo uổng bớ người.
Lời nhủ khuyên cạn nghĩ mọi lời,
Đồng đạo nhớ đừng lơi một phút.
Một lần nữa tôi xin cầu chúc,
Cho vạn gia sớm khỏi chiến tranh.
Cùng dưới trên hưởng cuộc thanh bình,
Của chư Phật rải ban khắp cả.
Lại thêm được cùng chung một dạ,
Không còn mưu xâu xé lẫn nhau.
Thế mới là son sắc một màu,
Khắp thế giới thêm vào kính nể.
Đến đây đã dứt xong lời kệ,
Xin đạo đồng tuần tự lui chân.

Tây An Cổ Tự, Mùng 1 Tháng 11 Năm Giáp Ngọ (Tức 25-11-1954)
46- Thơ Ứng Khẩu (Cuối Năm Giáp Ngọ)

Thơ Ứng Khẩu (Cuối Năm Giáp Ngọ)

Sự tu dù có gian lao,
Với lòng nam nữ vẫn trau cho thường.
Nhớ xưa hồi lúc nhà Đường,
Có ông Tam Tạng Tây Phương tiến hành.
Gặp nhiều ma mị yêu tinh,
Với lòng Lục Tự khắn gìn chẳng buông.
Nhờ ni được khỏi buội truông,
Qua bờ giác ngạn rõ nguồn Phật tôn.
Khuyên người khá giữ linh hồn,
Chủ trì thân xác mới khôn đời này.
Coi thường những việc tà tây,
Đừng màn nó vật chất có ngày thảnh thơi.
Phải ăn phải mặc như người,
Nhưng lòng chẳng mến ấy đời thần tiên,
Quần sanh cõi hạ hữu duyên.
Cho nên gặp Phật gặp Tiên đời này,
Hãy nên một dạ theo Thầy,
Ngày kia gặp hội rồng mây vui mừng.
Bây giờ thời cuộc chuyển luân,
Tớ xa thầy rất bâng khuâng tất lòng.
Nhìn nhau như cá ròng ròng,
Cậy ai dẫn dẫn khỏi hòng mòn hao.
Chỉ nên thương lẫn cùng nhau,
Anh em dìu dắt khỏi lao khỏi nàn.
Lợi danh quyền tước không màng,
Chỉ lòng đạo đức bủa tràn khắp thôi.
Coi thường những kẻ bạc vôi,
Tin rằng việc ấy có trời định phân.
Bao giờ những kẻ vô ân,
Sống đời làm được nên thân điều nào.
Những người tâm chánh chùi lau,
Có ngày cũng được hết thao hóa vàng.
Dầu rằng gặp phải gian nan,
Đạo đồng ơi hỡi chớ than chớ phiền.
Có nhiều khúc chiết truân chuyên,
Mà lòng gắng gổ thần tiên mới gần.
Xưa nay làm Phật làm thần,
Có ai mà được sướng thân bao giờ.
Chịu nhiều lao lý chớ ngơ,
Ngày kia sẽ được giác bờ đến nơi.
Đời ơi, Đời ơi, Đời ơi,
Tam nguơn sắp hạ đôi nơi chan hòa.
Được may gặp chỗ yên nhà,
Tạm dừng đôi lúc để mà bước đi.
Chớ đâu có phải ngồi lì,
Phó cho còn mất thạnh suy cuộc đời.
Muốn sao sớm vén màn trời,
Để cho kẻ thiện được nơi vui mừng,
Bây giờ thiệt quá lưng chưng.
Ngồi không yên chỗ cất chưn chẳng rời.
Thiệt là lỡ đứng lỡ ngồi,
Lỡ tu theo Phật lỡ bồi việc nhân.
Nhưng mà đạo có Bốn ân,
Tùy nghi sử dụng cho cân mới là.
Lúc yên thì vẫn tu nhà,
Khi nguy tu nước mới là biết tu.
Ngoài thời làm việc lu bù,
Trong lòng hai buổi công phu cho thường.
Ấy là đấng Minh Vương,
Nếu nhiều đức cũng Tây phương dựa kề.
Đạo đồng nên phá gút mê,
Ắt chầy kiếp cũng tựu tề Kim Sơn.
Thời này dân chúng hữu duơn,
Biết câu lục tự sửa thân sớm chiều.
Khổ lao Kiệt, Trụ bấy nhiêu,
Gặp khi sung sướng Thuấn Nghiêu cũng bằng.
Ai ơi tu phải cần năng,
Chế nên vội vã bỏ lăn Phật Trời.
Bán đồ nhi phế nhiều người,
Ấy là duyên mỏng hạnh thời còn thô.
Nên không bền niệm nam mô,
Lại theo văn vật là đồ dối ma.
Chỉ lòe để gạt người ta,
Ngày kia dắt xuống Diêm La cho nhiều.
Ham chi quần lụa áo điều,
Trò đời dối mị càng nhiều càng lo.
Miễn sao hai bữa được no,
Chắp tay niệm Phật Phật cho sen vàng.
Chừng ni dầu có của ngàn,
Cũng không mua được một tràng gương trong.
Hỡi này lớn nhỏ đạo đồng,
Tai nghe rồi để vào lòng nhớ phai.
Tôi cùng đồng đạo phen này,
Quyết tu cho gặp Đức Thầy ngày kia.
Chi bằng tánh đạo trau tria,
Lo nuôi tư tưởng một bề sạch trong.
Dầu cho đất ở trời long,
Với tâm khắn chặc như đồng vậy thôi.
Có ngày cũng được an ngồi,
Khỏi còn luân chuyển trong đời phàm gian.
Lời khuyên đồng đạo nhiều phang,
Quyết tâm nhắc nhở để toan điều lành.
Nhưng người nghe nhớ để hành,
Xét qua thì ít tập tành cho xong.
Nếu tâm kia để long chong,
Lối đường chưa quyết ắt không cứu mình.
Lại còn gây hại gia đình,
Làm con thất hiếu khổ hình phải mang.
Đạo đồng nay phải sửa sang,
Tổ tiên chờ ngóng con toan đạo mầu.
Để cùng đưa đến Nam lầu,
Gặp nhau cho tọai bấy lâu kẻo phiền.
Bây giờ khuyên hãy cần chuyên,
Tâm kia chỉ một lẽ hiền vậy thôi.
Chừng nào hết kẻ bạc vôi,
Không còn hung bạo đứng ngồi vui say.
Bây giờ non nước rẽ hai,
Muôn điều rối rắm đắng cay trăm bề.
Phương Nam núi báu quay về,
Con lành được phúc tựu tề hưởng ân.
Bây giờ cầu Bửu cầu Sơn,
Cầu Kỳ Hương giúp khỏi cơn khốn nàn.
Chừng nào Phật lịnh đem troàn,
Không còn thấy cảnh rừng hoang lu mờ.
Lại là bày lộ thiên cơ,
Rõ màu cổ tích khỏi ngơ cõi lòng.
Bây giờ đạo hạnh gìn xong,
Ngày kia sẽ được thỏa lòng ước ao.
Trong khi hành đạo làm sao,
Là nên giữ chánh trước sau một niềm.
Quyết cho gương sáng cổ kim,
Mong làm chư Phật sớm tìm cứu an.
Không nên để tánh hoang mang,
Nay theo văn vật mai toan tu hành.
Sớm hung chiều lại toan lành,
Nay vầy mai khác bất sanh bớ người.
Sự tu như thể sự đời,
Làm giàu phải được của thời dành lâu.
Còn tu nhờ phải công phu,
Lo làm đức hạnh cho sâu mới thành.
Nhược bằng tâm tánh linh đinh,
Đường kia chưa quyết không nên mảy nào.
Từ đây đồng đạo chùi lau,
Cho tâm được sạch một màu bớ ai.
Nếu như đồng đạo gái trai,
Thương Thầy thời phải hôm mai tu hành.
Giảng cơ xem xét cho rành,
Giữ gìn được đúng mới tinh người hiền.
Còn như trau trỉa mặt tiền,
Mà lòng ô uế khó thiềng cõi không.
Phật Trời chỉ dụng tấm lòng,
Bằng không chơn chánh Phật không dựa gần.
Không như những kẻ hồng trần,
Chỉ lo vật chất quên phần hư vô.
Từ đây đồng đạo điểm tô,
Làm sao thuần niệm nam mô mới là.
Niềm cho thấy Phật Di Đà,
Từ phương Tây bỗng hiện qua tới mình.
Rờ đầu hoặc dụng oai thinh,
Để là thọ ký ắt thành quả cao.
Nhược bằng tâm cứ xuyến xao,
Phật không thể hiện trần lao lại bày.
Nếu tâm loạn động mỗi ngày,
Dầu tu ngàn kiếp liên đài chẳng lên.
Ngày giờ đưa lẹ như tên,
Kiếp người thảng mản bỏ quên thấy già.
Không tu không niệm Di Đà,
E cho đến thác khó mà ăn năn.
Đợi chừng tà quỉ bủa giăng.
Rồi lòng mới tỉnh đâu bằng như nay.
Đạo đồng tâm chánh đừng quay,
Việc hiền chớ lảng gặp thầy cứu cho.
Cùng chung nhau một để lo,
Lo cho đời đạo thơm tho muôn nhà.
Hãy quên những chuyện riêng ta,
Để lo cho khắp bá gia được nhờ.
Hãy xem cho kỹ kệ cơ,
Dụng câu bác ái để thờ trong tâm.
Nhớ câu vi diệu thậm thâm,
Làm hiền có thuở Quan Âm cứu mình.
Giúp người chỉ với thật tình,
Không cần người biết kiếm mình trả ơn.
Bây giờ gìn vẹn xác thân,
Trên con đường chánh cho cân mỗi ngày.
Sau này lập hội non đài,
Có Tiên Phật trổ phép tài cho xem.
Xem coi những kẻ luốt lem,
Bị gươm ba thước càng xem càng buồn.
Ấy là huyền bí vỡ tuồng,
Bây giờ như chỉ rối cuồng chưa phân.
Nên chi lắm kẻ vô ân,
Lắm người phi nghĩa không cần sự tu.
Để làm cứ mãi mờ lu,
Khác nào nhà tối âm u mỗi ngày.
Bao nhiêu ma quỉ hiện bày,
Dắt người đến chỗ gốc gai thì nhiều.
Khuyên nhau gìn vẹn luật điều,
Làm nhơn nói chánh nghĩ theo việc hiền.
Hãy nên trọng nghĩa khinh tiền,
ấy là nối chí thánh hiền chẳng không.
Tu hành hai chữ phải thông,
Phật nhơn đôi lẽ tấm lòng vẹn hai.
Sớm chiều chớ lạt đừng phai,
Trước sau như một có ngày thảnh thơi.
Nhủ khuyên đồng đạo nhớ lời,
Từ đây gắng gổ gìn thời chớ buông.
Chừng nào qua khỏi ác truông,
Đến nơi bằng thẳng hết buồn đổi vui.
Đến đây đạo mới nực mùi,
Ai ai cũng mến cũng vui cũng gần.
Bây giờ còn quá ngã nhân,
Bởi lòng háo ố chưa phân lẽ nào.
Nên chi còn lắm gian lao,
Còn nhiều gai ngạnh biết sao bây giờ.
Đạo đồng xem lại kệ cơ,
Thương thầy tưởng đạo chớ ngơ ngẩn lòng.
Đạo đồng ơi hỡi đạo đồng,
Biết tu hãy nghĩ đã hòng nhờ ai.
Nhờ Thầy dìu dẫn hôm mai,
Cho mình được khỏi đọa đày hồn linh.
Nếu lòng chơn chánh hãy gìn,
Lánh điều tà mị chớ kình địch chi.
Ngày kia khỏi nỗi hiểm nguy,
Được gần Thầy Tổ xiết chi thanh nhàn.
Bây giờ khuyên giữ đạo tràng,
Chữ tu một mực chớ toan đổi dời.
Chừng nào dám nói một nơi,
Ắt là sẽ được thảnh thơi muôn vàng.
Đây khuyên đồng đạo sửa sang,
Nhớ thì lo liệu không toan tại mình.
Ngày kia chừng gặp tà tinh,
Vái Trời Trời chẳng cứu mình được đâu.
Phật Tiên tuy đủ phép mầu,
Chỉ dành độ kẻ đức sâu công dày.
Chớ đâu giúp kẻ tà tây,
Thêm sừng cho cọp hiện nay chẳng lành.
Thôi thôi tóm tắt điều lành,
Nhủ khuyên đồng đạo thiệt hành cho y.
Kệ cơ giảng giải khá ghi,
Đến đây đã dứt cùng đi ra về.
Dứt giảng xong rồi ở nữ nam,
Việc tu mai tối cứ gìn kham.
Con đường văn vật đừng tranh cạnh,
Có thể thân kia được thoát phàm

HẾT - THUYẾT PHÁP ỨNG KHẨU

 HẾT THUYẾT PHÁP ỨNG KHẨU


Đánh giá bài viết

4.98/32 rates

Đăng nhận xét

Cảm ơn Đạo Hữu đã đóng góp. Chúc Đạo Hữu một ngày an lạc! A Di Đà Phật